TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ EM Ở TỈNH
KIÊN GIANG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Sƣ phạm Giáo dục công dân
Mã ngành
Cán bộ hƣớng dẫn
GVC. ThS PHAN VĂN THẠNG
Sinh viên thực hiện
PHẠM THỊ PHƢƠNG THANH
MSSV : 6096115
Lớp: SP. GDCD K35
Cần Thơ
tháng 11 năm 2012
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài …………………………..….……………………….1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ……….…..………………………...2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ……….…………………………….2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ……………….……………………………...3
5. Kết cấu luận văn ………………………………….……………………3
Phần nội dung
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về tình dục và lạm dụng tình dục trẻ em
1.1. Khái niệm tình dục và lạm dụng tình dục ………………………..…4
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trẻ em, quyền trẻ
em và lạm dụng tình dục trẻ em ……………………………………………15
Chƣơng 2. Thực trạng về lạm dụng tình dục trẻ em ở tỉnh Kiên Giang trong thời
gian qua
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang liên quan đến lạm dụng tình
dục ……………………………………………………...……………….…20
2.2. Thực trạng và nguyên nhân của lạm dụng tình dục trẻ em ở Kiên Giang trong
thời gian qua …………………………………………………….…..…………26
Chƣơng 3. Giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn lạm dụng tình dục ở tỉnh Kiên Giang
trong thời gian tới
3.2. Tuyên truyền cho các bậc cha mẹ biết đƣợc những nguy cơ, nguyên nhân, đối
tƣợng của lạm dụng tình dục để họ có các biện pháp phòng chống cho con em mình
…………………………………………………………………..……………..32
3.3. Phối hợp cùng gia đình và nhà trƣờng tuyên truyền giáo dục trang bị những kiến
thức cần thiết về sức khoẻ sinh sản các kĩ năng sống cần thiết để các em có thể tự bảo vệ
mình trƣớc mọi tình huống ……………………………………….……35
3.4. Phát huy vai trò của nhân viên công tác xã hội ……………………..38
3.5. Các ban ngành chức năng liên quan đề ra các biện pháp phòng chống hữu hiệu
nhằm ngăn chặn đẩy lùi tình trạng lạm dụng trẻ em ………...…………...39
3.6. Đẩy mạnh công tác giáo dục ………………………………………...40
Phụ lục ……………………………………………………………………..44
Kết luận ………………………………………………...………………….56
Tài liệu tham khảo …………………………………………………………58
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em chính là thế hệ tƣơng lai của đất nƣớc vì thế trẻ em sinh ra để đƣợc
yêu thƣơng, chăm sóc, chiều chuộng... Thế nhƣng thực tế luôn khác xa với những
điều chúng ta kỳ vọng. Những đứa trẻ sinh ra đời ngoài ý muốn do những bậc sinh
thành quá nghèo để nuôi con hay những ngƣời sinh con ra chỉ vì lầm đƣờng lỡ
bƣớc. Tất cả tạo thành những cảnh đời lang thang, tủi nhục cơ hàn cho những đứa
trẻ còn ngây thơ, non nớt.
Ngày nay, Việt Nam đang chịu sự tác động cả mặt tích cực lẫn hạn chế của
nền kinh tế thị trƣờng, một quy luật phát triển tất yếu. Nền kinh tế thị trƣờng đã
giúp kinh tế nƣớc ta càng ngày càng phát triển, nhƣng đi cùng nó là sự suy thoái
đạo đức trầm trọng của một lớp ngƣời làm ăn, ngƣời ít học và nhất là một bộ phận
không nhỏ thanh thiếu niên, những ngƣời chƣa hình thành đƣợc cho mình lối sống
cho bản thân.
Càng ngày, chúng ta càng coi trọng những giá trị vật chất mà đánh mất đi
những nét đẹp văn hóa dân tộc của ngƣời Việt. Gia đình không còn là tổ ấm, là chỗ
dựa vững chắc cho con trẻ. Trẻ em không còn đƣợc quan tâm, chăm sóc bằng tình
yêu thƣơng của chính bố mẹ mà tình cảm chỉ thể hiện qua những vật chất mà cha
mẹ cho con cái. Trẻ em dần dần sống trong môi trƣờng chỉ có những món đồ xa
hoa và tiền bạc mà không còn hình bóng bố mẹ.
Những nền văn hóa độc hại càng ngày càng thâm nhập sâu vào không chỉ là
một số ngƣời mà gần nhƣ là một bộ phận không nhỏ những ngƣời học vấn thấp và
những ngƣời thanh thiếu niên trẻ sống không có lý tƣởng, không có hoài bão. Đây
cũng là một trong những lý do khiến càng ngày càng có nhiều những tệ nạn xã hội
trong đó có nổi bật nhất là tình trạng lạm dục tình dục trẻ em.
Hiện nay, lạm dụng tình dục trẻ em đang là một vấn đề nghiêm trọng mà
không chỉ trẻ em Việt Nam mà khắp thế giới phải đối mặt. Hàng ngày có hàng
trăm ngàn trẻ em bị lạm dụng tình dục trên khắp thế giới. Theo một kết quả điều
tra thật sự gây sốc khi gần 80% ngƣời đƣợc hỏi cho biết đã bị đụng chạm vào vị trí
tế nhị trên cơ thể. Phần lớn các em cho biết sự việc này xảy ra 1 lần hoặc một vài
lần. Các em thƣờng bị lạm dụng bởi những ngƣời quen biết, họ hàng. Một điều bất
ngờ là trẻ trai bị lạm dụng nhiều gấp hai lần so với trẻ gái. Một trong vô số hình
thức lạm dụng là hành vi sờ vào bộ phận sinh dục trẻ. Nhiều ngƣời lớn cho rằng
đây chỉ là cách biểu hiện tình cảm vô hại đối với bé trai. Song hầu hết các em đều
phản đối điều này và cho biết không hề cảm thấy thoải mái, thấy khó chịu và bị
xâm hại, thậm chí là lạm dụng. Bên cạnh các nỗ lực của chính phủ thì vai trò của
gia đình có ý nghĩa hết sức quan trọng vì ngƣời ta thấy nhiều gia đình đã bán con
mình cho những kẻ dắt mối.
Những đặc điểm nói trên đã có tác động rất lớn làm nảy sinh tình trạng lạm
dụng tình dục trẻ em hiện nay đến mức báo động. Chính từ những lý do trên, ngƣời
viết chọn đề tài: “Lạm dụng tình dục trẻ em ở tỉnh Kiên Giang - Thực trạng và giải
pháp” để làm bài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu phân tích và đánh giá
thực trạng, nguyên nhân, thấy đƣợc hậu quả của việc lạm dụng tình dục đến bản
thân trẻ em, gia đình và xã hội. Từ sự phân tích, đánh giá ngƣời viết đề ra những
giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn việc lạm dụng tình dục đối với trẻ em tỉnh Kiên
Giang trong thời gian tới, để có thể xây dựng một môi trƣờng an toàn cho trẻ em
tỉnh phát triển toàn diện về cả năng lực lẫn nhân cách.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là giải quyết
những vấn đề sau: Từ những cơ sở lý luận về tình dục và lạm dụng tình dục trẻ em
nói chung. Qua đó đánh giá về thực trạng cũng nhƣ những nguyên nhân của lạm
dụng tình dục trẻ em tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua. Bên cạnh đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn lạm dụng tình dục trẻ em ở tỉnh Kiên
Giang trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trẻ em ở tỉnh Kiên Giang bị lạm dụng tình dục và giải
pháp ngăn chặn
Phạm vi nghiên cứu: Trong bài viết này, ngƣời viết chỉ xem xét các trƣờng
hợp trẻ em bị lạm dụng tình dục tại tỉnh Kiên Giang từ năm 1992 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, ngƣời viết sử dụng phƣơng pháp lịch sử - logic, phƣơng pháp phân tích tài
liệu, phƣơng pháp so sánh.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
3 chƣơng, 10 tiết.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÌNH DỤC VÀ LẠM DỤNG TÌNH DỤC
TRẺ EM
1.1. Khái niệm về tình dục và lạm dục tình dục
1.1.1. Tình dục
Tình dục là hoạt động sinh dục ở ngƣời. Đây là một khái niệm rộng, bao
hàm: Nhận thức và cảm xúc về cơ thể mình và cơ thể ngƣời khác; Khả năng và
nhu cầu gần gũi về tình cảm với một ai đó; Có những suy nghĩ và tình cảm giới
tính; Cảm giác hấp dẫn tình dục với ngƣời khác; Các tiếp xúc tình dục: từ động
chạm cơ thể đến giao hợp.
