Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

LỄ hội – một nét đẹp TRONG đời SỐNG văn hóa TINH THẦN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

LỄ HỘI – MỘT NÉT ĐẸP TRONG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA TINH THẦN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.s. GVC. Nguyễn Thanh Sơn

Trần Thị Hạnh
MSSV:6077779
Lớp: SP. GDCD 02-33

Cần Thơ, tháng 5/2011

1


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 01
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................01
2 Mục đích nghiên cứu....................................................................................02
3. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................02
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................02


5. Kết cấu của đề tài.........................................................................................02

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................03
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LỄ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH
THẦN ..............................................................................................................03
1.1 LỄ HỘI VÀ CHỨC NĂNG CỦA LỄ HỘI. ....................................03
1.1.1 Khái niệm về lễ hội .......................................................................03
1.1.2 Sự hình thành và chức năng của lễ hội .........................................04
1.2 TÍNH THẨM MỸ VÀ TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA LỄ HỘI..........08
1.2.1 Phân loại lễ hội..............................................................................08
1.2.2 Tính thẩm mỹ của lễ hội................................................................ 11
1.2.3 Tính cộng đồng của lễ hội ............................................................. 16
1.3 KHÁI NIỆM VĂN HÓA TINH THẦN VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LỄ HỘI VỚI VĂN HÓA TINH THẦN..............................................28
1.3.1 Khái niệm văn hóa tinh thần..........................................................28
1.3.2 Mối quan hệ giữa lễ hội với văn hóa tinh thần ............................... 29
Chương 2. GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA LỄ HỘI ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN VIỆT NAM ...........................................................33
2.1 CÁC GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI...........................................................33
2.1.1 Lễ hội đề cao và khuyến khích những phẩm chất tốt đẹp của
cộng đồng .........................................................................................................33
2.1.2 Lễ hội – nơi thể hiện thẩm mỹ của cộng đồng ............................... 37
2.1.3 Lễ hội đề cao cái cao cả, cái bi, cái hài ..........................................40
2.1.4 Cái hài trong lễ hội góp phần đề cao tình cảm yêu – ghét của
cộng đồng .........................................................................................................42
2.2 VAI TRÒ CỦA LỄ HỘI ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG .........................43
2


2.2.1 Lễ hội biểu hiện một giá trị xã hội của một cộng đồng ..................43

2.2.2 Lễ hội mang lại khoảng thời gian nhàn rỗi và cuộc sống phong
phú, thoái mái hơn ............................................................................................ 45
2.2.3 Lễ hội nhắc nhở người ta sống trật tự, mực thước..........................47
2.2.4 Lễ hội hoàn thiện các chủng loại văn hóa, văn nghệ và tạo điều
kiện cho sự tái tạo của mỗi người trong lĩnh vực hoạt động của mình ...............49
2.2.5 Lễ hội có chức năng cố kết cộng đồng...........................................50
2.2.6 Chức năng đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần của lễ hội.........52
2.3 THỰC TRẠNG TRONG SINH HOẠT LỄ HỘI HIỆN NAY Ở
NƯỚC TA .......................................................................................................54
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG GIÁ
TRỊ TÍCH CỰC VÀ KHẮC PHỤC HẠN CHẾ CỦA LỄ HỘI HIỆN
NAY.................................................................................................................62
3.1 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LỄ HỘI CỦA XÃ HỘI HIỆN
NAY.................................................................................................................62
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍCH CỰCVÀ
KHẮC PHỤC HẠN CHẾ CỦA LỄ HỘI HIỆN NAY...................................64
a)
sản

Tăng cường quản lý lễ hội truyền thống từ góc độ quản lý di
64

b)

Tăng cường quản lý lễ hội truyền thống bằng các biện pháp

tuyên truyền, giáo dục cho người dân thông qua dư luận xã hội ........................67
PHẦN KẾT LUẬN CHUNG..........................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................73


3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra được duy
trì, lưu truyền và tồn tại với thời gian. Lễ hội được xem là một trong những tiêu chuẩn
quan trọng nhất để đánh giá sự tồn tại và trình độ phát triển của một dân tộc. Đó là một
loại hình sinh hoạt đặc biệt có tính văn hóa, tập thể phản ánh tín ngưỡng và sinh hoạt
của người dân trong lao động nông nghiệp, lao động các ngành nghề hoặc trong việc
hình dung lại các sự kiện lịch sử.
Đối với hầu hết các tộc người trên thế giới, nhất là những nhóm cư dân nông
nghiệp, lễ hội có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và đời sống xã hội. Lễ hội
chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, tâm lý và tôn
giáo tín ngưỡng của tộc người và của địa phương. Ở Việt Nam, lễ hội ngày nay đang
trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần trong đời sống cộng đồng. Lễ hội
là một loại hình thiết chế văn hóa, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
gắn với tín ngưỡng tâm linh, giáo dục đạo lý, cố kết cộng đồng trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ quê hương đất nước.
Phần lớn các lễ hội đều gắn với các di tích lịch sử, văn hóa. Phương thức tổ chức
và nội dung của lễ hội có sự kết hợp, đan xen giữa các tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng thần hoàng làng, tín ngưỡng tôn giáo thể hiện qua các lễ hội tổ
chức ở đình, chùa, đền với các ý nghĩa không chỉ đơn thuần mang đến yếu tố tín
ngưỡng thuần túy mà còn là hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần mang đậm truyền
thống, đạo lý tôn kính tổ tiên “Uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ công lao các vị anh
hùng dân tộc có công xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước, những bậc tiền nhân đã
truyền nghề, mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Sự phong phú của lễ hội là nét đẹp văn hóa dân tộc, là hoạt động mang tính cộng
đồng sâu sắc thể hện sự đoàn kết vì một ước nguyện chung cho sự phồn vinh của quê
hương đất nước, cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách

trong và ngoài nước. Lễ hội được coi là những “nguồn sữa mẹ” nuôi dưỡng các loại
hình nghệ thuật. Lễ hội hỗn dung các tầng văn hóa của tộc người trong tiến trình lịch
sử. Lễ hội bảo lưu, nuôi dưỡng và phát triển nhiều truyền thống văn hóa của cộng đồng

4


các làng xã. Lễ hội còn là chỗ dựa tinh thần của người nông dân thể hiện quan niệm
đối với cái đẹp và khát vọng vươn lên cái đẹp của họ.
Đứng ở vai trò là một sinh viên, tôi nhận thấy tìm hiểu sâu hơn về lễ hội để trân
trọng hơn những giá trị văn hóa lễ hội của dân tộc là một điều cần thiết, đồng thời góp
phần giữ gìn và phát huy kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc, chính vì thế tôi đã
chọn “Lễ hội – một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam” để làm
luận văn tốt nghiệp. Qua luận văn này giúp cho mọi người dân bản địa cũng như du
khách nâng cao tầm hiểu biết, nhất là về lĩnh vực văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nội dung và ý nghĩa của lễ hội, phân tích ảnh hưởng của lễ hội
đến đời sống tinh thần của người dân. Qua đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy
những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của lễ hội đối với đời sống văn hóa tinh thần
của người dân của người dân ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua lễ hội – một bộ phận cấu thành
nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Đây là đề tài rộng nên tôi chỉ dừng lại trong phạm vi nghiên cứu: sự hình thành lễ
hội; phân loại lễ hội;các giá trị của lễ hội và những ảnh hưởng của lễ hội đối với đời
sống tinh thần của người dân. Từ đó giúp tôi hiểu được đặc trưng văn hóa của đất nước
mình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng cộng sản

Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã kết hợp nhiều phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu là các phương pháp
logic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê, phân tích để thực hiện những nhiệm
vụ mà đề tài đặt ra.
5. kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm các phần: Mục lục, mở đầu, nội dung (gồm 3 chương, 8 tiết),
phần kết luận và tài liệu tham khảo.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LỄ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH
THẦN
1.1 KHÁI NIỆM LỄ HỘI, SỰ HÌNH THÀNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA LỄ
HỘI
1.1.1 Khái niệm về lễ hội
Mỗi dân tộc trên thế giới dù lớn hay nhỏ cũng đều có một nền văn hóa riêng
mang đậm tính dân tộc. Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra, được duy trì và tồn tại với thời gian.
Cho đến nay, có nhiều cách gọi và sự giải thích khác nhau về thuật ngữ lễ và hội.
Có người gọi lễ hội là hội lễ, có người gọi là hội hè, hay hội hè đình đám. Tuy tên gọi
và cách diễn đạt khác nhau, nhưng các ý kiến đó không có gì mâu thuẫn mà thống nhất
với nhau trong một nội dung: Lễ hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật truyền
thống của cộng đồng.
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về lễ hội. Ông
M.Bachie khi nghiên cứu lễ hội ở nước Nga và cho rằng: “Thực chất, lễ hội là cuộc
sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và chiến
đấu của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể trở thành lễ hội

được nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của
tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương tiện và
điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu
hiệu, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu
việt và cao cả”[4].
Khi xem xét tính chất và ý nghĩa của lễ hội ở Nhật Bản, giáo sư Kurahayashi cho
rằng: “Xét về tính chất xã hội, lễ hội là quảng trường của tâm hồn; xét về tính chất
văn hóa, lễ hội là cái nội sản sinh va nuôi dưỡng nghệ thuật như mỹ thuật, nghệ thuật
giải trí, kịch bản văn hóa và với ý nghĩa đó, lễ hội tồn tại và liên quan mật thiết với sự
phát triển của văn hóa”[4].
Ở Việt Nam, lễ hội là khái niệm chỉ mới xuất hiện khoảng hơn vài chục năm trở
lại đây. Trước đó chỉ có khái niệm lễ hoặc hội. Cả hai khái niệm lễ hoặc hội đều là từ
gốc Hán, được dùng để gọi một nhóm lọai hình phong tục, là cuộc vui tổ chức đông
6


đảo cho người dự với các hoạt động nghi lễ mang tính văn hóa truyền thống của dân
tộc. Chẳng hạn như lễ thành hoàng, lễ gia tiên, lễ hạ điền, lễ thượng điền, lễ cưới.
Trong lễ cưới lại có nhiều thứ lễ như lễ vấn danh, lẽ chạm ngõ, lễ tơ hồng, lễ chạm
mặt. Cũng như vậy, hội cũng có nhiều hội khác nhau như: Hội Gióng, hội Lim, hội
Chùa Hương, hội chọi Trâu, hội hè đình đám. Lễ cho hội, người thời nay mong muốn
gắn hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng này có ít nhất hai yếu tố cũng là hai đặc
trưng đi liền với nhau: trước hết là lễ bái, tế lễ thần linh, cầu phúc và sau đó là tham
thú, vui chơi ở nơi đông đúc vui vẻ.
Lễ: theo từ điển tiếng Việt, thì lễ là “những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu
hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó” [3]. Trong thực tế, lễ có nghiều ý
nghĩa và một lịch sử hình thành khá phức tạp.
Lễ được mở rộng nghĩa là hình thức phép tắc để phân biệt trên dưới, hèn sang,
thứ bậc lớn nhỏ, thân sơ trong xã hội khi đã phân hóa thành đẳng cấp. Cuối cùng khi
xã hội càng phát triển thì ý nghĩa của lễ càng được mở rộng như: lễ thành hoàng, lễ gia

tiên, lễ cưới, lễ cầu an, lễ cầu mưa. Do ngày càng mở rộng phạm vi nên đến đây, lễ đã
mang ý nghĩa bao quát mọi nghi thức ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, lễ vẫn giữ ý nghĩa ban đầu của nó là hình thức biểu thị quan hệ giữa con
người với môi sinh tự nhiên của nó.
Như vậy lễ là cách ứng xử của con người trước tự nhiên đầy bí hiểm và thách đố
những câu hỏi không dễ gì giải đáp được. Các nghi thức của lễ toát lên được sự cầu
mong phù hộ, độ trì của các thần và giúp người tìm ra được những giải pháp tâm lý
mặc dù phảng phất chất linh thiêng, huyền bí. Lễ ở Việt Nam chủ yếu tập trung trong
các nghi thức, nghi lễ liên quan đến sự cầu mùa, người an, vật thịnh. Có thể nói, lễ là
phần đạo, nghĩa là phần tâm linh của cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và
đảm bảo nền nếp, trật tự cho hội được hoàn thiện hơn.
Hội là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc nhân dịp
đặc biệt. Hội là đám vui đông người tập trung trong một địa điểm và vui chơi với nhau.
Nhưng, nếu chỉ có vậy, nhiều khi chưa trở thành hội. Muốn được gọi là hội theo nghĩa
Dân tộc học phải gốm các yếu tố sau:
Được tổ chức nhân dịp kỷ niệm một sự kiện quan trọng nào đó liên quan đến
cộng đồng nào đó như làng bản. Nhằm đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên
của cộng đồng, mang tính cộng đồng, cả tư cách tổ chức lẫn mục đích của nó. Có khi
7


tính cộng đồng đó được mở rộng đến các làng bản khác. Đây là sự cộng cảm cần thiết
của phương diện tâm lý sau những ngày tháng lao động vất vả với những dồn nén cần
được giải tỏa và thăng bằng trở lại.
Như vậy hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giải trí công cộng, diễn ra tại
một thời điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên,
nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ hội. Nều lễ là phần đạo, thì
hội là phần đời, là khát vọng của mọi thành viên trong cộng đồng vươn tới những điều
tốt đẹp. Những khát vọng đó thường được khái quát hóa, lý tưởng hóa hay nhân cách
hóa bởi những nghi thức hay những hoạt động thật cụ thể, thật sinh động và rất đời

thường. Cho nên phần hội thường được kéo dài hơn phần lễ rất nhiều và được diễn ra
thật sôi động, vui vẻ, trẻ trung, mọi người đều vào hội để lãng quên nỗi vất vả, nhọc
nhằn và cả những điều ác, sự bất công mà hướng tới niềm vui sống và những tương lai
tốt đẹp trong thời gian tới.
Trong đời sống, lễ hội đóng một vai trò rất quan trọng, nó chi phối mọi mặt của
đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời nó chiếm một thời gian khá dài của người
dân.
Do gắn thêm lễ vào hội mà các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những định
nghĩa khác nhau về lễ hội như sau:
Trong cuốn Lễ hội cổ truyền, Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ hội là một pho lịch
sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật
và cả các sự kiện xã hội- lịch sử quan trọng của dân tộc”[19], và lễ hội còn là bảo tàng
sống về các mặt sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt. Chúng đã sống, đang sống
với đặc trưng của mình, chúng tạo nên sức cuồn hút và thuyết phục mạnh mẽ nhất.
Trong cuốn Hội hè Việt Nam, các tác giả đã định nghĩa khái niệm lễ hội như sau:
“Hội và lễ là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Hội và lễ
có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội để trở thành một nhu cầu, một khát
vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ”[5].
Như vậy, lễ hội là hai phạm trù hợp nhất thành một sinh hoạt văn hóa cộng đồng
hoàn chỉnh. Lễ vốn là phép ứng xử văn hóa, trong ứng xử xã hội, bao gồm ửng xử giữa
cá nhân với nhau, giữa cá nhân với cộng đồng và ngược lại, giữa các thiết chế con
trong cộng đồng lớn với nhau thường được bắt đầu bằng lễ, tức là từ nghi thức trước
khi đi vào một nội dung giữa hai quan hệ hoặc các quan hệ trong xã hội. Từ những
8


nghi thức mang xã giao đời thường là lễ, phép tắc để phân biệt trên, dưới, sang, hèn
dần dần được thiêng hóa, để trở thành những nghi thức lễ mang tính tôn giáo, về sau
chúng trở thành nghi thức mở đầu cho lễ hội.
Lễ và hội là một thể thống nhất không thể chia tách trong hoạt động tín ngưỡng

và tôn giáo của con người. Lễ là phần đạo, phần tín ngưỡng, phần thế giới tâm linh sâu
lắng của con người. Còn hội là phần tập hợp các trò diễn có tính lễ thức, các cuộc vui
chơi, giải trí tại một địa điểm nhất định, thường trong khuôn viên các công trình tôn
giáo hay ở sát chúng, có đông người tham gia, là đời sống văn hóa thường nhật và một
phần đời của một cá nhân và cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện quan trọng đối
với một cộng đồng xã hội.
Như vậy, trong khái niệm của lễ hội bao gồm yếu tố lễ và hội. Hai yếu tố này
luôn luôn tồn tại song song, bổ sung, hỗ trợ và hoàn thiện lẫn nhau, trong lễ có hội,
trong hội có lễ. Nó vừa mang tính trang nghiêm, khuôn khổ, vừa mang tính giải trí vui
chơi.
1.1.2 Sự hình thành và chức năng của lễ hội
+ Sự hình thành lễ hội

