Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

KẾ THỪA PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH cực của đạo đức NHO GIÁO TRONG xây DỰNG đời SỐNG đạo đức của xã hội VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.5 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Tên đề tài

KẾ THỪA PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC CỦA
ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
ĐẠO ĐỨC CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Sư Phạm Giáo Dục Công Dân
Mã ngành : 52140204

Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

TS. ĐINH NGỌC QUYÊN

TRẦN THỊ BÉ TƯ
MSSV: 6055409

CẦN THƠ, 05/2009
1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.......................................................................1
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................................2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ...................................................2


4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................3
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN.............................................................................3
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................4
Chương 1 KHÁI LƯỢC VỀ NHO GIÁO VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ..........................................................................................4
1.1. Khái lược hoàn cảnh kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời của Nho giáo ........4
1.2. Khái lược về Nho giáo ở Trung Quốc ..........................................................7
1.3. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo .....................................................11
Chương 2 ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG ĐẠO ĐỨC CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ .................22
2.1. Khái lược quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam .........................22
2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đời sống đạo đức của xã hội
Việt Nam trong lịch sử ......................................................................................24
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo .................................24
2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo .................................28
Chương 3 KẾ THỪA NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC
NHO GIÁO TRONG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................33
3.1. Thực trạng tình hình đạo đức ở nước ta hiện nay và nguyên nhân của
tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận tầng lớp xã hội..........................33
3.1.1. Thực trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận tầng lớp xã hội
hiện nay ......................................................................................31
3.1.2. Nguyên nhân của tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận
tầng lớp xã hội hiện nay .........................................................................42

2


3.2. Kế thừa, phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo trong
xây dựng đạo đức ở nước ta hiện nay.............................................................46

3.2.1. Những yêu cầu xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay...46
3.2.2. Những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo cần được kế thừa
phát triển trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay.............50
KẾT LUẬN.............................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................68

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chúng ta đang tiến hành đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong bối
cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức. Kinh tế thị trường với những mặt tích
cực đã làm cho xã hội trở nên năng động, phát triển. Nó thật sự là một lực đẩy
quan trọng đối với nền dân chủ và đời sống xã hội.
Xã hội sau hai thập kỹ đổi mới (1986 - 2006) đã ra khỏi tình trạng
khủng hoảng, tạo một tiền đề cho sự phát triển. Chính những thành tựu này được
thế giới rất quan tâm và đánh giá cao mà chúng ta còn khẳng định được tính chất
đúng đắn của đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản Việt Nam đề xuất và lãnh đạo thực hiện, nhằm phát triển kinh tế đất
trong điều kiện khu vực hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rực rỡ trên, thì kinh tế thị
trường có những mặt tiêu cực nhất định đó là tình hình đạo đức xã hội đang diễn
biến phức tạp. Hiện tượng suy thoái, xuống cấp về đạo đức ở mọi lĩnh vực đến
mức báo động. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đã nhận định rằng: “Tình
trạng tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ đảng viên là nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy hệ
thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống
còn của chế độ nước ta” [11, tr.76]. Chính vì vậy, việc khắc phục hiện tượng “

trượt dốc” về đạo đức xã hội đã và đang là mối quan tâm lớn của xã hội nước ta
hiện nay.
Từ thực tế, Đảng ta cho rằng để khắc phục tình trạng trên thì chúng ta
phải biết ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực đồng thời cũng phải biết kế thừa
những di sản quý báu của văn hóa dân tộc ta. Trong đó phải đánh giá lại vai trò
tác dụng của Nho giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam trong quá
khứ và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết. Bởi
vì, Nho giáo tuy có nguồn gốc từ Trung Quốc song nó đã xâm nhập và tồn tại
lâu đời ở Việt Nam như giáo sư Trần Đình Hượu đã nói rất đúng khi viết trong

4


“Đến hiện đại từ truyền thống” rằng : “ Có nhiều người tự coi là rũ sạch ảnh
hưởng của Nho giáo, lên án Nho giáo kịch liệt, nhưng vẫn sống, vẫn nghĩ rất
Nho” [16, tr.11].
Chính tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề đối với nhận thức nên
tác giả đã chọn đề tài: “Kế thừa phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Nho
giáo trong xây dựng đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp đại học cho mình. Việc nghiên cứu đề tài này, giúp ta phát
hiện và kế thừa những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo, đồng thời khắc
phục những tiêu cực còn ảnh hưởng trong xã hội giai đoạn hiện nay. Từ đó tạo
cơ sở để có thể xây dựng những yêu cầu đạo đức mới khắc phục tình trạng suy
thóai đạo đức như hiện nay.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu làm rõ một số nội dung quan trọng của đề tài nghiên cứu
- Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo
- Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đời sống đạo đức của người Việt
Nam trong lịch sử.

2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đạo đức của Nho giáo chớ không nghiên cứu
Nho giáo nói chung. Vấn đề đạo đức, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những
nội dung cơ bản của đạo đức ở những giai đoạn phát triển nhất định. Nghiên cứu
ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong lịch sử và hiện tại ở nước ta. Trên cơ sở
đó kế thừa phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo trong xây dựng
đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1 Mục đích
- Tìm hiểu một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của đạo đức Nho
giáo
- Phân tích những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức xã hội
người Việt Nam trong lịch sử.

5


- Khai thác, kế thừa, phát huy những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo
trong xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ
- Tìm hiểu những điều kiện kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời và sự phát triển
của Nho giáo ở Trung Quốc.
- Thông qua quá trình nghiên cứu sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam để
rút ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với đời
sống đạo đức của người Việt Nam trong lịch sử.
- Phân tích thực trạng đạo đức ở nước ta hiện nay, qua đó đặt vấn đề xây dựng,
kế thừa, khai thác những nhân tố phù hợp của đạo đức Nho giáo trong xây dựng
đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong văn kiện
Đảng, đồng thời sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã
được nghiên cứu và công bố của một số tác giả liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng tổng hợp các phương pháp của
Triết học Mác – Lê nin trong đó chú ý các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn để
thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương 7 tiết.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

6


KHÁI LƯỢC VỀ NHO GIÁO VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC
NHO GIÁO
1.1. Khái lược hoàn cảnh kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời của Nho giáo
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều
đại nhà Hạ, qua nhà Ân (Thương) và đến sự phát triển hoàn thiện ở Triều đại nhà
Chu. Đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bước vào giai đoạn khủng hoảng và ngày
càng đi đến suy tàn. Kéo dài đến thế kỷ VIII trước công nguyên cho đến thế kỷ thứ
III trước công nguyên. Lịch sử gọi giai đoạn này là thời Xuân thu Chiến quốc, thời
kì tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ dẫn đến sự ra đời của chế độ phong kiến Trung
Quốc. Thời kỳ này có những đặc điểm sau đây:

Thời Xuân thu, nền kinh tế của Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Việc dùng công cụ bằng sắt ngày càng trở thành phổ biến.
Trong sách Quốc ngữ có viết “ đồng thau để kiêm kích, sắt đúc quả cân…” phát
minh mới về kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đem lại những tiến bộ mới trong
việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, diện tích đất
canh tác được mở rộng, kỹ thuật trồng trọt được cải tiến, tạo điều kiên tăng năng
suất trong lao động trong nông nghiệp… Mặt khác, nông nô không ngừng vỡ hoang
và biến thành ruộng đất tư ngày càng nhiều, bọn quý tộc quyền thế cũng chiếm dần
ruộng đất của công xã làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh điền tan rã”. Sau đó, chế độ tư
hữu ruộng đất còn được nhà nước, pháp luật bảo vệ và thừa nhận.
Việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến cùng với việc mở
rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản xuất thủ công
nghiệp thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển. Trong sách
Chu lễ đã viết “ thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ da chiếm
năm phần, thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp phát
triển hơn trước, tiền tệ xuất hiện. Trong xã hội đã hình thành các tầng lớp thương
nhân giàu có và ngày càng có thế lực. Thương nhân đã có nhiều người kết giao với
chư hầu và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đến chính trị đương thời.
Chính sự hình thành của thương nghiệp buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã

7


hội một tầng lớp mới. Tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế
lực ngày càng mạnh tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Chính trị và xã hội nếu thời Tây Chu chế độ tông pháp “ phong hầu
kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng buộc
về huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời gian dài
hưng thịnh. Thì đến thời kì Xuân thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn

trọng, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự thiên tử và các nước chư
hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa thời nhà Chu
không còn được tôn trọng như trước thiên tử nhà chư hầu như không còn quyền uy
với các nước chư hầu.
Thời Xuân thu các lãnh chúa càng tăng cường bóc lột nhân dân lao
động. Người dân ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh phạt của các
tập đoàn quý tộc còn phải chịu thuế khóa, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai
thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc thường xuyên nổi lên khắp nơi làm cho đời
sống nhân dân ngày càng thêm khốn khổ. Dân lưu vong “ đồng trong ruộng ngoài
bỏ hoang”. Bên cạnh đó các lãnh chúa còn gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng
như các lãnh chúa bóc lột tàn khốc của dân chúng không chỉ dẫn đến sự tuyệt vong
của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật
tự triều hội, triều cống, chinh phạt giữa các chư hầu làm cho sự rối loạn xã hội ngày
càng tăng. Đặc biệt là những lễ nghi chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã từng góp
phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc này đã bị xem
thường, tình trạng lễ nghĩa cương thường đã bị đảo lộn đạo đức suy đồi. Ở thời
Xuân thu biểu hiện qua các tệ nạn xã hội như: tiếm ngôi việt vi, chư hầu chiếm
dụng lễ nghĩa quân Thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu. Trong xã
hội cảnh tôi giết vua, con hại cha, vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra. Tình
trạng đó, theo Khổng Tử không xảy ra một sớm một chiều mà còn âm ỉ từ lâu. Trật
tự xã hội rối loạn, đời sống nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, cuộc sống xa hoa của
bọn lãnh chúa quý tộc đã dẫn đến các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nô lệ liên
tục xảy ra. Tất cả tình hình ấy dẫn đến mâu thuẫn gay gắt trong xã hội lên đến đỉnh
cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo chung.

8


Thời Chiến quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Nghề luyện sắt
đã đạt tới trình độ khá cao. Sự phát triển này kéo theo đó là sự phát triển của nghề

thủ công, như làm đồ gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng
bạc…..tiền bằng kim loại ra đời. Thương nghiệp và các trung tâm trao đổi hàng hoá
hưng thịnh
Tuy bên cạnh sự phát triển kinh tế, chiến tranh tàn khốc trên qui mô lớn, và
liên tục giữa các nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân lao động ngày càng
cùng cực hơn. Mạnh tử viết: “đánh nhau trong thành giết người thây chết đầy
thành; đánh nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” ( Mạnh Tử, Li Lao
Thượng). Thực tế kinh tế - xã hội bất ổn đã làm cho công xã nông thôn tan rã. Chế
độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị. Thay thế
cho chế độ thu thuế vào sản lượng thu hoạch trước kia, thì nay thu thuế tính theo
sản lượng đất. Việc mua bán ruộng đất tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã
mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào tay số ít lãnh chúa, và địa chủ giàu có. Đa
số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi cày thuê, cấy mướn trở thành tá điền
cố nông. Chế độ bốc lột bằng pháp canh thu tô xuất hiện. Trong lòng xã hội xuất
hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới, đó là chế độ phong kiến quận huyện.
Mâu thuẩn gay gắt ngày càng gay gắt hơn, đã đẩy xã hội đến nguy cơ nghiêm trọng.
Tuy nhiên cùng với thực tiễn xã hội, thời Xuân thu Chiến quốc cũng đạt được
những thành tựu rực rỡ về thiên văn, địa lí, cơ học, y học, ….. Chính những thành
tựu này không những đã thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn là một trong những
tiền đề làm nảy sinh những tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại.
Nhìn chung trong điều kiện lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đã đặt ra
những vấn đề triết học, chính trị, xã hội, luân lý đạo đức, kinh tế, pháp luật, quân
sự, ngoại giao,…..kích thích lòng người, kích thích các bậc tài tử đương thời quan
tâm lí giải để tìm ra các phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người” làm nảy sinh
ra một loạt các nhà tư tưởng nổi tiếng và các trường phái triết học lớn. Nó thực sự
trở thành điểm đỉnh của toàn bộ đời sống văn hoá tinh thần trong xã hội Trung Hoa
cổ đại như một mốc son chói lội trong lịch sử tư tưởng phương Đông. Sự phong phú
đa dạng của các hệ thống triết học thời Xuân thu Chiến quốc khiến người ta phải gọi