Tình dục đƣợc định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Định nghĩa đơn giản
theo từ điển xã hội học thì đó là những hành vi về quan hệ tính giao (tính giao: dựa
trên giới tính) trong đó đặc biệt bao gồm việc giao hợp. Nhƣng cách hiểu của từng
ngƣời thì rất khác nhau. Những vấn đề về nghiên cứu tình dục đã đƣợc đề cập đến
từ thế kỷ 16 và đến nay trở thành môn học tình dục học.
Đối với nhiều ngƣời tình dục là quan hệ dƣơng vật - âm đạo hoặc là quan hệ
dƣơng vật - hậu môn. Nhƣng một số ngƣời thì cho rằng là việc cơ quan sinh dục cọ
xát vào nhau mà không cần giao hợp. Một bộ phận nghĩ rằng tiếp xúc miệng - cơ
quan sinh dục cũng là tình dục. Vài ngƣời lại cho rằng tình dục bao gồm cả việc
thủ dâm. Thực tế là, tình dục bao gồm tất cả những hình thức trên.
Quan hệ tình dục với một ngƣời dƣới bất cứ hình thức nào - từ hôn nhau, va
chạm tới giao hợp - đều hàm chứa trong nó rất nhiều trách nhiệm. Đó là trách
nhiệm bảo vệ bản thân và bạn tình khỏi việc mang thai ngoài ý muốn hoặc các
bệnh lây qua đƣờng tình dục. Cũng nhƣ trách nhiệm đóng góp vào việc xây dựng
và gìn giữ niềm tin, mối quan hệ của cả hai.
Rất nhiều ngƣời có cảm giác không muốn quan hệ tình dục tại một giai đoạn
nào đó của cuộc đời. Đây là điều hoàn toàn bình thƣờng. Mỗi ngƣời có những mức
độ ham muốn khác nhau, và dao động theo thời gian. Căng thẳng, gia đình, ký ức
cũ về tình dục, cảm giác an toàn, sự hấp dẫn đối với một ngƣời và nhiều yếu tố
khác đều ảnh hƣởng tới ham muốn.
Nhiều ngƣời định nghĩa đồng tính là ngƣời bị hấp dẫn về mặt tình cảm và
tình dục với ngƣời cùng giới. Trƣớc hết cần nói rằng, ngƣời đồng tính (nam và nữ),
song tính có quy trình quan hệ tình dục cũng giống nhƣ những ngƣời dị tính: dạo
đầu (ôm, hôn, khám phá cơ thể của nhau, nói chuyện), rồi đến kích thích, rồi âu
yếm sau quan hệ. Ở những xã hội mà tình dục đƣợc hiểu theo nghĩa rất hẹp là giao
hợp âm đạo - dƣơng vật thì hẳn nhiên sẽ xem tình dục đồng giới là không bình
thƣờng. Nhƣng nhƣ đã nói ở phần trên, tình dục bao gồm rất nhiều hình thức khác
nhau. Và tình dục đồng giới có rất nhiều hình thức khác nhau, tất cả đều bình
thƣờng và lành mạnh. Những kiểu quan hệ tình dục của ngƣời đồng tính cũng đƣợc
những ngƣời dị tính sử dụng phổ biến.
Những người đồng tính nữ
Kích thích giữa tay, ngón tay - bộ phận sinh dục; Kích thích giữa tay, ngón
tay - hậu môn; Kích thích giữa miệng, lƣỡi - bộ phận sinh dục; Kích thích giữa
miệng, lƣỡi - hậu môn; “Cắt kéo”, nghĩa là chạm hai bộ phận sinh dục và cọ xát
lên nhau. Nhiều ngƣời có quan niệm rằng đồng tính nữ luôn phải cần đến dụng cụ
hỗ trợ. Một ngƣời cầm hoặc đeo dụng cụ và đƣa vào âm đạo hoặc hậu môn của
ngƣời kia. Trên thực tế, dụng cụ hỗ trợ có thể đƣợc dùng nhƣng không cần thiết.
Đối với nữ thì tình dục có thể là bất cứ điều gì dẫn tới đƣợc khoái cảm, vì các bộ
phận cơ thể tạo khoái cảm ở phụ nữ rất phong phú và trải đều trên cơ thể, từ trong
ra ngoài: tay, ngón tay, ngón chân, âm vật, âm đạo, hậu môn, ngực, môi, đầu vú,
tất cả đều có thể tham gia.
Những người đồng tính nam
Kích thích giữa tay, ngón tay - bộ phận sinh dục; Kích thích giữa miệng,
lƣỡi - bộ phận sinh dục; Kích thích giữa tay, ngón tay - hậu môn; Kích thích giữa
miệng, lƣỡi - hậu môn; “Đấu kiếm”, nghĩa là chạm hai bộ phận sinh dục và cọ xát
lên nhau. Sử dụng dụng cụ hỗ trợ để kích thích lên dƣơng vật hoặc đƣa vào hậu
môn. Quan hệ giữa bộ phận sinh dục - hậu môn (đƣa dƣơng vật vào hậu môn và
kéo đẩy, nên luôn sử dụng với bao cao su và chất bôi trơn gốc nƣớc để đạt an toàn
và khoái cảm cao nhất). Các bộ phận khác nhƣ ngón tay, ngón chân, tinh hoàn, đùi,
ngực, môi, đầu vú đều có thể tham gia vào.
Những người chuyển giới
Ngƣời đồng tính là ngƣời bị hấp dẫn bởi ngƣời cùng giới. Còn ngƣời chuyển
giới là ngƣời có cơ thể sinh học khác với giới tính mà họ mong muốn. Nhƣ vậy, ví
dụ một ngƣời chuyển giới có cơ thể sinh học là nam yêu một ngƣời nam khác, thực
chất họ đang xem mình yêu ngƣời khác giới, vì bản thân họ nhận dạng giới tính
của mình là nữ. Có thể tạm chia ngƣời chuyển thành ngƣời chuyển giới chƣa qua
phẫu thuật, và ngƣời chuyển giới đã qua phẫu thuật. Đối với ngƣời chuyển giới
chƣa qua phẫu thuật thì việc quan hệ tình dục của họ tƣơng tự nhƣ với ngƣời đồng
tính (nghĩa là mọi hình thức trừ quan hệ âm đạo - dƣơng vật). Đối ngƣời chuyển
giới đã qua phẫu thuật thì việc quan hệ tình dục của họ tƣơng tự nhƣ với ngƣời dị
tính (nghĩa là mọi hình thức bao gồm quan hệ âm đạo - dƣơng vật, với bộ phận
sinh dục mới mà họ có).
Người chuyển giới nam - sang - nữ
Khoảng 50% ngƣời chuyển giới nam - sang - nữ có bộ phận sinh dục hoàn
chỉnh và hoạt động đƣợc. Khoảng 50% còn lại chỉ tạo hình bên ngoài hoặc không
hoạt động. Tuy nhiên đa phần những dây thần kinh tạo khoái cảm của họ vẫn còn
và vì vậy khoái cảm vẫn hoàn toàn có. Một nghiên cứu nói rằng 80 - 100% ngƣời
chuyển giới nam - sang - nữ sau khi phẫu thuật đạt đƣợc cực khoái khi quan hệ. Tỷ
lệ này cao hơn cả tỷ lệ những ngƣời nữ từ khi sinh ra đạt đƣợc cực khoái, vốn là
mơ ƣớc của nhiều ngƣời phụ nữ bẩm sinh này.
Người chuyển giới nữ - sang - nam
Cách đây vài thập kỷ, đối với việc chuyển giới nữ - sang - nam, vốn tốn kém
hơn và tỷ lệ thành công về cả thẩm mỹ và chức năng cũng đƣợc ghi nhận là ít hơn;
số ngƣời trải qua phẫu thuật nữ - nam chỉ bằng khoảng 1/10 so với nam - nữ.