Trong lịch sử đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là phương Đông và phương
Tây. Phương Tây là khu vực Tây- Bắc gồm toàn bộ Châu Âu, phương Đông gồm toàn
bộ châu Á và châu Phi. Hai vùng này có sự khác biệt rõ rệt về nhiều mặt, trong khi các
ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập,
trong khi người phương Tây coi trọng cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng
đồng.
Môi trường sống của cư dân phương Đông là xứ nóng sinh ra nhiều mưa, tạo nên
các con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Còn phương Tây là xứ lạnh với
khí hậu khô, không thích hợp cho thực vật phát triển. Hai loại địa hình này khiến cho
cư dân hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau là trồng trọt và chăn nuôi.
Sau này, các dân tộc ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán, chỉ còn lại
các dân tộc trong lục địa làm nông nghiệp, nhưng chăn nuôi vẫn còn là mối quan tâm
của họ. Mặc dù sau này, các dân tộc phương Tây đã chuyển sang thương nghiệp, rồi
phát triển công nghiệp và đô thị, nhưng cái gốc du mục đã để lại dấu ấn quan trọng
trong đời sống văn hóa của họ. Do đó, căn cứ vào nguồn gốc của hai khu vực văn hóa,

9



chúng ta có thể phân chia văn hóa nhân loại ra thành hai loại hình văn hóa: lọai hình
văn hóa gốc nông nghiệp và loại hình văn hóa gốc du mục.
Việt Nam nằm trong vùng văn hóa phương Đông, do vậy thuộc loại văn hóa gốc
nông nghiệp điển hình. Các cư dân nông nghiệp phải sống định cư để gieo trồng và
chờ cây cối lớn, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên
họ ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên, có lúc họ còn thần thánh hóa thiên nhiên.
Bởi thế mà trên khắp các vùng miền, đâu đâu cũng có những lễ hội tưởng nhớ công ơn
của các vị thần thiên nhiên như: Thần Nước, Thần Sông, Thần Biển... Do vậy, cũng có
thể nói rằng, phương thức sản xuất nông nghiệp là một trong các nguồn gốc của lễ hội
của người Việt Nam, lễ hội luôn tồn tại và phát triển ngày càng sinh động và hoàn
thiện hơn.
Ngoài ra, lễ hội còn là loại hình sinh hoạt văn hóa, sản phẩm tinh thần của người
dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Khởi nguồn của lễ hội là từ
tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng nông nghiệp như những hình chạm khắc trên trống
đồng – một biểu tượng của nền văn hóa Đông Sơn. Trên mặt trống đồng Đông Sơn có
hình Mặt Trời, rồi tiếp đến các hình chim, người và hoa văn khác như chuyển động
quay quanh Mặt Trời. Đó cũng chính là biểu tượng của vạn vật sinh sôi, nảy nở bởi có
Mặt Trời, rồi dần dần trở thành lễ hội cổ truyền có nhiều thành tố tham gia..
Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”.
Vì vậy, lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh
những hình tượng thiêng liêng, được suy tôn là những “vị thần”, những nhân vật có
thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những
phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm;
những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi
với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền
thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc
sống hạnh phúc.
+ Chức năng của lễ hội

Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng
đồng dân tộc.
Lễ hội là dịp con người trở về với cội nguồn. Dù là cội nguồn tự nhiên hay nguồn
cội của dân tộc thì đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí của mỗi người. Lễ hội thể
10


hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ
thờ chung một vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc
sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hóa, vật chất và
tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ
sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của
dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa các yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải
trí. Lễ hội còn là dịp để con người giải tỏa, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh,
mong được Thần giúp đỡ, chở che để vượt qua những khó khăn vất vả trong cuộc sống
1.2 TÍNH THẨM MỸ VÀ TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA LỄ HỘI
1.2.1 Phân loại lễ hội
Muốn nghiên cứu một loại hình văn hóa nào đều cũng phân loại chúng. Đối với
lễ hội , một bảo tàng sống lại càng cần thiết tiến hành phân loại cụ thể hơn. Ở nước ta,
lễ hội là một sinh hoạt văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng và lại thường đan xen,
hòa lẫn vào nhau cả về nội dung lẫn hình thức. Vì vậy, việc phân loại lễ hội lại càng
trở nên cần thiết trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu lễ hội.
Dựa trên sự phân tích của Dân tộc học về ý nghĩa của cội nguồn làng, Lê Thị
Nhâm Tuyết đã phân lễ hội thành 5 loại như sau:
Lễ hội nông nghiệp: là loại lễ hội mô tả lại những lễ nghi liên quan đến chu trình
sản xuất nông nghiệp, mang tính chất cầu mùa.
+ Hội lễ phồn thực giao duyên: là loại lễ hội gắn với quan niệm sinh sôi, nảy nở
cho con người và vật nuôi, cây trồng mang tính chất tín ngưỡng phồn thực.
+ Lễ hội văn nghệ: thi hát dân ca, nghệ thuật.

+ Lễ hội thi tài: thi thố tài năng
+ Lễ hội lịch sử: các trò diễn nhắc lại hay biểu dương công tích của các vị thành
hoàng và những người có công với làng với nước.
Theo tác giả Hồ Hoàng Hoa thì các hội làng được chia làm ba loại:
+ Lễ hội phản ánh cuộc sống lao động sản xuất.
+ Lễ hội phản ánh cuộc đấu tranh giữ nước, giữ làng.
+ Lễ hội có các trò diễn đáp ứng hay phản ánh đời sống văn hóa tinh thần, phong
tục, tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ta.

11


Trong “Lễ hội cổ truyền”[19], các tác giả lại căn cứ vào nội dung các lễ hội mà
phân thành 4 loại lễ hội:
Các hội làng tái hiện những sinh hoạt tiền nông nghiệp.
Các hội làng tái hiện sản xuất nông nghiệp.
Các hội làng tái hiện những sự kiện lịch sử.
Các hội làng tái hiện các đề tài khác.
Ngoài ra, dưới góc độ xã hội học, người ta còn phân loại thêm các hoạt động lễ
hội mang tính chất quốc gia, dân tộc hay quốc tế và những lễ hội thuộc về từng nhóm,
từng vùng và các tôn giáo độc thần cụ thể. Như vậy qua những cách phân loại lễ hội
trên, ta có thể rút ra một số nhận xét chung như sau:
Hội là thành phần ngoại lễ, nên cuộc lễ nào không có hội kèm theo, sẽ không
được gọi là hội. Khi đã gọi là hội thì bao giờ cũng gồm cả phần lễ và phần hội. Vì thế
không thể tách phần lễ ra khỏi phần hội và ngược lại. Cả lễ và hội trong lễ hội truyền
thống đều có chung một mục đích: cầu cho người an vật thình, mùa màng phong đăng,
hòa cốc. Cho nên không thể tách những lễ thức phồn thực như giao duyên, hát đối nam
nữ, rước nõ nường ra khỏi lễ hội nông nghiệp - hội mùa.
Các trò diễn xướng nghệ thuật, thi tài, thi khỏe cũng nằm trong mục đích “người
an, vật thịnh” nên chúng vẫn thuộc loại lễ hội cầu mùa. Cho nên, không thể tách

những lễ thức đó thành một loại lễ hội riêng.
Xét đến cùng, lễ hội nào cũng mang ý nghĩa tôn giáo. Phần lễ là phần tâm linh
thuộc về tín ngưỡng thực chất là “niềm tin tôn giáo” (thường là tôn giáo sơ khai hay
còn gọi là tôn giáo nguyên thủy). Vì thế không thể phân loại lễ hội ra hai loại có tôn
giáo và không có tôn giáo. Đối với các lễ hội liên quan đến các vị Thánh hay vị Phật ở
các hội đền, hội chùa hay ở các hội đình ở Việt Nam cũng thường pha trộn, đan xen cả
các yếu tố “tam giáo đồng nguyên” hay giữa các yếu tố tôn giáo độc thần với tôn giáo
nguyên thủy, thậm chí các yếu tố tôn giáo nguyên thủy nổi trội lên hơn cả yếu tố tôn
giáo hiện đại. Có thể nói, không có lễ hội truyền thống nào lại không mang yếu tố tôn
giáo, nên không thể phân loại lễ hội tôn giáo và lễ hội không tôn giáo.Trên cơ sở
những nhận xét trên đây, nhiều nhà nghiên cứu đã phân lễ hội truyền thống ra hai loại
chính như sau:
+ Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng cầu mùa.