9



thời kì này là thời kì “bách gia chư tử”(“Bách gia” thiên Thiên hạ, sách Nam Hoa
Kinh, “chư tử” thiên Giả Nghị liệt truyện, sách Sử ký…) như trăm hoa đua nở,
muôn chim cùng hót. Thời kì này cũng là điều kiện ra đời của các hệ thống triết học
phương Đông mà tiêu biểu nhất là học thuyết Nho giáo của Khổng Tử mang lại
nhiều giá trị nhất.
1.2. Khái lược về Nho giáo ở Trung Quốc
Nho giáo là một học thuyết ra đời tại Trung Quốc và từ hàng ngàn năm
lịch sử đã có ảnh hưởng sâu sắc trên toàn bộ đời sống xã hội của nước này. Nho
giáo ra đời trong bối cảnh lịch sử - xã hội Trung Hoa cổ đại rối ren, hỗn loạn, nhất
là xã hội Đông Chu do Khổng Tử đề xướng.
Khổng Tử (551 – 479 TCN) thuộc dòng dõi nhà Chu. Ông sinh ra ở
nước Lỗ, được Chu Công Đán, em út của Chu Vũ Vương xây dựng. Khổng Tử rất
mến phục tài đức của Chu Công, người đã đem lại cho nước Lỗ một nền văn hóa tốt
đẹp, thừa kế tinh hoa của các đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Văn Vũ…
Sự suy tàn của nhà Chu bắt đầu từ hai thế kỷ trước khi Khổng Tử ra đời.
Uy thế của thiên tử nhà Chu ngày một sa sút. Các vua chư hầu tranh chấp đất đai và
quyền lực. Nhà Chu chuyển sang kinh đô miền Tây (Tây Chu) sang miền Đông
(Đông Chu). Từ đó, xã hội càng hỗn loạn hơn nữa, coi thường cả luật pháp và tôn
giáo. Trong nội bộ các nước chư hầu diễn ra sự chém giết lẫn nhau.
Trước tình hình đó, Khổng Tử muốn nêu lên những tấm gương của thời
xưa để răn dạy người đời. Ông ca ngợi vua Nghiêu : “Ông Nghiêu làm vua, đức
nghiệp lớn thay! Vọi vọi thay! Chỉ có trời là lớn thôi; Chỉ có vua Nghiêu mới có thể
sánh với trời thôi. Lộng lộng thay! Dân chúng chẳng có thể khen tặng đức nghiệp
của ngài cho xiết. Vọi vọi thay những sự thành công của ngài! lễ nhạc và pháp độ
của ngài rỡ ràng thay!” vua Thuấn và vua Vũ có thiên hạ, làm bực, nhưng lòng
chẳng dự” [14, tr.129]. Đức Khổng Tử nói rằng : “Vua Vũ nhà Hạ, ta chẳng chê
trách được. Trong việc ăn uống hàng bữa, ngài giữ đạm bạc; nhưng trong việc
cúng tế quỷ thần lễ vật ngài dâng lên rất trọng hậu. Y phục ngài thường mặc thì

xấu, nhưng áo mão ngài trong dịp cúng tế thì rất đẹp. Cung thất của ngài thì nhỏ
hẹp, nhưng ngòi lạch trong nước ngài tận lực sửa soạn cho dân thờ”.[ 14, tr.131].

10


Ông khen vua thành Thang nhà Ân đã vì nghĩa lớn mà tiêu diệt vua Kiệt để cứu
dân.
Khổng Tử muốn lấy chuyên đời xưa để giáo dục đời nay. Ông muốn :
“Ôn cái cũ mà biết cái mới”. “Người nào ôn lại cái cũ những điều đã học, do đó mà
biết thêm những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó” [14, tr.21]. Ông
tuyên bố ; “ta đem kinh sách của thánh hiền (tức ngũ kinh : Thi, Dịch, Lễ, Nhạc và
Xuân thu) mà truyền lại cho đời sau, chứ ta chẳng làm ra. Ta tin tưởng và hâm mộ
đạo lý của người xưa” [14, tr.99]. Ông lại nói : “ta chẳng muốn nói nữa”. Trời có
nói chăng? Thế mà bốn mùa ( xuân, hạ, thu, đông) cứ xoay vần mãi. Mà trời có nói
gì chăng?”[14, tr.279].
Và không đủ chứng minh cho lời nói của mình, Khổng Tử đã giành nhiều
công phu thu thập tài liệu lịch sử và di sản của người xưa. Ông đã chép lại và soạn
lại Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu. Dựa vào những tài
liệu ấy, ông đã phát biểu ý kiến với học trò, bình luận và mở rộng thêm, tạo nên học
thuyết hoàn chỉnh và bền vững của ông.
Học thuyết của ông hướng vào việc làm thế nào để chấm dứt tình trạng
hỗn loạn của xã hội, sự suy thoái về đạo đức, sự khốn khổ của nhân dân trong chiến
tranh và đói rét.
Ông không phải là nhà cách tân để có chủ trương đổi mới xã hội theo
chiều hướng phát triển. Ông chỉ biết luyến tiếc thời xưa và nghĩ rằng, nếu như đất
nước lại có những vua hiền tôi giỏi thì mọi sự trở nên tốt đẹp. Hy vọng suốt đời của
ông là làm sao có được vua hiền, tôi giỏi ấy. Đó chính là phẩm chất cao quý của
ông và cũng chính là bi kịch của ông.
Nho giáo ra đời từ thời Xuân thu – Chiến quốc gắn liền với tên tuổi của

Khổng Tử. Nhưng mỗi thời đại khác nhau Nho giáo có những diễn biến và nội dung
khác nhau.
v Nho giáo từ trước đời Tần đến đời Hán
Từ khi học thuyết của Khổng Tử ra đời, các đệ tử của Khổng môn phân
tán đi khắp các nước chư hầu, cùng rao truyền giảng dạy đạo của Khổng Tử. Cơ sở

11


Nho học thời kỳ này đã được xác định. Nhưng những phái phản đối Khổng Tử và
Nho học cũng theo đó mà nổi dậy.
Đến lúc Tần thống nhất đất nước vua Tần Thủy Hoàng đã có phần sùng
bái lý luận pháp gia. Triều Hán hưng thịnh lên, tư tưởng Hoàng Lão Đạo gia hưng
thịnh theo. Thời đại này là thời đại mọi tư tưởng bách gia dần dần bị tạn lụi, chỉ có
ba nhà là Nho, Đạo và Pháp gia thế chân vạc, nhưng có vẻ như lý luận Nho gia vẫn
đứng sau Đạo gia và Pháp gia. Đến lúc Hán Vũ Đế biểu dương “lục kinh”, bãi truất
bách gia, Nho học mới bước lên vũ đài độc tôn. Chính vì đó, cái học của Hán nho
mới khác so với Nho học trước đời Tần.
Thời đại Chiến quốc, các nước phân tranh, thiên hạ chưa ổn định bách gia
đua nhau xuất hiện, mỗi nhà đều muốn đưa ra chủ trương cứu đời. Nhà Nho nước
Tần phải đấu tranh tồn tại tự thân và kiến lập ý nghĩa mới cho lý tưởng mình theo
đuổi. Do vậy cống hiến của họ phần nhiều về phương diện lý tưởng.
Đến đời Hán thống nhất cục diện thay đổi lớn. Luận điểm chủ yếu lúc bấy
giờ là mưu cầu sự an bình thực tế cho thiên hạ. Vua tôi đời Hán xuất thân dân dã,
bản thân vốn không có tu dưỡng gì về học thuật nhưng được cái là hiểu nổi khổ của
dân đen nên họ muốn cho dân đen nghỉ ngơi, thuyết thanh tĩnh vô vi của Đạo gia
gặp đúng mảnh đất tốt hưng khởi lên.
Đến khi Hán Vũ đế lên cầm quyền, đối sách của Đổng Trọng Thư cực lực
đòi thay đổi phục cổ. Do vậy, Hán Vũ đế chấn hưng phái học, lập chức ngũ kinh
bác sĩ, chuyên dùng “lục kinh”, “lục nghệ” để giáo hóa với khoa bản là sách bậc cơ