Nhƣng tỷ lệ này ngày càng ngang bằng hơn. Có hai phƣơng pháp chính của phẫu
thuật chuyển giới nữ - sang - nam:
Tạo hình dương vật
Sử dụng mô ở phần khác của cơ thể để tạo hình dƣơng vật. Với phƣơng
pháp này thì cần cấy thêm một bơm nƣớc muối, hoặc gắn trục để có thể cƣơng
cứng. Nhiều ngƣời nam bẩm sinh cũng áp dụng phƣơng pháp này để điều trị chứng
bất lực. Nhƣ vậy có thể cƣơng cứng bằng dụng cụ trợ giúp.
Kết hợp liệu pháp hoóc - môn và phẫu thuật để làm âm vật to và dài
Nhƣ đã biết, âm vật vốn dĩ cũng có khả năng cƣơng cứng khi ngƣời phụ nữ
hƣng phấn. Vì vậy khi âm vật dần dần đƣợc biến thành dƣơng vật, ngƣời chuyển
giới nữ - sang - nam hoàn toàn có thể cƣơng cứng theo ham muốn, tuy nhiên độ
dài và mức độ cứng chỉ ở mức thấp.
Số liệu không chính thức nhƣng vào giai đoạn đầu, hầu ngƣời ngƣời chuyển
giới đã qua phẫu thuật quan tâm nhiều hơn đến việc có cơ thể mong muốn hơn là
có ham muốn tình dục với cơ thể mới đó. Và nhƣ vậy, họ vẫn còn rất nhiều lựa
chọn ngoài hình thức tình dục âm đạo - dƣơng vật.
1.1.2. Lạm dụng tình dục trẻ em
Lạm dụng tình dục trẻ em là quá trình trong đó một ngƣời trƣởng thành lợi
dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cƣỡng ép trẻ em tham gia vào hoạt động tình
dục. Lạm dụng tình dục trẻ em có thể xảy ra ở bất kì nền văn hóa, chủng tộc, tôn
giáo, thể chế chính trị nào. Thuật ngữ lạm dụng trẻ em bao gồm bốn loại đối xử tệ
bạc cơ bản: bỏ rơi trẻ, lạm dụng thể chất trẻ, lạm dụng tinh thần, lạm dụng tình
dục.
Bỏ mặc trẻ là hình thức lạm dụng trẻ thƣờng đƣợc báo cáo nhất (60%
trƣờng hợp) và gây tử vong nhiều nhất. Bỏ mặc trẻ có nghĩa là không thể cung cấp
chỗ ở, sự an toàn, sự giám sát và nhu cầu dinh dƣỡng cho trẻ. Bỏ mặc trẻ có thể là
về thể chất, giáo dục, hay tình cảm. Đánh giá sự bỏ mặc trẻ cần sự xem xét đến các
giá trị văn hoá và các tiêu chuẩn chăm sóc cũng nhƣ nhận thức rằng việc không thể
cung cấp nhu cầu cần thiết của cuộc sống có thể liên hệ với sự nghèo đói. Bỏ mặc
trẻ về thể chất bao gồm sự từ chối hay chậm trễ trong việc tìm kiếm chăm sóc sức
khoẻ, bỏ rơi, giám sát không đầy đủ, đuổi trẻ khỏi nhà, hay từ chối không cho trẻ
bỏ nhà đi quay lại. Bỏ mặc về giáo dục bao gồm sự cho phép trẻ trốn học lâu dài,
không thể đăng ký cho trẻ đến tuổi đi học, và không thể chăm lo nhu cầu giáo dục
đặc biệt. Bỏ mặc về tình cảm liên quan đến sự không quan tâm rõ ràng các nhu cầu
đƣợc yêu thƣơng của trẻ, từ chối hay không thể cung cấp chăm sóc tâm lý cần
thiết, lạm dụng bia ,rƣợu, thuốc lá,… của bố mẹ trƣớc mặt trẻ, và cho phép trẻ sử
dụng ma tuý hay rƣợu.
Lạm dụng thể chất là dạng lạm dụng thƣờng đƣợc báo cáo thứ nhì (25%
trƣờng hợp). Hình thức đối xử tệ bạc này đƣợc định nghĩa là tổn thƣơng thể chất
có chủ ý gây ra cho trẻ. Lạm dụng thể chất có thể là kết quả của đấm, đánh, đá,
cắn, đốt, lắc, hay nói cách khác là gây hại cơ thể trẻ. Bố mẹ hoặc ngƣời chăm sóc
trẻ có thể không cố ý làm tổn thƣơng đứa trẻ, mà tổn thƣơng này có thể là kết quả
của nỗ lực làm trẻ tuân theo kỷ luật hay trừng phạt thể chất quá mức. Vẫn còn
tranh cãi gay gắt về các phƣơng pháp trừng phạt thể chất (ví dụ đánh phạt vào
mông) và mối quan hệ với các hình thức lạm dụng thể chất chính thức.
Lạm dụng tinh thần trẻ là hình thức lạm dụng thƣờng đƣợc báo cáo thứ 3
(17% trƣờng hợp). Hình thức này đƣợc cho là đƣợc báo cáo không đầy đủ bởi vì
rất khó phát hiện và ghi nhận nó. Lạm dụng tình cảm bao gồm các hành động hay
sự bỏ quên bởi bố mẹ hoặc những ngƣời chăm sóc khác mà có thể gây nên rối loạn
hành vi, tình cảm, hoặc tinh thần. Trong một vài trƣờng hợp lạm dụng tình cảm,
các hành động của bố mẹ hay ngƣời chăm sóc khác không gây tổn thƣơng rõ ràng
tình trạng hay hành vi trẻ thì cũng đủ cần đến sự can thiệp của các đơn vị bảo vệ
trẻ em. Ví dụ bố mẹ hay ngƣời chăm sóc có thể dùng các biện pháp trừng phạt
nặng nhƣ giam trẻ vào phòng tối nhỏ. Lạm dụng tình cảm trẻ em đôi khi cũng
đƣợc định nghĩa là lạm dụng tinh thần, lạm dụng bằng lời nói, làm tổn thƣơng tinh
thần trẻ.
Lạm dụng tình dục là hình thức lạm dụng ít đƣợc báo cáo nhất (6% trƣờng
hợp). Các chuyên gia tin rằng lạm dụng tình dục có thể là loại bị báo cáo ít nhất vì
sự bí mật hay sự thông đồng giữ kín mọi chuyện thƣờng là điểm đặc trƣng của các
trƣờng hợp này.
Cho đến hiện nay vẫn chƣa có một định nghĩa thống nhất hoàn toàn về lạm
dụng tình dục ở trẻ em. Tuy nhiên đặc trƣng chính yếu của hành vi lạm dụng tình
dục trẻ em là quá trình trong đó một ngƣời trƣởng thành lợi dụng vị thế của mình
nhằm dụ dỗ hay cƣỡng ép trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục. Hành vi lạm
dụng tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh dục của trẻ, thủ dâm, tiếp
xúc miệng - bộ phận sinh dục, giao hợp bằng ngón tay và cao hơn là giao hợp qua
đƣờng sinh dục hoặc hậu môn. Lạm dụng tình dục ở trẻ em không chỉ giới hạn vào
các tiếp xúc cơ thể mà còn bao gồm cả nhƣng hành vi không tiếp xúc nhƣ khoe bộ
phận sinh dục cho trẻ thấy, rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm trẻ
em.
Nhƣ vậy có thể tạm hiểu lạm dụng tình dục trẻ em đó là những hành động
dâm dục của ngƣời lớn đối với ngƣời dƣới 16 tuổi (theo Công ƣớc quốc tế về
quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc đã đƣợc thông qua 20 - 11 - 1989). Theo phạm vi
thì lạm dục tình dục trẻ em đƣợc chia làm 2 loại
Phạm vi trong gia đình
Những ngƣời thân trong gia đình của đứa trẻ nhƣ: bố mẹ, ông bà, chú bác...
Một hình thức phổ biến là sờ vào bộ phận sinh dục của trẻ (nhất là đối với các trẻ
trai).
Lạm dụng tình dục gia đình thƣờng không xảy ra ở những gia đình có văn
hóa, có nề nếp, gia phong, nghĩa là nơi mà các thành viên trong gia đình biết tôn
trọng lẫn nhau. Trong các gia đình đó, những ngƣời lớn biết bảo vệ và tôn trọng
quyền của các trẻ em. Những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em trong phạm vi gia đình
là những kẻ biết lợi dụng quyền lực và vị thế của họ trong gia đình, lợi dụng sự
phụ thuộc, sự ngây thơ, sự ngờ nghệch và tình yêu của trẻ để có hành vi mang ý đồ
dâm dục bất chính. Tỷ lệ hành vi này là bao nhiêu còn chƣa đƣợc nêu lên một cách
chính xác ở nƣớc ngoài cũng nhƣ ở trong nƣớc, vì nhiều ngƣời không muốn tố cáo
hành vi này.