12


Đây là loại lễ hội phổ bến ở tất cả các dân tộc. Tuy ở mỗi địa phương, mỗi dân
tộc có những nghi thức, nghi lễ khác nhau nhưng đều cùng chung một nội dung cầu
mùa. Những nội dung đó được thể hiện một cách sinh động ở các lễ thức sau:
+ Lễ thức liên quan đến chu trình sản xuất nông nghiệp.
bao gồm lễ hội tái hiện các sinh hoạt kinh tế tiền nông nghiệp như săn bắn, hái
lượm, lễ mở cửa rừng, hội đánh cá và những lễ thức tái hoạt động sản xuất nông
nghiệp như hội cấy, hội tằm tang, trình nghề nông, thờ Ông điền.
+ Lễ thức cầu đảo: cầu mưa, cầu tạnh, mưa thuận gió hòa, sóng yên, biển lặng.
+ Lễ thức biểu dương, dâng cúng các thành phẩm nông nghiệp: như rước lợn, lễ
ăn cơm mới.
+ Lễ rước thờ cúng hồn lúa.
+ Lễ hội trình nghề, có liên quan đến tổ sư ngành nghề.
+ Lễ hội thi tài và các trò bách hí: thi nấu cơm, thi bắt dê, bắt vịt.

+ Lễ thức tín ngưỡng phồn thực: nhằm biểu dương, kết hợp âm dương cho con
người và sự vật sinh sôi phát triển, như hội bắt Chạch trong chum, hội chơi hang, hội
trai gái tìm nhau.
+ Lễ thức hát giao duyên: hát xoan, hát quan họ.
Những lễ thức trên đều mang tính chất tín ngưỡng cầu mùa. Mong sao mùa màng
phong đăng, hòa cốc, người an, vật thịnh, ngành nghề phát triển. Vì vậy, không thể
tách chúng ra thành các loại lễ hội khác nhau.
Lễ hội liên quan đến việc tưởng niệm công lao các vị danh nhân văn hóa, anh
hùng lịch sử, các vị thành hoàng và chư vị Thánh, chư vị Phật. Loại lễ hội này đều thờ
cúng, diễn tích liên quan đến các vị nhiên thần đã có công khai sơn, phá thạch, xây
dựng, gìn giữ, bảo vệ làng xóm, đất nước và chư vị Thánh, Phật có công khai minh,
khai mang, xây dựng đền, chùa giúp dân diệt ác trừ tà, bảo vệ cái thiện. Điều đáng lưu
ý ở đây là sự thờ cúng ở các dân tộc miền núi chủ yếu là các lực lượng thiên thần, còn
ở đồng bằng thì chủ yếu thờ các vị nhân thần. Đó là:
Các lễ thức thờ cúng các thần thổ địa, thần rừng, thần sông nước, thần cây Đa,
bến nước Sơn Thần, Giang Thần. Lễ rước các vị danh nhân văn hóa, anh hùng lịch sử
có công với dân với nước như Tản Viên Sơn Thánh, chư vị Phật, chư vị Thánh, hội lễ
thờ Trương Hống, hai Bà Trưng, Thánh Gióng, vua Hùng.

13


Qua các lễ thức trên đây đã thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân
dân của các dân tộc ở nước ta. Từ đạo lý đó đã được khái quát hóa và siêu linh hóa các
vị đã có công với dân, với nước. Vì vậy, vị trí của các vị đó đã chiếm phần quan trọng
trong tâm linh nhân dân ta. Đồng thời, qua những lễ nghi tưởng niệm long trọng và
trang nghiêm đó cũng đã bộc lộ những khát vọng, những mong muốn tốt lành đối với
cộng đồng các dân tộc. Hơn nữa, thông qua các lễ hội này, càng tăng thêm sự cố kết
cộng đồng, và liên cộng đồng ở miền xuôi cũng như miền ngược ở nước ta. Cho dù
trong quá trình tồn tại và phát triển, các lễ hội đó không tránh khỏi sự đan xen, thu

thập các yếu tố mới, kể cả yếu tố ngoại lai, nhưng nhìn chung các yếu tố lễ hội ở nước
ta vẫn giữ được giá trị truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nghi thức, nghi lễ của hai loại lễ hội trên đây diễn ra có thể khác nhau ở từng
nơi, từng dân tộc, nhưng dù ở góc độ nào, nội dung chính của các lễ hội đó vẫn mang ý
nghĩa cầu mùa, người an vật thịnh, uống nước nhớ nguồn. Đó chính là khát vọng, là
đạo lý, là ước mong muôn đời của nhân dân các dân tộc ở nước ta. Với ước mong đó,
lễ hội mãi mãi vẫn là nơi gủi gắm niềm tin và hi vọng của mỗi con người, nhất là khi
cuộc sống gặp nhiều khó khăn, trình độ khoa họa, kỹ thuật còn lạc hậu và sự lệ thuộc
vào sự ưu đãi của thiên nhiên còn lớn trong đời sống của các dân tộc. Trong một
chừng mực nhất định, lễ hội vẫn là chỗ dựa tinh thần, và là sức mạnh để nhân dân
vươn tới cái cao đẹp trong cuộc sống.
Như vậy, bốn nhu cầu cơ bản của con người và làng xã ngày xưa trước mọi biến
chuyển lịch sử là những tín hiệu nhớ về cội nguồn, chuyển giao văn hóa, khích lệ sáng
tạo thẩm mỹ, liên kết cộng đồng.
1.2.2 Tính thẩm mỹ của lễ hội
Mỹ học xuất hiện từ thời cổ đại với đối tượng nghiên cứu chính là cái đẹp. Tuy
nhiên, cái đẹp cũng được quan niệm rất khác nhau. Nhìn chung, có thể chia các nhà
mỹ học suốt từ thời cổ đại đến nay thành hai khuynh hướng chính: khuynh hướng duy
tâm và khuynh hướng duy vật.
Đại biểu đầu tiên của khuynh hướng duy tâm là Platon. Tuy không bàn trực tiếp
đến lễ hội, những các quan niệm của Platon về cái đẹp thường liên quan đến thần linh.
Ông cho rằng: Cái đẹp là một ý niệm. Đó là ý niệm mang tính thiên khải và thần
thánh. Trong tác phẩm “Yến tiệc” mang đầy những biện luận về lễ hội, Platôn coi mọi
cái đẹp là một ý niệm siêu thoát tạo nên mọi vẻ sinh động của con người và trời đất.
14


Ông cho rằng nghệ thuật là “Cái bóng của cái bóng”, tức nghệ thuật tối cao này ăn rất
sâu vào các thần tích và hương khói lễ hội. Phát triển quan niệm này đến đỉnh cao nhất
là Hêghen, nhà triết học duy tâm, đồng thời cũng là nhà mỹ học lỗi lạc của Đức.

Hêghen cũng cho rằng cái đẹp và nghệ thuật chẳng qua cũng chỉ là phản ánh của ý
niệm tuyệt đối cũng là “cái bóng của cái bóng” mà thội.
Đối lập với khuynh hướng duy tâm là khuynh hướng duy vật. Tiêu biểu cho
khuynh hướng duy vật của thời cổ đại Aristốt – một trong những học trò của Platôn.
Trong khi tranh luận với quan điểm của Platôn, trong cuốn Thi pháp, Aristốt cho rằng
sử thi, bi kịch, thơ, hài kịch là sự tán tụng tiểu thần, ngợi ca những ngày hội chiến
thắng; nhạc sáo và nhạc diễn đàn lạc huyền vang lên trong lễ hội ở thành Aten được
Aristốt phản ánh và bình luận sâu sắc thông qua các phạm trù đẹp và bi hài. Tiếp tục
cho khuynh hướng duy vật ở thời kỳ trước Mác đã từng xuất hiện nhiều tên tuổi, mà
tiêu biểu nhất là Sécnưsepski ở Nga. Với quan điểm duy vật triệt để, Sécnưsepski cho
rằng “cái đẹp là cuộc sống”, nghĩa là cái đẹp có trong lao động và chiến đấu, trong
hiện thực khách quan, chứ không phải do thần thánh nào tạo ra.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái duy tâm và trường phái duy vật kéo dài suốt
cả quá trình lịch sử phát triển của mỹ học. Qua các thời kỳ Phục hưng và Khai sáng,
cho đến khi mỹ học Mác- Lênin ra đời. Mỹ học Mác – Lênin cho rằng: Cái đẹp là một
phạm trù cơ bản của mỹ học, là trung tâm của các quan hệ thẩm mỹ dùng để chỉ thực
tại thẩm mỹ tích cực, khách quan. Thực tại này chúng ta biết được là nhờ cảm xúc
thẩm mỹ phổ biến có tính sâu sắc. Dưới ánh sáng lý tưởng thẩm mỹ chân chính, các
cảm xúc thẩm mỹ phán ánh thực tại cái đẹp. Tác động của cái đẹp là một tác động có
tính chất thanh cao, vô tư, không vụ lợi, không thô thiển, theo quy luật hài hoà biện
chứng tự thân bên trong tâm hồn con người, bên trong tự thân xã hội loại người và cái
đẹp là có năng lực biểu hiện sức sống tồn tại và phát triển, là cái có khả năng gợi cho
con người thấy bản chất chân chính của mình. Nó là cái có thể báo hiệu về con người,
gợi lên ở con người những rung động thẩm mỹ, những xúc cảm say mê, tích cực khiến
con người khát vọng và yêu đời, muốn cống hiến cho đời.
Nhìn lại mỹ học ở thời kỳ cổ đại, thời Phục hưng, thời Ánh sáng và cả sau này là
Mỹ họ Mác – Lênin, khi trình bày các phạm trù cơ bản cũng luôn coi lễ hội là một đối
tượng phải được phân tích về mặt thẩm mỹ. Trong các cuốn giáo trình lớn, người ta đi