bản như “Luận ngữ”, “Hiếu kinh”, “Nhĩ nhã”, là tự điển của ngũ kinh. Xếp hàng
đầu của Nho gia bao gồm cả Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, Tuẩn Tử. Các sách “Luận
ngữ”, “Hiếu kinh”, “Nhĩ nhã” cũng xếp thuộc loại “lục nghệ lược”, điều này chứng
tỏ sự phân biệt trong quan điểm học thuật của Nho gia, càng chứng tỏ Hán Nho tôn
trọng kinh điển hơn cả đạo nho.
Hán nho không có lý tưởng chính trị, lý tưởng độc đáo vĩ đại, cũng không
có nhân vật chính kiệt xuất. Nhưng những thực hành xác đinh pháp chế, mở quy
mô, đưa ra mô hình trị an, xứng đáng để đời sau ngưỡng mộ mô phỏng. Công ấy
Hán nho không thể không phủ nhận được.

12


Tóm lại, sự phát triển Nho giáo thời kỳ trước đời Tần đến đời Hán thì tư
tưởng Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị và chuẩn mực đạo đức của xã hội
phong kiến Trung Quốc
v Nho giáo đời Tống – Minh
Đến đời Tống - Minh Nho giáo lại được phục hưng. Đời nhà Tống các
vua sùng bái Khổng Tử và Mạnh Tử rất được tôn trọng. Vua chân Tông (998 –
1022) đã đến yết miếu của Khổng Tử. Vua thần Tông (1065 – 1085) phong Mạnh
Tử làm Châu Quốc Vương, được cùng Nhan Tử phối sự với Khổng Tử, và lại
phong Dương Hùng làm thành Đô Bá, Hàn Vũ làm Xương Lê Bá, cùng thờ chung
miếu. Lúc bấy giờ có người xin tôn Khổng Tử làm đế, nhưng nhiều người bàn
không nên mới thôi.
Nho giáo truyền đến thế kỷ XI, vào quãng đời của vua nhân Tông
(1023- 1024) thì thật là thịnh. Về đường học vấn lúc bấy giờ có những nhà đại nho
như : Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tái, xướng lên các học thuyết lý học, rồi anh
em họ Trình là Trình Hạo và Trình Di nối cái học ấy mà xác lập thành học phái.
Đến đời Nam Tống lại có Chu Hi, Lục Cử Uyên chia phái lý học làm cái đạo vắn
học và tôn đức tính. Nét nổi bật của hoạt động Nho giáo là sự chú giải cuốn sách

kinh điển do Chu Hy tiến hành. Mặc dù không có sáng tạo đặc sắc gì, thầy Chu
cũng đã được đánh giá rất cao, triều đình kén chọn nhân tài cũng lấy các trước tác
của Chu Hy làm căn cứ đối chiếu.
Đến đời nhà Minh tạo điều kiện cho danh nho nổi lên. Tuy vậy, con
đường hoạt động của Nho giáo chủ yếu vẫn bằng con đường giảng dạy thi cử theo
tinh thần “học không chán, dạy không mỏi”. Nề nếp cũ của Tống Nho qua đời nhà
Nguyễn cho đến thời kỳ bấy giờ vẫn được tôn trọng và còn được thực hiện thành
những kỹ cương chặt chẽ hơn. Đến thế kỹ XVI, Nho giáo mới có một bước phát
triển mới, một trường phái khác các trường phái Hán Nho và Tống Nho. Ngọn cờ
nổi lên trên bước phát triển này là Vương Thủ Nhân, tự Ba An và thường có tên gọi
quen thuộc là Vương Dương Minh. Với Vương Dương Minh rõ ràng Nho giáo vẫn
có những bước tiến lên ở đây lại là hướng duy tâm nhất nguyên, duy tâm cực đoan.

13


Có thể khẳng định rằng học thuyết của Vương Dương Minh là một học thuyết duy
tâm chủ quan triệt để nhất ở Trung Quốc.
Tóm lại, Nho giáo thời Tống – Minh đã đạt đến đỉnh cao và chiếm vị trí
độc tôn hơn lúc nào hết. Nó được bổ sung thêm phần bản thể luận triết học trên lập
trường duy tâm, có pha trộn tam giáo ( Nho, Phật, Lão) và kế thừa những tư tưởng
đặc sắc của triết học thời kỳ cổ đại, được phân làm hai phái : Lý học do Chu Hy và
Trình Hạo, Trình Di đại diện; Phái tâm học do Lục Cửu Uyên và Vương Thủ Nhân
làm đại diện.
v Nho giáo đời nhà Thanh
Nhà Thanh là nòi giống người Hồ ở vùng núi Tràng Bạch, phía đông Bắc
đất Mãn Châu. Năm vạn lịch thứ 11 (1583) có người tù trưởng tên là Nộ Nhĩ Cáp
xích vật khởi lên đánh bại các bộ lạc, rồi đến năm vạn lịch thứ 44 (1610) xưng làm
đế, tức là vua thái Tổ nhà Thanh. Thái tổ phái quân nhà Minh ở Thẩm Dương, lập
thành một nước có thế lực rất mạnh.

Nho giáo trong giai đoạn đầu nhà Thanh là xu hướng “Thực học” phát
triển. Phê phán mạnh mẽ, khắt khe và có tính viển vông, kinh viện của lý học Trình
– Chu và Tâm học Lục – Vương, các nhà triết học đầu nhà Thanh chủ trương “Quốc
gia hưng vong, thất phu hữu trách”, đòi hỏi việc nghiên cứu học thuật phải gắn với
hiện thực đời sống xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho quốc kế dân sinh. Từ đó
hình thành trường phái “Thực học” lấy việc chữa trị việc đời làm mục đích và đã
sản sinh ra nhiều nhà triết học lừng danh như : Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Võ…
Tóm lại, Nho giáo hình thành và phát triển qua nhiều triều đại lịch sử,
giai đoạn sau đều có những điểm khác biệt so với giai đoạn trước. Mỗi một giai
đoạn Nho giáo có những nét đặc trưng riêng và phát triển khác nhau có lúc Nho
giáo cực thịnh có lúc suy yếu.
1.3. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo
Nho giáo được sinh ra vào đời nhà Chu với đặc điểm nổi bật là chế
độ chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn chuyển sang chế độ phong kiến. Là
người sáng lập Nho giáo, Khổng Tử rất luyến tiếc nhà Tây Chu và cố sức duy trì
chế độ ấy không phải bằng lực lượng quân sự mạnh mẽ và những lực lượng