Mặc dầu lạm dụng tình dục trong phạm vi gia đình có thể xảy ra ở mọi hoàn
cảnh kinh tế của gia đình nhƣng nó thƣờng xảy ra ở những gia đình có nhiều vấn
đề nhƣ thất nghiệp, nghiện rƣợu, thô lỗ với vợ và gia đình bất hòa. Lạm dụng tình
dục phạm vi gia đình thƣờng xảy ra trong những hoàn cảnh mà cha mẹ chia tay
nhau hoặc một ngƣời bị bỏ rơi, bị đối xử ghẻ lạnh. Ngoài ra, ngƣời ta cũng nhận
thấy rằng những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em cũng thƣờng là những ngƣời đã từng
bị lạm dụng khi còn bé.
Các biểu hiện của sự lạm dụng tình dục cũng rất đa dạng có khi diễn ra từ
rất sớm nhƣng thƣờng ở độ tuổi 8 - 12, có thể phát triển dần dần nhƣng cũng có thể
xảy ra đột ngột và thô bạo, có khi chỉ một em bị lạm dụng nhƣng có khi tất cả các
em trong gia đình. Tòa án nhân dân tối cao ở nƣớc ta cho biết thời gian gần đây tội
phạm hiếp dâm trẻ em không chỉ tăng về số lƣợng mà cả về tính chất và mức độ.
Có nhiều vụ đặc biệt nguy hiểm, mất hết tính ngƣời nhƣ vụ Trần Văn Thọ đã hiếp
dâm chính con đẻ của mình mới 12 tuổi trong một thời gian dài bất chấp việc con
kêu khóc, van xin. Kết quả là con gái y phải phá thai đến 3 lần. Nguyễn Văn Nở,
đã có tiền án 12 năm tù về tội hiếp dâm, sau khi ra tù lại tiếp tục hiếp dâm con gái
đẻ 2 lần.
Ngoài phạm vi gia đình (hay còn gọi là tệ ham thích có quan hệ tình dục với
trẻ em)
Thƣờng là những ngƣời trƣởng thành (chủ yếu là đàn ông) tìm kiếm khoái
cảm với trẻ em nam hoặc nữ bằng nhiều cách, từ vuốt ve, sờ mó bộ phận sinh dục
cho đến có hành động giao cấu thực sự.
Lạm dụng tình dục trẻ em là hành vi bị lên án nhiều nhất. Theo Công ƣớc về
quyền trẻ em, phải ngăn ngừa việc xúi giục hay bắt buộc trẻ em tham gia bất kỳ
hành vi tình dục bất hợp pháp nào có tính chất bóc lột; bắt cóc hay buôn bán trẻ em
và sử dụng trẻ em vào mục đích khiêu dâm có hại cho các em trên bất kỳ hình thức
nào (ấn phẩm hay các trò biểu diễn).
Lạm dụng tình dục trẻ em đang ngày càng trở nên trầm trọng trong một số
nƣớc. Bên cạnh các nỗ lực của chính phủ thì vai trò của gia đình có ý nghĩa quan
trọng vì nhiều gia đình đã bán con mình cho những kẻ dắt mối. Gia đình cần có ý
thức bảo vệ tuổi thơ của con em mình.
Trong các hình thức lạm dụng tình dục trẻ em thì mại dâm trẻ em là hình
thức bóc lột dã man, vô nhân đạo nhất, gây hậu quả tai hại không những cho các
em mà còn cho xã hội trên các mặt đạo đức, tâm lý, tình cảm. Tại một cuộc họp ở
Hồng Kông vào tháng 11 - 1991, tiến sĩ Puri Quisumbing, cố vấn cao cấp của
UNICEF khu vực Đông Á, mô tả mại dâm trẻ em nhƣ một tội ác chống nhân loại.
Bà coi mại dâm trẻ em cũng nhƣ tệ cƣớp bóc, tra tấn là một hành động chống lại
các chuẩn mực của xã hội. Đó là sự mua bán gây ra nỗi đau khổ không kể xiết
không những cho trẻ em mà còn cho cả nhân loại. Những trẻ em đã từng bị lạm
dụng hoặc bóc lột tình dục cần đƣợc giúp đỡ phục hồi về mặt thể chất, tâm lý và tái
hòa nhập xã hội. Các em phải đƣợc bảo vệ, không bị bỏ mặc, không bị xúc phạm
và không bị trừng phạt dƣới bất kỳ hình thức nào. Trái lại, cần tạo điều kiện để các
em đƣợc có môi trƣờng tốt cho sức khỏe, tăng thêm lòng tự trọng và phẩm giá.
Trong năm 1992, Liên Hiệp Quốc cũng đã thông qua chƣơng trình hành động
nhằm ngăn ngừa việc buôn bán trẻ em, mãi dâm trẻ em và văn hóa phẩm trẻ em
khiêu dâm với khuyến nghị 11 điểm do giáo sƣ Vitit Muntarbhorn (Thái Lan), đặc
phái viên của Liên Hiệp Quốc điều tra về tình trạng buôn bán trẻ em trên thế giới
đề xuất.
Hiện nay không có một nghiên cứu thống kê nào cho biết chính xác con số
lạm dụng tình dục ở trẻ em do không có một định nghĩa rõ ràng thống nhất về lạm
dụng tình dục trẻ em cũng nhƣ nhiều nạn nhân không thể khai báo bởi nhiều lý do
khác nhau. Tuy nhiên theo các chuyên gia thì đây là một hiện tƣợng không hiếm
gặp và cũng là một vấn đề pháp lý - tâm lý - xã hội nghiêm trọng tại Mỹ. Một
nghiên cứu cho thấy rằng 20% phụ nữ và 10% nam giới đã bị lạm dục tình dục ở
những mức độ khác nhau khi trƣớc tuổi trƣởng thành. Ở Việt Nam, gần đây báo
chí và công luận đã bắt đầu lên tiếng cảnh báo mạnh mẽ vấn đề này. Tuy nhiên,
những nghiên cứu cụ thể và quy mô thì hình nhƣ chƣa có.
1.1.3. Hậu quả của lạm dụng tình dục
Đối với nạn nhân
Về mặt thể chất
Những hậu quả về mặt cơ thể có thể thấy đƣợc ngay ở trẻ em nhỏ nhƣ rách
âm đạo - trực tràng gây chảy máu nặng nề, các tổn thƣơng khác của bộ phận sinh
dục, nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (HIV/AIDS, lậu,…), nguy hại
hơn có thể ảnh hƣởng tới tính mạng (bị giết).
Về mặt sức khỏe sinh sản
Gây có thai không mong muốn và thƣờng kèm theo những ảnh hƣởng xấu
đến thai nhƣ sinh non, nhẹ cân hoặc nhỏ so với tuổi thai. Nhiều trẻ vị thành niên có
thai đã phải lựa chọn giải pháp nạo phá thai, dẫn đến biến chứng tức thì hoặc lâu
dài do thủ thuật gây ra (thủng tử cung, chảy máu, choáng, viêm nhiễm vòi trứng
dẫn đến vô sinh...). Bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ có thể làm tăng tỷ lệ bị rối
loạn kinh nguyệt, bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục hoặc nhiễm khuẩn đƣờng
tiết niệu. Nguyên nhân một phần là do cơ thể giảm khả năng miễn dịch vì đã phải
chịu đựng stress, thiếu chăm sóc y tế... Trung bình những em gái vị thành niên bị
lạm dụng tình dục khi còn nhỏ có tỷ lệ dễ mang thai trƣớc tuổi 18 nhiều gấp 3 lần
so với các em gái không bị lạm dụng tình dục.
Về mặt sức khỏe tinh thần
Các em rất dễ mất lòng tin và ý thức trách nhiệm bản thân, sống cam chịu,
không có can đảm vƣợt qua những hoàn cảnh khó khăn; Coi mình không còn giá
trị, giảm sút lòng tự trọng, sống bữa bãi buông thả, dễ quan hệ tình dục sớm... Chỉ
một lần bị lạm dụng tình dục cũng đủ gây ra những ảnh hƣởng tâm lý kéo dài, nhất
là khi sau đó trẻ lại không nhận đƣợc sự hỗ trợ thích hợp.