15



sâu phân tích cái đẹp rộn ràng trong ngày hội, cái cao cả thần thánh trong những nghi
lễ.
Ở nước ta, từ trước đến nay, đã có nhiều tác phẩm bàn về lễ hội, song chủ yếu ở
dưới góc độ Dân tộc học và Văn hóa dân gian. Trong khi hoặc sau khi miêu tả tiến
trình của lễ hội, các tác giả đều đưa ra những nhận xét về những biểu hiện của cái đẹp
trong lễ hội. Tuy nhiên, đấy dường như chỉ là những ý kiến tản mạn, chưa thành một
hệ thống.
Lễ hội truyền thống là sinh hoạt văn hóa cao cấp và toàn diện của người nông
dân. Lễ hội phản ánh cái đẹp, hướng tới cái đẹp – một cái đẹp toàn diện, được coi như
là “lý tưởng” của một cuộc sống “mẫu mực” ngày thường cần hướng tới. Về nội dung,
lễ hội đề cao cái đẹp của những vị thần được tôn thờ, những anh hùng chiến trận và
anh hùng văn hóa. Thông qua các nghi lễ và trò diễn, lễ hội đề cao tinh thần yêu nước,
yêu lao động được nâng lên thành truyền thống yêu nước, yêu lao động của nhân dân
ta.
Các lễ hội thường là nơi thi thố tài năng nghệ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, chế
biến nông sản và làm các thủ công mỹ nghệ chẳng hạn như thi gà béo, lợn to, thi làm
bánh, làm cỗ hoặc thi pháo hoa và các loại pháo trong lễ hội ở vùng Hà Tây, Hà Bắc,
Vĩnh Phú, Hà Nội. Hoặc các cuộc đua tài trong các trò chơi mang tính thượng võ giành
cho nam giới như đánh phết, cướp cầu, đấu vật, đua thuyền. Quy tụ về hội còn có
những hoạt động nghệ thuật biểu diễn dân gian như thi hát Quan họ, hát ví, hát trống
quân giành cho nam và nữ. ngoài ra, lại còn có các hoạt động vũ đạo như các loại múa:
múa quạt, múa chèo thuyền, múa bông dành cho nữ. Nhìn chung, sự tập hợp những
sinh hoạt văn hóa nghệ thuật đã tạo cho lễ hội truyền thống trung du và đồng bằng Bắc
Bộ một diện mạo sinh động, hết sức hấp dẫn đối với mọi người thuộc mọi lứa tuổi,
mọi giai tầng, mọi nhóm xã hội trong làng và thiên hạ.
Về hình thức, bất kỳ sự vật hay con người tham gia vào lễ hội đều phải được biểu
thị theo phương thức thẩm mỹ. Chẳng hạn, các nghi trượng, hương án, ngạc rùa, cờ
quạt, tàn tán, bài vị đều được sơn son thiếp vàng hoặc có màu sắc sặc sỡ tạo nên không

khí vừa trang nghiêm vừa đẹp đẽ. Các lễ vật như xôi, gà, lợn hoặc hoa quả cũng có
màu sắc, dáng vẻ đẹp, được xếp đặt một cách có nghệ thuật, theo một chủ đích nhất
định khác hẳn với những vật đó được sử dụng trong ngày thường. Quan sát mâm xôi,
đĩa xôi, mâm bánh dày hay oản ngày hội, nhiều người cho rằng, đó là biểu tượng thu
16


hình sinh thực khí nữ. Còn bánh dày hay cái giò lại theo hình sinh thực khí nam. Đó là
những biểu tượng của sinh sôi, nảy nở. Cũng tương tự bánh dày tượng trưng cho trời
tròn, bánh chưng biểu tượng cho đất vuông, biểu tượng cho vũ trụ quan ngây thơ thời
tiền sử: trời tròn, đất vuông. Đối với người cử lễ hay người dự lễ hội cũng vậy, từ y
phục, lời ăn tiếng nói, dáng vẻ, thái độ của họ cũng phải tuân theo những nghi thức
nhất định và cố nhiên là phải đẹp hơn ngày thường. Tất cả con người và sự vật đó lại
phải tuân theo một nghi trình, tức là phải tuân theo một kịch bản mang tính nghệ thuật
đã được hình thành từ nhiều đời trước, để biểu thị một vấn đề hay một giá trị xã hội
nào đó.
Như vậy các lễ hội đều diễn ra theo “quy luật của cái đep”. Tuy nhiên, cái đẹp
mới chỉ là một trong những phạm trù cơ bản của mỹ học. Bên cạnh của cái đẹp, mỹ
học còn có các phạm trù cơ bản khác là cái cao cả, cái bi, cái hài. Cũng có người cho
rằng, thực ra chỉ có cái đẹp mà thội, bởi vì cái cao cả chính là biểu hiện cao nhất của
cái đẹp, cái bi là cái đẹp trong sự thất bại tạm thời, còn cái hài là sự “vi phạm” các
chuẩn mực của cái đẹp. Trong các lễ hội truyền thống Việt Nam có chứa tất cả các
phạm trù cơ bản đó.
Trước hết, nói về cái cao cả trong lễ hội truyền thống: Nét nổi bật hay chủ đề nổi
bật của hội làng truyền thống của người Việt là tôn thờ các vị anh hùng đánh giặc giữ
nước, giữ làng, tổ chức các trò mô phỏng các trận chiến đấu oanh liệt của thần. Trong
hội còn có những biểu tượng cho chủ đề hay nội dung của hội. Đó được gọi là cái cao
cả và cái hoành tráng của hội.
Bên cạnh cái cao cả, lễ hội của người Việt còn chứa dựng cái bi. Theo các nhà
nghiên cứu, bi có các cấp độ là bi thảm, bi hùng và bi tráng. Bi thảm là sự phản ánh

những chết chóc, mất mát, tan vỡ của một nhân vật nào đó ở thế cô đơn, không phản
kháng, không có tính cách mạng, chỉ để lại niềm xót thương cho mọi người trong một
thời gian rồi bị quên lãng; còn bi hùng và bi tráng là cái bi hay sự tổn thất, mất mát của
những người anh hùng có lý tưởng, chết còn để lại “hào quang” rực rỡ để người đời
sau mãi mãi nhắc đến và ca ngợi. Có người đã cho rằng, bi kịch chính là bài ca đau
thương về sự tổn thất không thể bù đắp được và là bài ca vui mừng về sự bất tử của
con người. Nó đưa ra và giải quyết những vấn đề tối cao của cuộc sống. Bi kịch bắt
đầu từ nơi con người đưa tất cả khả năng của mình để phát triển lên cực điểm khi biết
rằng mình sẽ không tồn tại. Sự thất bại của một cái đẹp vượt ra ngoài cá nhân mình là
17


một sự kiện bi hùng. Cái đẹp bị cái xấu lừa dối và cái đẹp đi tới thất bại tạm thời tạo
nên sự đồng cảm sâu sắc trong cộng đồng và sự tẩy rửa, thanh lọc tâm hồn cả một thời
đại cho đến muôn đời là những nét quan trọng của mọi cái bi kể cả những cái bi kịch
lịch sử mà nhiều lễ hội tưởng niệm.
Trong nhiều lễ hội Việt Nam đã thể hiện các triết lý cái bi đó. Ví dụ, trong ngày
hội giỗ Mỵ Châu ở Nghĩa Hưng (Nam Định) vào ngày 18 tháng 8 Âm lịch có lễ kiệu
Mỹ Châu từ Đền con đến Đền Cha ( Đền Thục An Dương Vương) để tạ tội. Các vị
chức sắc trong làng Đông Cảo tham gia rước kiệu Mỹ Châu đến Đóng Bộ là nơi vua
cha là An Dương Vương. Có thể nghĩ rằng, các cử chỉ này mang tính bi kịch và cái bi
về phương diện thẩm mỹ của lễ hội thể hiện việc tạ tội của Mỹ Châu được tổ chức rất
nghiêm trang và thiêng liêng, cảm động. Các chức sắc rước từ Đền Con sang Đền Cha
gợi lại một tình huống thật là bi tráng của lịch sử.
Hội Hát Môn ở Phúc Thọ (Hà Tây): Là hội tưởng niệm Hai Bà Trưng, ngày hội
đó tổ chức rất trọng thể, nó mang đậm sắc thái bi hùng. Hội được tổ chức thành nhiều
đợt với nhiều lễ trong một năm: lễ dâng bánh trôi cho hai Bà (ngày 6- 3) để hai Bà ăn
khi bị địch vây hãm; lễ xuất quân (ngày 4 – 9); lễ tắm tượng ( 24 thàng chạp) lau rửa
tượng hai Bà. Đặc biệt trong các ngày lễ hai Bà ở Đền Hát Môn, nhân dân chỉ được
dùng màu đen, đồ đen, đồ thờ sơn đen, các vị hành lễ mặc đồ đen, khách thập phương