14


kinh tế hùng hậu mà bằng đạo đức. Vì vậy, đạo đức là vấn đề cơ bản và bao quát
nhất của triết học Khổng giáo. Đạo đức Nho giáo gồm hệ thống các phạm trù
chặt chẽ, nhất quán và có quan hệ mật thiết với nhau. “Tam cương, ngũ thường”
được xem là nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo, nó chi phối tất cả hành
động cũng như suy nghĩ con người. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, từ xưa cho tới
nay, tất cả các môn phái khác nhau trong Nho giáo đều dựa vào “cương thường”
để làm chuẩn đạo đức. “Tam cương” là nền tảng của đạo đức Nho giáo. Tuy
nhiên, ở đây ta chỉ nghiên cứu đạo đức cơ bản của Nho giáo thông qua các phạm
trù cơ bản sau:
v Nhân

Trong học thuyết của Khổng Tử, khái niệm “nhân” được đề cập rất nhiều
lần trong các tác phẩm khác nhau. Tuy nhiên, trong Luận ngữ chữ “nhân” được
đề cập rất nhiều lần, chẳng hạn như khái niệm “nhân” 109 lần, khái niệm “người
quân tử” 107 lần, khái niệm “Lễ” – 74 lần, khái niệm “Đạo” – 60 lần. Theo Nho
gia, đức lý tưởng này bao gồm trong đó mọi đức tính tốt đẹp nhất. Người có đức
“nhân”đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất nên “nhân” là nghĩa rộng nhất của
đạo làm người.
Đạo làm người có hàng vạn hàng ngàn điều nhưng chung quy lại chỉ là
những điều đối với mình và đối với người, nên “nhân” có thể hiểu là cách cư xử
với mình và cách cư xử với người khác.
- Đối với mình : Trước hết phải làm những việc khó, sau hưởng
thành quả mới có thể gọi là “nhân”. (Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch, khả vi
nhân hỹ) [14, tr. 199]. Khác với người “bất nhân” những người không cam chịu
cảnh khốn quẫn và cũng không thể hưởng lâu dài khoái lạc – người “nhân” sẵn
sàng vui vẻ song trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo,
túng thiếu vì đối với người nhân, cái cao cả nhất là “ đức nhân” của mình (bất
nhân giả, bất khả dĩ cứu xử ước, bất khả dĩ trường xử lạc. Nhân giả an nhân. Trí
giả lợi nhân) [Luận ngữ].
- Đối với người : nguyên tắc suốt đời người có đức nhân phải theo là
“ái nhân” (thương người khác), nhân là yêu người, hết lòng vì người khác, cái gì

15


mình không muốn thì đừng đưa cho người. Khổng Tử dạy : “Người nhân muốn
tự lập lấy mình thì cũng phải lo lập cho người, muốn thành đạt cho mình thì
cũng phải lo thành đạt cho người. Người nhân ứng xử với mình thế nào thì cũng
phải ứng xử với người khác như thế” (phù nhân giả kỷ dục lập dị lập nhân ; kỷ
dục đạt nhi đạt nhân năng cận thủ thí [14, tr.211 - 212 ]. Hoặc Tử Cống hỏi :
“Có chữ nào mà người nhân trọn đời phải tuân theo không?”. Khổng Tử đáp;

“Có chữ thứ” nghĩa là : “việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác”. (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân) [14, tr.568 - 569]
Kẻ nhân có tình cảm chân thật, hết lòng vì nghĩa, cho nên nhân thì
bao giờ cũng phải hiếu đễ, lễ nghĩa, trung thứ, kẻ bất nhân thì đầy đủ những trí
thuật, khôn khéo, linh lợi mà tình cảm đơn bạc không thành thật chỉ vì lợi không
có lễ nghĩa, dối trá, gian ác, phản loạn, lừa trên gạt dưới.
- Đánh giá vai trò của đức nhân : Khổng tử cho rằng : nếu tâm của con
người luôn hướng về nhân thì không bao giờ nghĩ đến chuyện phản loạn, miệng
không nói những điều sàm bậy và thân không dấn vào việc ác, tà. Chính vì vậy,
đối với dân, đức nhân cần thiết hơn cả lửa, nước và đối với những người cầm
quyền, đức nhân như một thành trì vững chắc để giữ gìn và bảo vệ những gì họ
đạt được.
Nhân phạm trù quan trọng nhất, cơ bản nhất trong đạo đức Nho giáo
nói chung. Song chữ “nhân” không chỉ dừng lại ở nguyên tắc mang tính phổ
quát “nhân” có nội dung thể hiện cụ thể qua chữ “ hiếu”.
Chữ “ hiếu” được người Trung Quốc nói rất sớm. Những văn bản kim
văn như Đại Khắc Đỉnh, Trung Đôn, Quốc Khương Ân, Đỗ Bá Sở đã đề cập đến
“hiếu”. Kinh Thi cũng nói về trung hiếu, khắc hiếu…Ở đây chư “ hiếu” được đề
cập đến quan hệ giữa người với người, song nó thuộc đời sống chính hệ, nó như
sợi dây nối liền bề dưới bề trên, nối liền con người với tổ tiên, thần thánh; còn
“hiếu” với tính cách là chuẩn mực đạo đức như các nhà nghiên cứu đã khẳng
định đến đời của Khổng Tử mới hoàn toàn rõ nét nhất.[29, tr.249 – 252].
Theo Khổng Tử, hiếu có lúc là cội nguồn của chữ nhân và cũng có lúc
hiếu với nhân là một. Sách Luận ngữ có ghi về cội nguồn của chữ nhân như sau :

16


“Bậc quân tử luôn chú vào việc gốc. Cái gốc vững vàng thì đạo hiếu từ đó mà
sinh ra. Hiếu đễ là cái gốc của đức nhân chăng”[ 14, tr. 6 ].