Trẻ em bị lạm dụng tình dục có thể biểu hiện những rối loạn về hành vi
cũng nhƣ tâm thần từ nhẹ đến nặng, ngắn hạn cũng nhƣ dài hạn. Tùy thuộc vào
mức độ của lạm dụng tình dục mà trẻ có thể biểu hiện sợ hãi và lo lắng trƣớc ngƣời
khác giới hoặc trƣớc những vấn đề liên quan đến tình dục và có thể biểu hiện
những hành vi tình dục không đúng mực.
Những ảnh hƣởng ban đầu hay ảnh hƣởng ngắn hạn thƣờng xuất hiện trong
khoảng 2 năm đầu tiên. Những biểu hiện này tùy thuộc vào mức độ, hoàn cảnh
cũng nhƣ tuổi của trẻ lúc bị lạm dụng tình dục. Tuy nhiên những biểu hiện thƣờng
gặp bao gồm những biểu hiện thơ ấu hóa (ví dụ trẻ có thể mút tay mặc dù đã lớn
hoặc đái dầm), rối loạn giấc ngủ, chán ăn, xấu hổ, mặc cảm tội lỗi, rối loạn về ứng
xử cũng nhƣ khả năng học tập ở trƣờng, biểu hiện co mình lại không tham gia vào
các hoạt động đoàn thể hay xã hội, tính cách dễ bùng nổ...
Những hậu quả xấu của lạm dụng tình dục có thể để kéo dài nhiều năm sau
này cũng nhƣ đến tuổi trƣởng thành. Những ngƣời này thƣờng có biểu hiện trầm
cảm. Nếu tình trạng lo lắng ở mức độ cao có thể đãn đến những hành vi tự hủy
hoại cơ thể nhƣ nghiện rượu, nghiện ma túy, có những cơn hốt hoảng, những rối
loạn lo âu ở một tình huống đặc trƣng nào đó, mất ngủ. Và rất nhiều ngƣời gặp rất
nhiều khó khăn trong đời sống tình dục sau này, hơn nữa đây có thể là nguyên
nhân của 2 rối nhiễu về hành vi tình dục sau này
Chứng nghiện tình dục
Là tình trạng luôn bị thôi thúc, ám ảnh bởi chuyện tình dục nhƣ một cách
tránh né vô thức nỗi đau cảm xúc. Thờ ơ, xa rời những cảm xúc thật sự của mình.
Những ngƣời nghiện tình dục thƣờng không thể tâm sự hay biểu lộ cảm xúc với
mọi ngƣời, do đó mối quan hệ thƣờng phức tạp. Giới y học đã ngày càng quan tâm
đến hiện tƣợng này vì ngƣời ta có thể mắc chứng nghiện tình dục cũng nhƣ nghiện
rƣợu hay ma túy. Ðối tƣợng nghiện tình dục có thể là nam hoặc nữ và thuộc đủ các
thành phần xã hội. Nguyên nhân dẫn đến chứng nghiện tình dục còn chƣa đƣợc
biết rõ. Một số nhà nghiên cứu khẳng định có yếu tố di truyền, trong khi nhiều
ngƣời khác chú ý đến yếu tố thay đổi các hóa chất - thần kinh gắn với sự phát triển
cơn nghiện. Cũng có những bằng chứng cho thấy đó là hậu quả về chấn thƣơng
tâm lý từ lúc nhỏ, những trải nghiệm trong quá khứ bị hành hạ về thể xác và xúc
cảm, nạn nhân của lạm dụng tình dục hoặc bị đối xử tàn tệ về thể xác và tinh thần.
Có lẽ còn một cách giải thích nữa thuộc phạm vi sinh học đối với hiện tƣợng
nghiện tình dục - giống nhƣ nghiện ma túy và nghiện rƣợu - là đƣa ngƣời ta đến
chỗ ngày càng thƣờng xuyên cần đến "chất ma túy đặc biệt" này nhƣng cũng ngày
càng giảm đi khoái cảm.
Endorphine là hormone đƣợc bài tiết ra khi giao hợp, có cấu trúc tƣơng tự
nhƣ các chất gây nghiện (heroin hay morphine). Khi endorphine tiết ra nhiều sẽ
gây cảm giác dễ chịu thoải mái, xoa dịu cơn đau và nỗi lo sợ, có thể tạo ảo tƣởng
"bay bổng" sảng khoái. Nhƣng khi lƣợng endorphine giảm xuống, nó sẽ làm biến
đổi trạng thái tâm lý, khiến ta dễ cáu kỉnh, lo buồn và nhiều tâm trạng nặng nề
khác. Theo thời gian, việc tìm kiếm những quan hệ tình dục trở nên thƣờng xuyên
hơn nhƣng không phải để tìm lại cảm giác sảng khoái ban đầu do endorphine tạo
nên, mà chủ yếu là để thoát khỏi những cơn dằn vặt, vật vã do “đói” tình dục gây
ra - và nhƣ vậy tình dục đã trở thành một liều thuốc cần thiết trƣớc khi muốn tập
trung vào một việc gì.
Gọi là nghiện khi hành vi đó làm hao phí rất nhiều thời gian, nghị lực, thậm
chí cả tiền bạc và đe dọa đến sức khỏe mà không đem lại khoái cảm nhiều hơn.
Đôi khi nó làm cho cuộc sống nghèo nàn đi. Nó biến sự đam mê dù cuồng nhiệt
thành nỗi ám ảnh. Cũng gọi là nghiện tình dục khi hành vi tình dục phải thực hiện
giấu diếm, bí mật và không thể trở thành bản sắc tính dục, hoặc khi những hành vi
đó có tác động tiêu cực đến mối quan hệ đang tồn tại cần giữ gìn và phát triển.
Cuối cùng nghiện tình dục còn là hành vi nếu không thực hiện đƣợc vì bị ngăn cản
thì cá nhân cảm thấy khổ sở và không thể chịu đƣợc - một nỗi đau khổ chỉ có thể
khỏa lấp bằng tình dục.
Chán tình dục
Không phải mọi trẻ bị lạm dụng tình dục đều sẽ có nhiều bạn tình và mắc
chứng nghiện tình dục khi bƣớc vào tuổi trƣởng thành, ngƣợc lại một số lại muốn
lảng tránh tình dục. Những ngƣời này bị một rối nhiễu gọi là chứng chán hay ghê
sợ tình dục. Những ngƣời bị chứng ghê sợ tình dục nặng nhất đều tỏ ra rất xấu hổ
và căm ghét bản thân tránh quan hệ với nữ giới để không có quan hệ tình dục. Hơn
1/4 số ngƣời này đã tự hoạn và còn có những phán xét rất nghiệt ngã về những
hành vi tình dục của ngƣời khác. Ngoài những ảnh hƣởng tất nhiên của việc tự
hoạn đến sức khỏe và làm mất đi những lợi ích thể chất do không có quan hệ tình
dục, họ còn phải chịu những tác động tâm lý tiêu cực do thiếu những mối quan hệ
tình cảm giữa con ngƣời.
Cũng có trƣờng hợp những nạn nhân của lạm dụng tình dục dễ thay đổi
hành vi tình dục, khi thì thực hành lối sống chung chạ bừa bãi, khi thì xa lánh tình
dục, hoặc sau một thời gian buông thả lại phát triển chứng ghê sợ tình dục sau này.
Còn với những nạn nhân của bạo lực tình dục thì một trong những hậu quả thƣờng
có là không nhận biết đƣợc bản sắc tính dục của chính họ. Vì nỗi đau thầm kín đó
thƣờng ẩn giấu trong một mớ rối rắm và phức tạp, lẫn lộn giữa các yếu tố kích
thích tình dục và bạo lực, sợ hãi và băng hoại đến mức mong muốn khép lại quá
khứ với mọi liên tƣởng về nó.
Giải pháp chính yếu để chữa khỏi những hậu quả tâm lý của bạo lực tình
dục là phải nhận thức đƣợc cái tôi tính dục thầm kín, một việc nhiều ngƣời không
thể tự làm mà phải cần đến sự giúp đỡ của bạn bè, bạn tình hoặc nhà tâm lý, thầy
thuốc trị liệu tình dục để khắc phục những tổn hại do bạo lực tình dục gây ra.