cũng thế. Màu đen ở đây không chủ yếu biểu hiện màu tang của người Việt, mà là biểu
hiện của một cái hèm. Bên cạnh của cái hùng tráng của ngày hội, ta thấy sự thay đổi
màu đỏ bằng màu đen cũng gợi lên một không khí ảm đạm, xót thương mang một
khoảnh khắc bi kịch của lịch sử. Những bi kịch ở đây thể hiện trong xung đột với cái
xấu, những người tốt đó lại gặp nhiều bất hạnh nhưng cái chết của họ lại không uổng
phí, họ được người đời ca ngợi, vẽ chân dung khắc họa đến mức “đẹp hơn thực tế” để
trở thành tấm gương giúp con người tránh điều ác, làm điều thiện.
Một nét nổi bật nhất của lễ hội là sự tôn nghiêm. Tuy nhiên, trong lễ hội của
người Việt, bên cạnh sự trang nghiêm, cung kính là nét bao trùm, lại nổi lên cái hài,
xuất phát từ đặc điểm lạc quan, thích vui nhộn và thích hài hước của người nông dân.
Ngay trong đám rước thể hiện sự tôn nghiêm nhất, người ta thấy xuất hiện hình ảnh
“con đĩ đánh bồng” nhảy múa ngược xuôi rất vui nhộn và ngỗ nghĩnh.
Trong nhiều lễ hội có nhiều nghi lễ dùng tiếng cười, dùng lời nói tục, dùng điệu
bộ, cả cách ăn mặc và các động tác vừa để phản ánh thực tại, vừa để gây cười làm tăng
18


thêm sự vui nhộn của ngày hội. Chẳng hạn, trò “Bách Nghệ khội hài” của các làng ở
trung du Vĩnh Phú, có những người đóng vai các nghề với quần áo, cử chỉ, điệu bộ, lời
nói gây cười một cách hỏm hỉnh. Ở đây, cái hài không làm mất đi ý nghĩa trang
nghiêm của lễ hội mà còn do nội dung của từng lễ hội, người ta đã thêm những tình
tiết gây cười bằng động tác và những lời hối đáp, thể hiện cái hồn nhiên chân thật đầy
đam mê của chính cuộc sống và yêu cầu được cười của nhân dân. Trong lễ hội có rất
nhiều hình thức hài hước được thể hiện bằng tiếng cười. Tiếng cười trào lộng, bất ngờ,
hỏm hỉnh, râm ran thường xuất hiện nhiều hơn là tiếng cười cay độc, mỉa mai, đau
đớn. Nó phản ánh sự phong phú của các hình thức tình cảm thẩm mỹ trong lễ hội.
Những cái hay phân tích ở trên có ý nghĩa là “Một hiện tượng thẩm mỹ khách quan,
trước cuộc đời con người thường có hai thái độ cơ bản là yêu và ghét, hai tình cảm
thẩm mỹ lớn, ngợi ca hoặc giễu cợt”[5].
Điều cần chú ý là, dù lễ hội phản ánh nội dung nào: cái cao cả, cái bi hay cái hài

thì bên cạnh đó cũng luôn có cái đẹp. Cái cao cả, cái bi, cái hài trong lễ hội cũng chính
là cái đẹp. Hơn nữa, việc mô tả đẹp ở đây cũng bằng phương thức thẩm mỹ, tức là phải
có hình tượng, phải có biểu tượng và nhờ vào các thủ pháp của nghệ thuật. Cụ thể là:
Có “kịch bản” về vị thần được thờ dựa trên truyền thuyết, thần phả và kịch bản
hội dựa trên tập tục được tuân thủ từ bao đời như quy định rõ về thời gian mở hội và
trình trự công việc trò diễn của từng ngày. Có nghệ thuật biểu diễn như trong trong tế
lễ, rước xách, trong các trò diễn. Có hình tượng là đặc trưng cơ bản của thẩm mỹ. Hình
tượng trong lễ hội được thể hiện ở hành động về các vị thần, về nơi tổ chức các lễ hội
như đình chùa, bến sông, hình tượng trong các trò diễn, nghi thức của lễ hội. Đó cũng
là lý do giải thích tại sao lễ hội mãi mãi làm say mê mọi tầng lớp, mọi nhóm xã hội và
do đó còn có ý nghĩa xã hội lâu dài.
1.2.3 Tính cộng đồng của lễ hội
Lễ hội truyền thống từ nội dung đến hình thức, từ lúc chuẩn bị đến lúc kết thúc
đều được biểu thị qua một cảnh diễn, theo một kịch bản có sẵn và tồn tại dưới hình
thức cái đẹp, cái thiêng liêng. Nói cách khác, bản thân lễ hội là một loại hình văn hóa
trên hai phương diện: đề cao các giá trị xã hội và được biểu thị bằng phương thức thẩm
mỹ. Tính thẩm mỹ và tính cộng đồng là hai thuộc tính của lễ hội. Chúng có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Để hiểu được tính cộng đồng của lễ hội, cần thiết phải hiểu được
tính thẩm mỹ. Vấn đề đó được biểu hiện qua một số vấn đề chính sau đây:
19


c)

Các vị thần được thờ
Theo Tư liệu Dân tộc học và Văn hóa dân gian đã chỉ ra rằng, phần đông các vị

thần được thờ trong các làng Việt là nhân thần, trong đó tuyệt đại đa số là những người
có công tích với dân với nước.
Xét về nguồn gốc, lai lịch các vị nhân thần, ta thấy họ là những vị thần sau đây:

Những anh hùng dân tộc, những tướng lĩnh tài ba và có công lao trong các cuộc
kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Nhiều vị là người làng, trực tiếp đánh giặc tại làng
rồi lại hi sinh tại làng như Bà Trưng, Bà Triệu, Đức thánh Trần Hưng Đạo. Những
người có công khai lập hoặc đóng góp, xây dựng làng xóm, hoặc có công truyền nghề
thủ công cho dân cho làng, những tiên công có công khai phá những vùng đất mới.
Với nguồn gốc, lai lịch với công trạng đó, các vị thần này được tôn là Phúc thần
hay chính thần và trong các sắc phong của triều đình phong kiến đều ghi họ là Thượng
đẳng thần.
Về tính cách, phẩm chất của các vị thần, có thể thấy qua “phác họa” trong các
cuốn thần phả: Là những người sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt như: thụ thai nhờ lực
lượng siêu nhiên và mang thai trong một thời gian “không bình thường”, đẻ ra trong
trong điều kiện đặc biệt như giông bão, sắc hồng khí vận; dáng người diện mạo dị
thường.
Lớn lên trong hoàn cảnh bình thường nhưng lại có những tính cách khá đặc biệt
cả về giọng nói, dáng người, khuôn mặt, chẳng hạn như Thánh Gióng thì lên 3 tuổi mà
không biết đi, không biết nói, nhưng luôn là người có tài năng, đức độ như học giỏi,
tinh thông võ nghệ. Gặp khi đất nước, xóm làng bị “lâm nguy” thì tự nhiên “ứng
biến” thành người “phi thường” ra giúp dân cứu nước.
Khi thành đạt trở về sống với làng, đem bổng lộc của vua ban công đức, đóng
góp xây dựng làng xóm. Riêng đối với các tướng lĩnh đánh giặc thì sau khi thắng trận
trở về thì thường “hóa” luôn, để lại niềm tiếc thương trong nhân dân hoặc sống một
cuộc sống bình dị với nhân dân một thời gian rồi “hóa” mà không nhận chức tước của
vua ban, không “công thần”, không sống dựa trong “hào quang chiến thắng”.
Như vậy toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của các vị thần được thờ đều là những
hình tượng nghệ thuật được huyền thánh hóa với các thủ pháp tượng trưng, cách điệu
hóa, ước lệ, phóng đại, nghĩa là được đẹp hóa, cao cả hóa và thiêng hóa để miêu tả cái
phi thường và hiện thực những công việc phi thường như mong ước của nhân dân.
20