Có lần Tử Du hỏi Khổng Tử về “hiếu”. Khổng Tử trả lời : “Điều hiếu ngày ngày
chỉ có nghĩa là có thể nuôi cha mẹ. Nhưng đến loài chó ngựa cũng đều được
nuôi, nếu không có lòng kính thì làm thế nào mà phân biệt được”.
Sách Luận ngữ cũng có chỉ rằng có lần Tể Ngã hỏi Khổng Tử : “ Cái
tang ba năm tưởng nên thâu lại một năm cũng đã dài rồi. Người quân tử ba năm
chẳng lập lễ thì sự học lễ của mình ắt hư hỏng, ba năm chẳng lập nhạc thì nhạc ắt
cũng lụn bại. Vả lại vừa tròn năm thì lúa cũ cũng ăn hết, lúa mới đã gặt xong,
những cây lúa lửa cũng đã dùng hết. Vậy nên để tang một năm là đủ rồi”. Khổng
Tử hỏi lại : “Trong khi chưa mãn tang ba năm mà ăn gạo thơm, mặc áo gấm thì
người có an lòng chăng?”. Này bậc quân tử khi cử tang dẫu ăn đồ ngon cũng không
biết mùi vị, dẫu nghe nhạc cũng chẳng thấy vui..
Như vậy, có thể trong quan niệm của Khổng Tử, “nhân” không chỉ là
“yêu người”, “thương người”, mà còn là đức hoàn thiện con người, và do vậy,
“nhân” chính là đạo làm người sống vì mình và sống vì người khác, đức nhân là cái
bền vững như núi sông. Đây chính là điều mà theo Nho giáo hợp với đạo trời và
lòng người. Nếu theo Nho giáo chữ nhân là tình cảm của người với người với nhau.
Thì để thể hiện nghĩa vụ trách nhiệm của mình trước những tình cảm đó thì Nho
giáo đề cập đến “nghĩa”.
v Nghĩa
Trong đạo đức Nho giáo có một nội dung và ý nghĩa sâu rộng của chữ nhân
nêu trên. Nội dung chữ nhân còn bao hàm cả đức “nghĩa”. Tư tưởng “nhân, nghĩa”
đã được các thế hệ nhà nho nối tiếp nhau bàn rất sâu sắc và trở thành là giá trị đạo
đức mang tính chất truyền thống của người Trung Hoa.
Như đã nói trên, thì đức nhân là tình cảm sâu sắc giữa con người còn đức
nghĩa là trách nhiệm để thể hiện tình cảm đó. Không những thế đức nhân thể hiện
trong mối quan hệ với người khác, còn nghĩa thể hiện trong khi tự vấn lương tâm.
Theo Mạnh Kha, lòng hổ thẹn là đầu mối của đức nghĩa. Từ nghĩa có nghĩa đen rất
rộng, là điều nói, việc nên làm. Nói đến điều đó, làm việc gì đó mà thấy thảnh thơi,

17



thoải mái, hứng thú trong lương tâm thì điều nói, việc làm đó là điều nghĩa, việc
nghĩa, không nói điều ấy, không làm việc ấy, thì thấy bứt rứt trong lương tâm, như
thế là có nghĩa không nói, có việc nghĩa không làm. Ngược lại, điều gì đó, việc gì
đó, nói không làm thì thấy yên lòng, như thế là điều đó, việc đó vốn bản thân là bất
nghĩa hoặc phi nghĩa. Tiêu chuẩn để phân biệt nghĩa với phi nghĩa là sự phản ứng
của tâm hoặc nói một cách chặt chẽ hơn tức là của lương tâm.
Thế nhưng theo Khổng Tử “nghĩa” trước hết được hiểu là lẽ phải, là việc
cần phải làm về đạo đức. Ông cho rằng, người quân tử thấy điều gì đáng làm, hợp
nghĩa thì cứ làm mà không cần tính tóan lợi cho bản thân. Khổng Tử đã từng nói:
“Bậc quân tử làm việc cho đời, không có việc gì người cố ý làm, không có việc gì
người cố ý bỏ, hễ hợp lẽ thì làm”.Về tư tưởng này của Khổng Tử sau này được sách
Trung dung giải thích rõ hơn: “Nghĩa là cách cư xử cho thích hợp”. Trước những
thử thách gay go, phức tạp, con người có nghĩa là con người như Mạnh Kha nói :
“Bỏ thân mình để giữ lấy nghĩa”( xã thân vì nghĩa). Mặc khác, chỉ ham dũng một
cách hung hăng mù quáng, không có sự chỉ đạo của nhân nghĩa lại rất nguy hiểm.
Không Khâu nói: “Quân tử có dũng mà không có nghĩa thì loạn, tiểu nhân có dũng
mà không có nghĩa thì thành trộm cướp”. (Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa tắc loạn,
tiểu nhân hữu dũng thì vô nghĩa tắc đạo”[ 14, tr.136 ].
“Nghĩa” thì lại đối lập với “lợi”. Trong Luận ngữ đã có ghi lại lời nó của
Khổng Tử như sau: “Bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về
việc lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi) (Luận ngữ, thiên lý nhân) [14,
tr.114 ]. Ở đây, phải thấy quân tử và tiểu nhân là hai lọai người đối lập nhau không
phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu về đạo đức, nên khi cho rằng : “Quân tử
tinh tường về việc nghĩa” còn “Tiểu nhân rành rẽ về việc lợi”. Không phải Khổng
Tử chỉ đề cập đến cái trí, đến sự hiểu biết của hai loại người này mà muốn xác định
sự khác nhau cơ bản giữa hai nhân cách. Thế nhưng khi diễn tả con người của mình,
Khổng Khâu lại nói : “Ăn cơm gạo thô, uống nước lã, co tay lại mà gối đầu, trong
ấy cũng đã có vui rồi. Còn như bất nghĩa mà giàu sang thì đối với ta chỉ như đám

mây nổi” (Phạn sơ tứ ẩm thủy, khúc quăng nhi chuẩn chi, lạc tại kỳ trung hỉ. Bất
nghĩa nhi phú quý ư ngã như phù vân) (Luân ngữ, thiên nhi) [ 14, tr.137 ].

18


Tư tưởng “nghĩa”, “lợi” đối lập nhau được Mạnh Tử khẳng định trong các
lời dạy của mình. Ông tỏ ra đề cao nghĩa, khinh ghét một cách nghiêm khắc. Tuyên
truyền rằng, Lương Huệ Vương lần đầu tiên tiếp cụ gì Mạnh đến nước mình vồn vã
hỏi : “Cụ gì không quản đường xa, nghìn dặm đến đây, chắc sẽ có làm làm lợi cho
nước ta chăng? Thế cụ Mạnh gạt phăng ngay : Nhà vua hà tất nói đến lợi. Nhà vua
hỏi làm gì lợi cho nước ta? Công khanh đại phu hỏi : làm gì lợi cho nhà ta? Kẻ sĩ
và thứ dân hỏi : làm gì lợi cho thân ta? Trên dưới quật nhau vì lợi, thế là nước ta
lâm nguy ở đấy rồi. Xin đừng hỏi đến lợi nữa, chỉ nên nói nhân, nghĩa mà thôi.
Buộc tội một cách quá cay nghiệt, thánh hiền chẳng biết gì đến lợi ích chính đáng
của con người, của nhân dân, của đất nước, trong khi vẫn tích cực góp phần thúc
đẩy đông đảo những người “lao lực” nai lưng phục vụ cho lợi ích bẩn thỉu của bao
nhiêu kẻ trị nước, trị dân và các kẻ kia cứ được cai trị để lợi trong khi những người
“lao lực” cứ phải phục vụ để làm lợi cho chúng. Thế là hợp “chính đạo” thế là
“nghĩa ở trong đấy”. Trọng Do – tức Tử Lộ - đã nói rõ lắm về người quân tử :
“Không làm quan là không nghĩa. Quân tử mà làm quan thì thực hành cái nghĩa
của mình vậy”. ( Bất sĩ vô nghĩa. Quân tử chi sĩ dã hành kỳ nghĩa) [14, tr.137].
“Nghĩa” đồng nghĩa với “nhân”. Trong những lời dạy của Khổng Tử
thường nhấn mạnh đến nhân. Ông cho rằng : “Người có nhân chẳng vì lẽ bảo toàn
sự sống của mình mà làm hại đức nhân. Người ấy có thể tự quyên sinh để giữ tròn
đức nhân” (Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân)
[14, tr.554].
Còn Mạnh Tử ví sinh mạng con người như cá, đức nghĩa như bàn tay gấu
(món ăn gấu rất quý của người Trung Quốc). Giữa hai món ấy, được chọn một, nho
sĩ không cần ngần ngại gì khi phải bỏ cá. Ông viết : “Cá là cái món ta thích, bàn tay