Một số trẻ bị lạm dụng tình dục có thể có hiệu ứng ngƣời ngủ (sleeper
effects), tức là ngay sau khi bị lạm dụng tình dục, trẻ không có biểu hiện rối loạn
gì. Nhiều năm sau đó những biểu hiện này mới bộc phát trầm trọng. Mặc dù chƣa
có sự giải thích rõ ràng nhƣng những trẻ em bị lạm dụng tình dục sau này lại có
nguy cơ cao bị hiếp dâm hoặc bị ngƣợc đãi về mặt cơ thể.
Đối với gia đình
Lạm dụng tình dục trẻ em làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống gia
đình, có thể nảy sinh tội loạn luân, đe doạ tới hạnh phúc gia đình. Nó để lại nỗi đau
khôn xiết cho các bậc làm cha làm mẹ và thật khó nguôi ngoai. Đây cũng là
nguyên nhân khiến nhiều gia đình tan vỡ.
Đối với xã hội
Lạm dụng tình dục trẻ em làm xói mòn các giá trị đạo đức, truyền thống văn
hóa dân tộc, chà đạp lên quyền con ngƣời của trẻ em, ảnh hƣởng tiêu cực đến an
ninh trật tự xã hội. Nguy hại hơn cả là việc lây nhiễm HIV/AIDS làm ảnh hƣởng
đến nòi giống của dân tộc, hủy hoại tƣơng lai của một đất nƣớc.
Tình trạng này là nguyên nhân khiến nhiều gia đình tan vỡ, không những thế
nó còn làm nảy sinh và phát triển lòng thù hận giữa các thành viên trong gia đình
từ đó làm nảy sinh tội phạm nguy hiểm nhƣ giết ngƣời… hay nguy hiểm hơn
những trẻ bị lạm dụng sau này rất dễ lại trở thành những kẻ đi lạm dụng tình dục
với các trẻ em khác. Nhƣ vậy thì tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em sẽ thật khó
giải quyết và ngăn chặn.
Nếu tình trạng này không đƣợc phát hiện kịp thời có thể kéo theo một số
vấn đề xã hội tự tử, hiếp dâm... hay một số căn bệnh xã hội sang chấn tâm lý, trầm
cảm, bạo dâm,…
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trẻ em,
quyền trẻ em và lạm dụng tình dục trẻ em
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trẻ em và quyền trẻ em
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời luôn dành tình cảm và sự quan tâm đặc biệt
cho trẻ em. Sự quan tâm đó không chỉ bắt nguồn từ tình yêu thƣơng vô hạn đối với
trẻ em, mà còn bắt nguồn từ tầm nhìn xa trông rộng của chiến lƣợc “vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Đặc biệt, sự quan tâm đó bắt
nguồn từ việc nhận thức đƣợc vị trí, vai trò của trẻ em: “Ngày nay, các cháu là nhi
đồng. Ngày mai, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới”, khi “các cháu
đoàn kết lại thì thế giới sẽ hòa bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh”. Bác đã
từng viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tương đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai cùng với các cường quốc năm châu được
hay không, chính là một phần nhờ công học tập của các em”. [7, tr.32-33]
Trẻ em – Tương lai của đất nước, dân tộc và thế giới. Ở tầm rộng lớn và lâu
dài hơn, bằng thế giới quan cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh thấy rất rõ trẻ em là
tƣơng lai của thế giới. Sự định hình nhân cách, lý tƣởng của trẻ em hôm nay quyết
định thế giới sẽ tồn tại thế nào trong tƣơng lai. Ngƣời nói: “Ngày nay các cháu là
nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới. Các cháu
đoàn kết thì thế giới hoà bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh”. Vì tƣơng lai
phát triển bền vững, hãy đầu tƣ cho trẻ em. Quan điểm này của Hồ Chí Minh hết
sức gần gũi và đƣợc đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trẻ em là hiện tại. Ngày nay, trong nhận thức của nhiều ngƣời, không phải
ai cũng cho rằng trẻ em là một cá thể, nhu cầu cần đƣợc tôn trọng và bảo vệ.
Nhƣng với Hồ Chí Minh còn cao hơn thế, Ngƣời cho trẻ em vị thế của những công
dân nhỏ tuổi. Khi nƣớc nhà có đƣợc vị thế độc lập thì “Các em đã thành những
ngƣời tiểu quốc dân của một nƣớc độc lập”. Ngƣời phát hiện ở trẻ em những tiềm
năng không chỉ cho tƣơng lai mà có ích ngay trong hiện tại. Các em hoàn toàn có
thể đóng góp sức mình cho gia đình, xã hội, cho đất nƣớc và cách mạng nếu các
em đƣợc định hƣớng, đƣợc động viên. Các em cũng là một lực lƣợng xã hội, thậm
chí các em có thể làm đƣợc những điều to lớn.
Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định rõ mục tiêu của công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục lý tƣởng cách mạng để có những con ngƣời cách
mạng và một thế hệ cách mạng. Ngày nay chúng ta vẫn tiếp tục coi trọng giáo dục
đạo đức, văn hóa truyền thống cho trẻ em; kiên định giáo dục quan điểm cách
mạng xã hội chủ nghĩa để định hƣớng phát triển cho trẻ em và những ngƣời làm
công tác bảo vệ , chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Yêu thƣơng thiếu nhi, Bác không xem các em là những “con nít” tầm thƣờng
mà đối với Bác, thiếu nhi là những đứa cháu thân yêu, đƣợc Bác dành cho những
cử chỉ chăm sóc ân cần, trìu mến. Thiếu nhi là những ngƣời “khách nhỏ” đƣợc Bác
cƣ xử thân ái và bình đẳng. Thiếu nhi đối với Bác cũng là những ngƣời công dân
nhỏ tuổi, sẽ là những ngƣời chủ tƣơng lai của đất nƣớc mà Ngƣời hết lòng quý
trọng và tin tƣởng.
Ngƣời hình dung trẻ con nhƣ cái mầm, cái búp, luôn luôn cần đến sự bảo vệ
và chăm sóc đúng đắn để phát triển đúng hƣớng. Bác nói: “Cái mầm có tốt thì cây
mới vững, cái búp có mạnh thì hoa mới tươi, quả mới tốt. Con trẻ là cái mầm, cái
búp của dân tộc, con trẻ có được nuôi dưỡng, giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới có
thể tự cường, độc lập” (Báo Việt Nam độc lập, ngày 21 – 9 – 1941).
Hồ Chí Minh luôn xem “Công tác giáo dục thiếu niên, nhi đồng rất là quan
trọng, đó là nhiệm vụ đào tạo tương lai cho Tổ quốc”. Theo Ngƣời, nhiệm vụ to
lớn này phải do cả dân tộc và toàn xã hội đảm trách. Trong thƣ gửi các cán bộ, cô
giáo, thầy giáo, công nhân, nhân viên, học sinh các cấp mẫu giáo, phổ thông, bổ
túc văn hóa, trung học chuyên nghiệp và đại học nhân dịp khai giảng năm học
1968 - 1969, Bác viết: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách
mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó, các ngành, các cấp Đảng và chính
quyền địa phương phải thực sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm
sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát
triển mới”. Bác giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho các cấp,
các ngành, nhất là các cơ quan làm công tác thiếu niên, nhi đồng, Đoàn Thanh
niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, nhà trƣờng, gia đình và tất cả những ngƣời lớn tuổi
trong xã hội, “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà vì vậy
chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”.
Hồ Chí Minh cũng khẳng định, cán bộ “là những người đem chính sách của
Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu là thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách
cho đúng” [2, tr.269]. Đại diện cho Đảng và Nhà nƣớc, cán bộ chính là ngƣời trực
tiếp thực hiện, trực tiếp lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức cho nhân dân bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hơn nữa, tƣ tƣởng của Ngƣời cho rằng cấp cơ sở
đƣợc coi là “cấp gần gũi nhân dân nhất là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm
được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [2, tr.371]. Cho nên, có thể nói trong tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng
trong việc thực hiện quyền trẻ em.