d) Nơi tổ chức lễ hội
Hội làng thường được tổ chức tại đình làng. Nhiều làng tổ chức tại Đền hay tại
Chùa. Nhiều làng, trung tâm hội là một khoảng đất rộng trước hay ven đồi. Song, dù
được tổ chức ở đâu thì những nơi đó đều mang các đặc điểm chính sau:
+ Đẹp về hình thế: đình, chùa, đền, miếu các làng thường được tọa lạc trên những
khu đất ở trung tâm làng, rộng rãi, cao ráo; cảnh quan xung quanh thoáng đãng, hài
hòa với sông núi nước non. Riêng hội Quan họ được trải rộng trên một vùng đất rộng
lớn. Đó là những vùng quê phong cảnh hữu tình: sông núi quây vùng ôm lấy những
cánh đồng thẳng tắp, mượt mà, rồi bỗng nhiên đột khỏi những ngọn núi thấp hay
những quả đồi thoai thoải, trên đó là một ngôi chùa tĩnh mịch, cổ kính hay một làng
xóm xanh tươi. Lách mình giữa những làng xóm, cánh đồng, quả núi thấp, là những
con sông cổ với những sự tích đã đi vào huyền thoại như sông Tiêu Tương dưới chân
núi Lim với truyền thuyết về chàng Trương Chi mơ mộng. Đình làng với chiều cao nổi
trội so với nhà dân, nóc đình có rồng uốn lượn, hàng mái rộng đan thành nhiều hàng
lốp lô xô, các đầu đao công vút thấp thoáng ẩn hiện bên cây đa cổ thụ hay hàng tre
xanh rì. Tất cả tạo cho đình làng vẻ đẹp tôn nghiêm, bề thế nhưng lại rất mộc mạc,
thân thương và gợi cảm đối với người dân quê:
“Qua đình làng ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Ở bên trong, các đình đều được bổ trí bàn thờ, các khu vực tế lễ rất gọn gẽ, cân
đối; các bức đại tự, hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng được sắp xếp hài hòa vừa
làm nổi lên cái đẹp, vừa làm tăng lên vẻ tôn nghiêm của nội thất, chưa nói đến những
nội dung mang tính giáo dục và tính thẩm mỹ cao của các câu đối, các bức hoành phi
đó. Hòa cùng các bức hoành phi, các câu đối này là các họa tiết trên cửa võng, ở các
bức cuốn, kẻ, bẩy với nhiều môtíp, họa tiết uyển chuyến, tinh tế.
+ Nơi tọa lạc của đình, đền: là nơi thần luyện quân đánh giặc hay nơi thần “hóa”
hoặc là điểm “thiêng” theo quan niệm của thuyết phong thủy, nơi “Long chầu hổ
phục” hoặc trên mình rồng, trên nghiên bút.
Trên nền “đẹp” và “thiêng” này của đình đền, chùa miếu, lễ hội các làng được
diễn ra càng tăng thêm vẻ đẹp và sự linh thiêng của các nghi thức như nghi tiết, nghi

vật, nghi phục, nghi trình. Cùng với khoảng không gian hay một không gian trung tâm
của hội, cũng là trung tâm hoạt động tôn giáo của làng. Vào hội, cái không gian im ắng
21


ngày thường ấy của đồng quê bình dị bỗng rộn lên biết bao âm thanh quen thuộc và
hấp dẫn của trống, chiêng, tù, đàn, sáo của biết bao bước chân, tiếng reo hò, nói cười
rộn rã, hồ hởi của dân làng. Vào hội, cái không gian thầm lặng ngày thường ấy bỗng
sáng lên bởi cờ quạt cắm dọc đường làng và quanh khu quần thể kiến trúc này, bởi sắc
màu của đủ loại lễ phục của các nhân vật trong hội cùng với hoạt động theo chức năng
của từng nhân vật ấy, như chủ tế, ông hiệu, chân cờ, chân kiệu, nhạc công. Bởi hình
khối, đường nét rực rỡ của kiệu tàn, lõng, vọng, voi, ngựa gỗ thờ và các tự khí. Tất cả
hợp thành và vận động trông một tổng thể: lễ - nhạc – rước và trò diễn, theo một trật tự
chặt chẽ, theo nhịp điệu lúc khoan lúc nhặt của tiếng nhạc nhộn nhịp, tươi sáng. Tất cả
đồng thời giấy lên giữa bầu trời xanh, sáng nắng, tạo thành khung cảnh uy nghi, lộng
lẫy, nhìn không chán mắt, nghe không chán tai, lôi cuốn dân làng với tất cả niềm say
mê.
e) Chuẩn bị lễ hội
Theo lệ các làng, vào những ngày làng chuẩn bị vào đám, các xóm ngõ phải tu bổ
đường xá, khơi thông cổng rãnh, phạt bỏ các bụi tre, cành cây che khuất các đoạn
đường đi của đám rước. Các gia đình quét dọn lại nhà cửa. Xóm làng như đẹp hơn khi
vào hội.
Ở đình, chùa, đền, miếu thì trước khi mở hội phải sửa sang lại, nơi nào dột nát thì
tu bổ lại, tường được quét vôi cho mới đẹp. Sát ngày hội, giáp đăng cai dọn dẹp lại
đình, chùa, đền, miếu, lau chùi các đồ thờ, sắm thêm các đồ bị thiếu, bị mất hay cũ nát.
Cho đến khi lá cờ thần (cờ đại) được dựng sân đình hoặc trước cửa tam quan đình đền,
miếu, ở chùa lá cờ Phật thì không khí xóm làng không chỉ nhộn nhịp hơn, và còn
“thiêng” hơn. Hầu hết các làng có quy định duy trì sự linh thiêng này bằng việc “cấm
động” như cấm gây ầm ĩ, huyên náo hay động thổ, và không cho phép những gia đình
có tang được nổi kèn trống, không đưa đám trên những đoạn đường đi của đám rước;

thậm chí có làng vẫn còn cấm chôn cất tang chủ phải quàn xác người thân trong nhà
cho đến hết kỳ hội.
d) Tổ chức biện lễ
Hội làng muốn duy trì phải có lễ vật thờ cúng và các đồ nghi vật phục vụ thờ
cúng. Theo lệ các làng, việc biện lễ, phục vụ hành lễ và tổ chức các hoạt động vui
chơi, giải trí được phân công cho giáp. Thông thường, mỗi năm có một hoặc hai giáp

22


đăng cai, tức giáp chịu trách nhiệm chính việc dâng lễ vật thờ cúng cũng như việc thực
hành hành lễ.
Trước hết, đối với việc biện lễ và các đồ thờ cúng khác. Như đã trình bày, các lễ
vật này được phân cho các giáp. Trên nguyên tắc, giáp lại bổ đầu lượt cho các thành
viên và những người phải đảm đương việc đó đã làm với một sự cẩn thận đến cầu kỳ,
bởi công việc của họ cũng như “sản phẩm” mà họ làm ra đều phải “đẹp hóa” và
“thiêng hóa”. Ví dụ: về đẹp hóa: người nuôi lợn thờ hay gà thờ, hàng ngày phải chăm
sóc lợn, gà rất cẩn thận để lợn có da bóng nhẫy, đến ngày “rước lợn” ra đình phải tắm
rửa sạch sẽ, phun rượu mùi cho lợn rồi đặt lợn vào trong chiếc cũi được trang trí bằng
bằng các loại giấy tráng kim rực rỡ. Người nuôi gà thờ cũng phải rất cầu kỳ, từ chuồng
trại, thức ăn, theo dõi bệnh tật của gà. Đến khi tiễn lễ cho làng phải thuê người mổ cẩn
thận: từ việc cắt tiết, vặt lông không được để xây xát da, mổ xong phải dùng bộ que tre
bó và ép con gà tạo thành thế thẳng đứng, sau đó đặt cả con gà đứng trong một nồi to
rồi lấy nước nóng ở những thùng nước nóng bên cạnh dội đều lên mình gà không chỉ
có dáng đẹp, bay bướm như gà còn sống mà thịt phải có màu da trắng hoặc vàng đều,
mịn đặt trên mâm hoặc long đình hay bàn thờ rước ra đình.
Về “thiêng hóa”: mọi đối tượng có trách nhiệm biện lễ đều tự coi mình đang làm
“nghĩa vụ đặc biệt” với thần thánh, ở nhiều làng những người trong cuộc coi đó là
“vinh dự”, là “may mắn”, do vậy toàn bộ quá trình sửa lễ của họ đều diễn ra với sự
“giám sát” của thần: ngày mua lợn thờ, gà thờ hay ngay gieo mạ, ngày cấy ruộng đều