gấu là món mà ta cũng chuộng. Nếu chẳng được luôn cả hai món ấy một lượt, ta sẽ
bỏ cá mà chọn bàn tay gấu. Sống thì ta cũng ham, nghĩa thì ta cũng mộ. Nếu chẳng
được cả hai thứ ấy một lượt, ta sẽ bỏ mạng sống để chỉ giữ lấy nghĩa mà thôi”.
Như vậy, nếu ở Khổng Tử con người sẵn sàng chết vì nhân và đến Mạnh
Tử, con người sẵn sàng chết vì nghĩa thì nhân và nghĩa có gì khác về nhau đâu. Nói
về nhân, nghĩa Mạnh Tử viết : “Tôi vì nhân nghĩa mà thờ vua, con vì nhân nghĩa

19


mà thờ cha, em vì nhân nghĩa mà thờ anh. Vua tôi, cha con, anh em đều bỏ lợi đến
với nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghĩa. Quốc gia như thế mà chưa hưng thịnh thì
chưa từng có”.
Tóm lại, đối với Khổng – Mạnh, nhân, nghĩa là vô cùng quan trọng, mọi đức
khác của con người cũng từ nhân nghĩa mà ra, cũng như vạn vật trong trời đất đều
do âm dương, cương nhu mà thành.
v Lễ
Trong việc tu thân, học đạo sửa mình để đạt được “đức nhân”, lễ cũng rất
mực được chú trọng. Lúc đầu lễ là cái thờ cúng gọi là cúng thần. Lễ khởi thủy từ
việc ăn uống đồ xôi, mổ lợn, rót rượu vào chén mà bưng lên, dùi bọc rơm dưới đất
trồng dường có thể bày tỏ lòng tôn kính với quỹ thần…Ở đây, lễ mang tính chất tôn
giáo là chủ yếu.
Khi người Chu lên ngôi, bằng việc tôn giáo hóa chính trị, lễ trở nên đa dạng
và phức tạp hơn với những quy định về lễ rất nhiều, rất tỉ mỉ, chặt chẽ. Lúc này lễ
được chia làm năm loại gọi là ngũ lễ: Cát lễ, Hung lễ, Quân lễ, Tân lễ và Gia lễ.
Từ thời nhà Chu về sau, những quy định này cực kỳ chi tiết, nó đi cả vào
những hoạt động cá nhân, gia đình như : ăn mặc, ở, đi lại, chào hỏi, cưới xin, ma
chay, hội hè, đình đám của từng lọai người trong xã hội cũng như trong tất cả các
mối quan hệ : gia đình, làng mạc, trong đất nước, thiên hạ, trong trời đất…theo lễ
người sang, người hèn có y phục phân biệt, đồ dùng phân định, ngôi thứ phân

định…
Khổng Tử muốn khôi phục lại tôn chỉ nhà Chu và nhận thấy lễ là rất hữu ích
cho nên ông đề ra thuyết “chính danh” trong đó Khổng Tử rất coi trọng lễ. Chính vì
vậy mà ông đã san định lại lễ và những nhà nho về sau đã khai thác lễ ở những gốc
độ luân lý đó. Sở dĩ như vậy xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
- Căn cứ vào lễ để xác định vị trí của từng người trong các mối quan hệ.
Lễ đóng vai trò là cái định ra phân minh trong trật tự xã hội, trật tự gia đình cũng
như là cái định sự thân - sơ trong giao tiếp. Sách lễ ký cũng có viết : “ Không có lễ
không có thể thờ thần của trời đất cho đúng thứ bậc; không có lễ không thể phân

20


biệt được vua – tôi; lớn – bé; không có lễ không có thể phân biệt được tình thân của
trai – gái; cha – con; anh – em trong xã hội”.
Với những quy định chặt chẽ tỉ mỉ cho hành vi, hành động đồ dùng trong
cuộc sống, lễ từng ngày, từng giờ tác động tới tâm tư, tình cảm của con người, góp
phần tạo nên những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi.
Khổng Tử nói về vấn đề này khi lý giải vai trò của lễ quy định cách ăn mặc
khi có tang, khi ở triều đình và khi ra trận như sau : “Người mặc áo sô gai, chống
gậy, chí không để đến sự vui, không phải vì ta không nghe thấy, vì y phục khiến như
thế; người mặc cái phủ, cái phất, áo cổn mũ mện, dáng điệu uy nghi không phải là
nguyên tính trang nghiêm, vì y phục khiến như thế; người đội mũ trụ, mặc áo giáp,
cầm giáo dài, không nhút nhát không phải vì thân thể mạnh bạo, vì y phục khiến
như thế”.
Với những quy định chặt chẽ tỉ mỉ cho hành động và đồ dùng trong cuộc
sống, cùng với việc góp phần tạo nên những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi,
lễ đóng vai trò không nhỏ trong việc kiềm chế những đam mê của cá nhân mà cộng
đồng muốn chế ngự.
Thế nhưng khi đề cập đến nguồn gốc của lễ, thì Tuân Tử cho rằng : “Con

người sinh ra ai cũng có lòng ham muốn. Ham muốn mà không thể tìm tòi, dò hỏi.
Tìm tòi, dò hỏi mà không có chừng mực thì không thể tranh. Tranh thì loạn. Loạn
thì khốn cùng. Tiên vương ghét loạn nên chế định ra lễ để phân định ra trật tự” Đó
chính là nguồn gốc của lễ.
Vai trò của lễ, Tuân Tử viết : Trời đất nhờ lễ mà hòa hợp; mặt trăng, mặt
trời, mặt trời nhờ lễ mà sáng tỏ; bốn mùa nhờ lễ mà có thứ tự; tinh tú nhờ lễ mà
chuyển vần; sông ngòi nhờ nhờ lễ mà lưu thông; vạn vật nhờ lễ mà sống còn; ưa
ghét nhờ lễ mà đúng mực. Đúng là lễ như vậy, như thước của người thợ. Nảy dây
mực thì không ai có thể lừa dối được thẳng, cong; bắc cán cân thì không ai có thể
lừa dối được nặng, nhẹ; đặt cái quý, củ thì không ai có thể lừa dối được vuông, tròn.
Vậy nên, dây mực tiêu chuẩn cực tốt của sự ngay thẳng; cái cân là tiêu chuẩn cực
tốt của sự thăng bằng. Cái quy, cái cũ là tiêu chuẩn cực tốt của sự vuông tròn. Còn
lễ là tiêu chuẩn cực tốt của đạo làm người trong cuộc sống. Nếu đức nhân là đức