Ba tháng trƣớc khi mất, Bác còn dặn dò chúng ta: “Nâng cao trách nhiệm
chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng:
… Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm
sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó
phải làm kiên trì, bền bỉ…
… Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết
tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trẻ em, quyền trẻ em và
lạm dụng tình dục trẻ em
Kế thừa, tiếp thu và phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về quyền trẻ em và trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em, Đảng
và Nhà nƣớc ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, coi việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm hàng đầu, với quan điểm xem con nguời
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nƣớc theo định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tƣơng lai của dân
tộc, là lớp ngƣời kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị 197/CTTW ngày 19 - 3 - 1960 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng: “Quan tâm đến thiếu
niên, nhi đồng là quan tâm đến sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng một lớp người mới
không những phục vụ cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa hiện nay mà còn chính là sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản sau này” [3, tr.66].
Quyền trẻ em với tƣ cách là một khái niệm mới về mặt lịch sử vì khái niệm
này mới chỉ đƣợc chấp nhận ở Việt Nam trong thời gian gần đây ở thời kỳ đổi mới
khi có những thay đổi trong các mối quan hệ xã hội và gia đình. Tại Đại hội Đảng
lần thứ IX, lần đầu tiên từ “quyền trẻ em” đƣợc dùng trong các văn kiện của Đảng.
Từ đó, quyền trẻ em với tƣ cách là quyền con ngƣời đƣợc thảo luận công khai và
rộng rãi ở Việt Nam. Trong lịch sử, cấu trúc gia đình Việt Nam chịu ảnh hƣởng
sâu sắc của đạo Khổng và cho đến nay vẫn còn mang nặng tính gia trƣởng. Theo
đó, ngƣời nam giới đứng đầu gia đình có quyền lực tuyệt đối với các thành viên
trong gia đình, phụ nữ và trẻ em hoàn toàn theo ý của ngƣời cha và ngƣời chồng.
Cha có thể bán con, cho thuê và dùng con làm vật gán nợ, cha có thể hoàn toàn
quyết định việc hôn nhân của con. Trong gia đình, con chỉ mãi là đứa trẻ cho đến
khi cha mẹ qua đời. Trong nhiều thế kỷ, trẻ em nƣớc ta không có một quyền gì.
Đây cũng là lý do khiến hàng triệu trẻ em phải tham gia lao động, làm các công
việc tạo thu nhập cho gia đình. Bên cạnh đó là hàng ngàn trẻ em bị buôn bán, bị
lạm dụng và bị bạo lực.
Đảng và Nhà nƣớc ta luôn trân trọng các quyền trẻ em, quy định cụ thể các
quyền của trẻ em trong hệ thống chủ trƣơng, chính sách và pháp luật. Hiến pháp
đầu tiên năm 1946 đã thể hiện điều đó: “…trẻ em được chăm sóc về mặt giáo
dưỡng”; “Nhà nước thực hiện nền sơ học cưỡng bức và không học phí, học trò
nghèo được Chính phủ giúp đỡ”. Qua Hiến pháp 1959, 1980, 1992 các quyền trẻ
em ngày càng đƣợc bổ sung, hoàn thiện, phát triển và đƣợc công nhận là một bộ
phận quan trọng của con ngƣời.
Đảng và Nhà nƣớc ta đã ký Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em (1990), từ đó
các quyền trẻ em trong Công ƣớc đã đƣợc cụ thể hóa và hệ thống pháp luật Việt
Nam ngày càng đầy đủ cũng nhƣ hoàn thiện hàng loạt luật mới ra đời nhƣ Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học
(1991), Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (1989), Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự,
Luật Hôn nhân và gia đình… đã nhấn mạnh nhiệm vụ của xã hội đối với việc chăm
sóc, giáo dục trẻ em, trừng phạt nghiêm khắc đối với vi phạm quyền trẻ em. Đề ra
việc giáo dục tiểu học bắt buộc đối với tất cả trẻ em Việt Nam từ 6 đến 14 tuổi.
Quy định mọi trẻ em đều đƣợc khám chữa bệnh và tiêm chủng một số bệnh miễn
phí.
Tuy nhiên, quyền và luật vẫn không phải là những khái niệm đồng nghĩa,
chính vì thế việc thực hiện quyền trẻ em trong thực tế vẫn đang đứng trƣớc nhiều
khó khăn, thách thức do những rào cản mà văn hóa truyền thống để lại.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ EM Ở
TỈNH KIÊN GIANG TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tại tỉnh Kiên Giang có liên quan
đến lạm dụng tình dục trẻ em
Kiên Giang là tỉnh ven biển phía Tây Nam của Việt Nam, thuộc khu vực
đồng bằng sông Cửu Long hay còn gọi là miền Tây Nam Bộ phía Bắc giáp Vương
quốc Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu; phía Đông và Đông
Nam giáp tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang; phía Tây giáp
Vịnh Thái Lan. Kiên Giang đƣợc nhiều ngƣời biết đến là vùng đất văn hóa và du
lịch nổi tiếng của miền Tây, là quê hƣơng của thi sĩ Đông Hồ, là nơi phát tích của
Tao Đàn Chiêu Anh Các vang bóng một thời. So với các tỉnh khác thuộc đồng
bằng Sông Cửu Long, Kiên Giang có nhiều lợi thế vì đƣợc thiên nhiên ban tặng
cho nhiều cảnh đẹp với địa hình phong phú bao gồm đồng bằng, núi rừng và biển
đảo. Vị trí địa lý của Kiên Giang có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế - xã hội
tổng hợp, là cửa ngõ hƣớng ra biển Tây của tỉnh cũng nhƣ của vùng đồng bằng
sông Cửu Long, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển, đảo và giao lƣu
với các nƣớc trong khu vực và quốc tế với các ngành mũi nhọn nhƣ du lịch,
thƣơng mại, dịch vụ công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản…
Tuy nhiên cơ cấu kinh tế chƣa đƣợc chuyển dịch mạnh và chƣa gắn với
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn (trồng trọt vẫn chiếm hơn 83% trong cơ
cấu nông nghiệp); liên kết 4 nhà (nhà nƣớc, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp) chƣa chặt chẽ và hiệu quả; kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông
thôn chƣa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là về giao thông, thủy lợi, điện. Một số
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn còn vƣớng mắc về
thủ tục cho vay nên nông dân khó tiếp cận với nguồn vốn để đầu tƣ phát triển sản
xuất.
Chính từ những thuận lợi trên mà tỉnh cũng nảy sinh nhiều khó khăn. Kiên
Giang có 200km bờ biển với ngƣ trƣờng khai thác thủy sản rộng 63.290km 2, biển
Kiên Giang có 143 hòn đảo, với 105 hòn đảo nổi lớn, nhỏ, trong đó có 43 hòn đảo
có dân cƣ sinh sống. Diện tích rừng của tỉnh khá lớn. Năm 2010, diện tích rừng là
102.800 ha, trong đó có 49.600 ha rừng tự nhiên và 53.200 ha rừng trồng. Dân cƣ
sống khá thƣa thớt, khó quản lý. Đa số ngƣời dân kinh tế khó khăn, giao thông lại
khó khăn, gia đình không quan tâm đến việc học của con cái và đa số trẻ em
thƣờng nghỉ học để phụ giúp cho gia đình làm kinh tế... Trình độ học vấn của Kiên
Giang tuy càng ngày đƣợc nâng cao nhƣng vẫn đƣợc xem là tỉnh có trình độ dân trí
thấp nhất cả nƣớc, nhất là ở các vùng nông thôn và hải đảo.
Giáo dục
Cùng với sự phát triển chung của cả nƣớc, ngành giáo dục Kiên Giang trong
những năm qua đã có những thay đổi đáng kể. Số trƣờng lớp, giáo viên và học sinh
không ngừng gia tăng, phƣơng tiện giảng dạy đƣợc cải tiến, chất lƣợng giáo dục
từng bƣớc đƣợc nâng cao. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm 30 09 - 2007, toàn tỉnh Kiên Giang có 492 trƣờng học ở các cấp phổ thông, đứng thứ
2 ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, sau tỉnh An Giang với 594 trƣờng. Tổng
số học sinh phổ thông là 302.076 em, tổng số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng
dạy là 14.676 ngƣời. Giáo dục và Đào tạo có bƣớc phát triển, chất lƣợng giáo dục đƣợc
nâng lên, số học sinh xét tốt nghiệp, thi tốt nghiệp ở các cấp học phổ thông đều tăng lên,
số học sinh trúng tuyển vào đại học, cao đẳng tăng so với năm 2009 (năm học 20092010, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 74,47% tăng 14,41%, số học sinh trúng
tuyển vào đại học, cao đẳng năm 2010 là 5.104 học sinh, đạt tỷ lệ 32,69% tăng
0,31% so năm 2009). Huy động trẻ 6 - 14 tuổi đến trƣờng đạt 96%. Huy động xã hội
hóa đầu tƣ cơ sở vật chất đã đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ
thông năm học 2010 - 2011 là 83,92%, thấp hơn so với tỷ lệ trung bình khu vực
đồng bằng Sông Cửu Long (85,62) và cả nƣớc (89,42%).