phải làm lễ cáo yết tổ tiên ở nhà và thành hoàng ở đền miếu. Quá trình nuôi dưỡng lợn,
gà thờ ngoài việc phải “chăm bẵm” còn phải kiêng gọi theo “tên tục” của vật nuôi mà
phải gọi là ông. Khi vật nuôi bị ốm hay “trái gió trở trời” phải làm lễ “giải hạn” tại
đình, miếu. Việc “thiêng hóa” càng được coi trọng vào dịp làm lễ dâng lên Thành
Hoàng: phải nhờ người biết làm, hơn nữa là những người không tang trở, song toàn,
đức độ, đông con, nhiều cháu, biết tính toán làm ăn đến làm giúp. Xong công việc, tức
dâng lợn thờ, gà thờ hay cỗ xôi lên đình, người trong cuộc tin rằng trong năm sẽ tiếp
nhận được những linh thiêng, may mắn, tốt lành từ phía thần thánh.
e) Tế lễ
Việc tế lễ cũng phải được nghi thức hóa, đẹp hóa theo phương thức thẩm mỹ.
Trong các cuộc tế lễ, người ta thấy từ nghi trượng, hương án, tam sư, ngũ sư, hạc
rùa… đều có hình thức đẹp đẽ, chạm trổ tinh vi, sơn son thếp vàng, tạo cảm giác vừa
23


đẹp, vừa trang nghiêm. Các lễ vật dâng tiến như xôi, oản, lợn, gà, hoa quả cũng đẹp và
được bày biện công phu đem lại sự linh thiêng và lòng tôn kính. Những người tham
gia cử lễ cũng phải đẹp từ nghi phục, đến lời ăn tiếng nói phải trang trọng, có nhịp
điệu khác thường lời ăn tiếng nói thường ngày, từ điệu bộ đến tư thái đều phải nghiêm
trang kính cẩn. Chẳng hạn, ngày thường, người ta có thể chào hỏi nhau một cách rất tự
nhiên, song hành động chào hỏi nhau trong ngày lễ phải được cách điệu hóa thành các
động tác chắp tay và quỳ xuống khấn vái, vừa để tỏ lòng tôn kính, vừa đẹp đẽ khác
thường. Sau cùng, toàn bộ nghi trình của cuộc lễ cũng phải tuân theo một kịch bản ít
nhiều mang tính nghệ thuật được truyền lại từ bao đời, chứ không tùy ý sáng tạo ra, để
biểu thị trước toàn bộ công chúng tham gia lễ hội một vấn đề hay một giá trị xã hội
nào đấy.
f) Đám rước
Rước là một trong ba hoạt động trọng tâm của lễ hội. Để có một đám rước đẹp,
đúng nghi thức, dân làng phải chuẩn bị rất công phu. Nhiều làng có lệ tập nghinh. Để
có thể thấy được cái đẹp của một đám rước, cần thiết phải xem trình tự của nó.

Phân tích ở hội Gióng ta thấy: Đi đầu là hai lá cờ tiết mao. Cờ tiết mao là cờ vua
trao để làm tin, tượng trưng cho sự chỉ huy. Cờ mao tượng cho mệnh lệnh của vua. Cả
hai thứ cờ này cũng là biểu hiện cho uy đức thần linh. Tiếp đến là bộ cờ ngũ hành (cờ
có màu sắc xanh, đỏ, vàng, đen, trắng) và cờ tứ phương (màu xanh, đỏ, trắng đen) và
cờ tứ linh (cờ thêu lân, ly, quy, phượng) hoặc cờ bát quái (cờ thêu một trong các chữ
tượng trưng cho 8 quẻ: càn, khôn, chấn, tốn, khảm, cấn, đoài, ly). Tiếp đến là các chân
cờ (tổng cờ) đầu đội nón dấu (nón của binh lính ngày xưa), áo nâu nẹp đỏ, thắt lưng bỏ
que. Trên ngực mỗi người đeo một cái cối con để đỡ dốc cờ cho nhẹ.
Sau những người cầm cờ là hai tráng đinh vác hai biển nhỏ, hình chữ nhật, gốc
uốn tròn, sơn son thếp vàng đi hai bên. Một biển đề chữ “Hoi tỵ” nghĩa là tránh xa;
một biển đề chữ “Tĩnh túc” nghĩa là đi đứng nghiêm túc. Tiếp theo cờ là trống cái, do
hai người khiêng bằng dóng, có làng đặt trống trên giá xe để kéo. Một hiệu trống cầm
tay, cầm đùi (trống, dùi, dóng hoặc giá đề sơn son thếp vàng). Sau trống là chiêng.
Hiệu trống và hiệu chiêng điểm nhịp từng tiếng một, trống trước, chiêng sau.
Tiếp là ngựa hồng, ngựa bạch hoặc đôi voi, tùy từng làng. Ngựa, Voi bằng gỗ, to
như thật, trang trí đẹp, yếm thêu, dây cương, có làng đúc ngữa bằng đồng. Ngựa, voi
được đặt trên bệ gỗ, có bánh xe để kéo. Mỗi con có hai người kéo hai bên. Voi, ngựa
24


đều có tán, lọng che và ngừơi quản mã chỉ huy, một người vác thanh siêu đao đi hộ vệ.
Tiếp là các chấp kích vác đồ lễ bộ và bát bửu. Giữa hai tốp này có hai quan viên mặc
lễ phục mang chiếc biển hình bầu dục có đề chữ “Thượng đẳng tối linh” và “Lịch
triều phong tặng”.
Phường nhạc đồng văn đi theo, tiếng thanh la hòa với tiếng trống bản, sênh tiền
nghe thật vui tai, gợi cảm. Kèm theo nhóm bát âm này có trò “con đĩ đánh bồng” vừa
đi vừa múa, vừa vỗ chiếc trống cơm đeo ở bụng, nhí nhảnh, làm trò cười tăng thêm
niềm vui nhộn cho không khí ngày hội. Tiếp theo, một quan viên trong lễ phục mang
sớ vía bằng vóc thêu chữ “Lệnh” có lọng vàng che. Đây là lệnh của vua, tướng thừa
hành. Rồi đến ba người lính, nón dấu, thắt lưng bó que mang kiếm lệnh, tức là thanh

gươm. Ba thanh gươm dàn hàng ngang hoặc ba người đi theo hàng dọc nối nhau với ý
nghĩa là phò tá. Sau lớp lệnh và kiếm lệnh uy nghiêm là phường bát âm với tiếng nhạc
lưu thủy và ngũ lôi hòa tấu, trẻ trung với tám âm sắc hài hòa, êm tai, góp một âm thanh
chính quy làm nền cho hội.
Tiếp là long đình (kiệu có mái) do bốn đô tùy (chân kiệu) khiêng, kèm bốn đô tùy
khác đi theo phòng, khi mệt sẽ thay nhau. Long đình rước đỉnh trầm tỏa hương thơm
thoảng và mâm quả. Trước long đình có hai người cầm trống khẩu và chiếc cảnh để
gióng hiệu, giữ thăng bằng và tốc độ đi cho những người khiêng. Hai bên long đình có
tán, lọng, quạt che rất tôn nghiêm. Nếu trong đám rước thấy hai, ba long đình và hai,
ba long kiện thì hiểu ngay là đám rước chung của hai, ba làng. Các đô tùy thường mỗi
người đem một vòng hoa bưởi hoặc hoa có hương thơm để được tinh khiết trong
Thánh tôn nghiêm. Tiếp theo là một nghi trượng như trên rồi mới đến long kiệu, long
kiệu do tám người khiêng, những người này rước bài vị mũ, áo thần, vàng nến, đỉnh
trầm hoặc bình hương đang tỏa khói hương nghi ngút. Kiệu rước Thánh Ông do nam
thanh niên khiêng. Kiệu rước Thánh Bà do thanh nữ đảm nhiệm. Đúng như câu ca dao:
“Trai thanh tân chân quỳ vai kiệu
Gái yểu điệu phụ giá nữ quan”
Nếu diễn thường là đoạn đường dài, đám rước đi xa thì phải có chỗ trì kiệu, tức
là nơi ngưng kiệu, nghỉ ngơi, mọi người ăn trầu, hút thuốc và nhân đó các chân kiệu
thay nhau. Trong đám rước có khi thấy “kiệu ba y” tức là các chân kiệu rảo bước, kiệu
được chuyển dịch nhanh và được mệnh danh là “Thánh đang vội”, “Rước gặp giờ
linh” hoặc hành động theo một tục hèm nào đó.
25


×