Giáo dục và đào tạo có bƣớc phát triển, cơ sở vật chất trƣờng lớp đƣợc đầu
tƣ mạnh, đến nay giảm tỷ lệ phòng học cây lá xuống còn 5% và không còn phòng
học ca 3; tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 9% năm 2001 lên 15,4% năm 2008. Giáo
dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và đại học cũng đƣợc
chú trọng. Năm 2011, toàn tỉnh có 6.075 học sinh trung học chuyên nghiệp, 431
giáo viên cao đẳng với tổng số sinh viên là 3.766 em.
Tuy nhiên, giáo dục Kiên Giang cũng đang gặp một số khó khăn, nhất là
việc học sinh bỏ học. Số học sinh bỏ học năm học 2012 - 2013 là 4.249 em. Số em
bỏ học chủ yếu tập trung ở các lớp cuối bậc Trung học cơ sở với 2.791 em, chiếm
tỉ lệ 2,55% và bậc Trung học phổ thông có 1.458 em, chiếm 3,55%. Điểm nóng
của thực trạng học sinh bỏ học diễn ra ở vùng bán đảo Cà Mau thuộc các huyện An
Biên, An Minh, Vĩnh Thuận. Sự việc đã đến hồi báo động. Có nhiều nguyên nhân
làm cho học sinh bỏ học. Trong đó, theo đánh giá chủ yếu do xét tuyển đầu vào
không đúng thực chất, học sinh thiếu kiến thức căn bản từ cấp dƣới không thể theo
nổi chƣơng trình cao hơn. Cá biệt có trƣờng hợp bỏ học đi lấy chồng, do gia đình
không có đủ điều kiện,…
Dân số
So với các tỉnh khác trong vùng đồng bằng Sông Cửu Long, dân số Kiên
Giang đƣợc xếp vào loại cao. Dân số của tỉnh liên tục tăng qua các năm. Năm
1979, toàn tỉnh có khoảng 985.500 ngƣời. Năm 1989 là 1.216.300 ngƣời. Năm
1999 là 1.497.600 ngƣời. Năm 2003 là 1.606.600 ngƣời. Năm 2007 là 1.705.200
ngƣời. Nhƣ vậy trung bình mỗi năm dân số tăng thêm 26.000 ngƣời. Tốc độ tăng
trung bình giai đoạn 1979 - 2003 là 2,6%/năm. Dân số gia tăng do hai nguyên nhân
là tự nhiên và cơ học. Về gia tăng tƣ nhiên, dễ nhận thấy từ năm 1989 trở về trƣớc,
tốc độ gia tăng tƣơng đối cao. Từ năm 1989 trở về sau, tốc độ có giảm dần do thực
hiện chính sách dân số của nhà nƣớc. Về gia tăng cơ học, những năm 1989 - 1999,
diễn ra hiện tƣợng di dân tự do khá phổ biến ở hai huyện đảo Phú Quốc và Kiên
Hải. Trong khoảng thời gian này, dân cƣ đảo Phú Quốc tăng lên khoảng 15.000
ngƣời. Còn ở huyện Kiên Hải, từ năm 1989 - 2002, dân số đã tăng từ 9.747 ngƣời
lên đến 20.300 ngƣời, tức khoảng 2,1 lần.
Kiên Giang có tổng diện tích tự nhiên 6.346,27 km2. Theo kết quả điều tra
ngày 01/04/2009, dân số tỉnh Kiên Giang là 1.683.149 ngƣời, mật độ
267 ngƣời/km², khu vực nông thôn 73,1%, thành thị 26,9%; dân tộc chủ yếu là
ngƣời Kinh, Khmer, Hoa. Dân số của tỉnh phân bố không đều, thƣờng tập trung ở
ven trục lộ giao thông, kênh rạch, sông ngòi và một số đảo, quy mô dân số đến
năm 2010 dự kiến dƣới 1,8 triệu ngƣời.
Dân cƣ tập trung đông ở vùng đồng bằng nhƣ: thành phố Rạch Giá, thị xã
Hà Tiên, và các huyện Giồng Riềng, Tân Hiệp, Gò Quao, Châu Thành. Các huyện
đồi núi thấp và hải đảo thì tƣơng đối ít hơn nhƣ Kiên Lƣơng, Phú Quốc, Kiên Hải.
Phần lớn dân số Kiên Giang sinh sống ở các vùng nông thôn, theo thống kê sơ bộ
của Tổng cục thống kê năm 2007, Kiên Giang có khoảng 1.262.100 ngƣời sống ở
khu vực nông thôn, 443.100 ngƣời sống ở thành thị. Dân thành thị tập trung chủ
yếu ở thành phố Rạch Giá và thị xã Hà Tiên, số còn lại cƣ trú ở các thị trấn, đáng
kể nhất là thị trấn Kiên Lƣơng - huyện Kiên Lƣơng, thị trấn Dƣơng Đông - huyện
Phú Quốc và thị trấn Tân Hiệp - huyện Tân Hiệp.
Toàn tỉnh Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thành phố,
1 thị xã và 13 huyện, với 145 xã, phƣờng, thị trấn, có 53 đơn vị hành chính (xã,
phƣờng, thị trấn) thuộc vùng khó khăn, trong đó có 12 xã và 12 ấp đặc biệt khó
khăn. Dân số 1,721 triệu ngƣời (chiếm gần 9,7% dân số toàn vùng Đồng bằng sông
Cửu Long), đồng bào các dân tộc thiểu số có 57.083 hộ với 244.780 ngƣời, chiếm
14,33%, trong đó đồng bào dân tộc Khmer có 49.789 hộ, với 213.310 khẩu, chiếm
12,49%; ngƣời Hoa có 7.055 hộ, với 30.214 khẩu, chiếm 1,75%; các dân tộc thiểu
số khác 239 hộ, với 1.256 khẩu, chiếm 0,07%.
Cơ cấu dân số:
Về độ tuổi, dân số Kiên Giang là dân số trẻ, mặc dù trong những năm gần
đây, mức sinh và tốc độ tăng dân số đã giảm đi đáng kể. Dân số Kiên Giang thiên
về nữ giới, tuy nhiên, tỷ trọng của nam cũng đang tăng dần, do đó mức chênh lệch
đang đƣợc thu hẹp dần. Năm 2011, dân số nữ chiếm 865.90/1.705.200 ngƣời,
tƣơng đƣơng 50,78%.
Về dân tộc và tôn giáo, Kiên Giang là địa bàn cƣ trú của trên 15 dân tộc.
Trong đó, ngƣời Kinh chiếm khoảng 85,5% dân số sinh sống ở khắp các huyện thị
trong tỉnh. Ngƣời Khmer chiếm khoảng 12,2% dân số tập trung chủ yếu ở các
huyện Châu Thành, Gò Quao. Đồng bào dân tộc thƣờng sống thƣa thớt, tổ chức xã
hội khá lỏng lẻo và sức sản xuất thấp. Đa số ngƣời dân có trình độ dân trí thấp sơn
so với các dân tộc khác trong tỉnh, đa số trẻ em không đƣợc đến trƣờng. Ngƣời
Hoa chiếm khoảng 2,2% dân số sinh sống ở thành phố Rạch Giá và huyện Châu
Thành. Còn lại là một số dân tộc khác nhƣ: Chăm, Tày, Mƣờng, Nùng... Theo số
liệu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 489.609 ngƣời
theo tôn giáo, chiếm khoảng 32,7% tổng số dân, trong đó Phật giáo chiếm 25%,
Công giáo chiếm 5,7%, còn lại là các tôn giáo khác nhƣ Cao Đài, Hoà Hảo, Hồi
giáo.....