21


cao nhất của con người, là đức con người phải vươn tới như Khổng Tử nói : “Một
khi con người tự kiềm chế được mình, làm theo những điều là lễ đã dạy, con người
sẽ đạt đến đức nhân”. Chính vì thế Nho giáo chủ trương : “Không xem, không nghe,
không làm những gì không hợp với lễ”.
Nói tóm lại, lễ không phải là lễ giáo, nghi thức kỷ cương quy định ra có
danh, có khí dứt khoát mà quan trọng hơn nữa là đức của con người sống đúng với
danh và khí, đúng theo lễ giáo, nghi thức kỷ cương quy định đức lễ về cơ bản. Nói
theo ngôn ngữ ngày nay là tính đẳng cấp, tính trật tự, tính tổ chức, kỷ luật vừa rộng
khắp, vừa chặt chẽ đến khắc nghiệt. Cái gọi là “cống hiến tích cực” của đạo Nho đối
với triều đại phong kiến Trung Quốc cũng như ở nước ta đó chính là lễ. Chính vì
vậy “lễ” quan trọng đứng sau chữ “nhân”.
v Trí
Trí theo ngôn ngữ Khổng - Mạnh là hiểu biết được đạo trên mọi mối quan

hệ lớn nhỏ, rộng hẹp, cao thấp của con người với trời đất, muôn vật, với người khác
trong thiên hạ. Nói cách khác, đức “trí” thể hiện ở chổ biết được đúng đắn, rõ ràng
điều phải, điều trái trong mọi vấn đề nảy sinh về nặt đạo đức. Chính vì vậy, Khổng
Tử rất đề cao đức “trí” trong “Luận ngữ” . Theo Khổng Tử “trí” được hiểu là sự
minh mẫn, sáng suốt của con người để phân biệt được người chính và kẻ tà. Vì thế
khi Phàn Trì hỏi về “trí” thì ông nói : “Trí là biết người”. Phàn Trì chưa hiểu,
Khổng Tử giải thích : “Là dùng người trực, bỏ kẻ gian, như vậy có thể giáo hóa kẻ
gian thành người trực”[14, tr.436]. Có lần Tử Du, một môn đệ của ông quan niệm
rằng người có đức sẵn sàng xả thân cứu người hoạn nạn, Tử Du hỏi : “Giả sử người
nhân biết kẻ ngã xuống giếng, nên nhảy xuống cứu chăng? Khổng Tử đáp :“Nên
đến đó để tìm cách cứu chớ đừng nhảy xuống dưới mà thiệt thân. Hãy để bị lừa gạt
những điều có lý chớ không để mê hoặc những điều đần độn”.
Về nguồn gốc của “trí”, một mặt tin vào mệnh trời, Khổng Tử cho rằng
trí bẩm sinh; một mặt với tư cách là một người thầy, Khổng Tử cho rằng có trí của
kết quả quá trình học tập. Trong các lời dạy của mình, Khổng Tử đề cập đến việc
học không chỉ đối với trí mà đối với các hoạt động khác của con người. Mục đích
cuối cùng của tu thân đạt đến nhân để làm quan thiên hạ. Trong lúc xã hội loạn lạc,

22


không ra làm quan không phải là người có trí, không giúp đỡ chẳng phải là người có
nhân. Khổng Tử thường nói: “Đời xưa vì mình mà học còn đời nay vì người mà
học”.
Trong sách Chu lễ đặt đức “trí” lên hàng đầu, trước cả đức nhân. Bên cạnh
đó, còn đề cập đến phạm trù “dũng”. Với phạm trù “dũng” Khổng Tử cho đó là lòng
can đảm, sức mạnh làm chủ tình thế của con người. Ông cho rằng: “Bậc giả chẳng
mê hoặc, bậc nhân chẳng lo sầu, bậc dũng chẳng sợ sệt”. Tuy nhiên, đối với ai đủ
phân biệt được phải trái thì chính dũng giúp họ thực hiện lẽ công bằng, cho nên
Khổng Tử để nhân, trí, dũng không tách rời nhau. “Dũng” và “trí” gắn bó với nhau,

biết lẽ thị phi, biết điều đúng, sai mà chiến đấu, hi sinh mới khỏi uổng phí. Vì vậy,
Khổng Tử nói : “Ham dũng mà không ham học, cái hại che lấp dũng là loạn”. Ham
học chính là nâng cao sự hiểu biết của con người về lẽ phải, trái về đạo ở đời”.
v Tín
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, Khổng Tử coi nhân – trí - dũng là ba đức
thông thường của người ta dùng trong thiên hạ. Thời Chiến quốc, Mạnh Tử bớt đi
dũng, thêm lễ và nghĩa thành bốn đức : nhân – nghĩa - lễ - trí. Tới đời Hán, Đổng
Trọng Thư thêm đức tín nữa thành năm đức : nhân – nghĩa - lễ - trí - tín.
Khổng Tử rất coi trọng chữ tín. Trong Luận ngữ ông bàn đến tín cũng
không kém gì với việc giảng giải về lễ. “Tín” là một trong bốn điều mà Khổng Tử
thường dạy học trò. Chương “ Thuật nhi” có viết: “ Khổng Tử lấy bốn điều để dạy
học trò: văn chương, đức hạnh, lòng trung thực và lòng thành tín”.
Trong quan hệ giữa người với người, theo Khổng giáo, đức tín là đức có
đạo bằng hữu. Nói rõ chí lớn của mình Khổng Tử đưa ra ba quan điểm, trong đó
quan điểm thứ ba là: “Đối với bằng hữu, làm cho người ta tín”
Trong ba điều kiện kiểm điểm hàng ngày của Tăng Sâm, cũng có một điều
bàn về đức tín. Và Mạnh Kha, khi đề cập năm mối quan hệ luân thường, nói đến
quan hệ thứ năm cũng nói : “Bạn hữu có đức tín”( bằng hữu hữu tín). Cố nhiên, trên
phạm vi rộng lớn, nói chung là trong toàn thiên hạ đức tín cũng rất quan trọng. Đặc
biệt, đối với những người trị nước, trị dân thì đức tín của họ càng quan trọng.
Khổng Khâu đã từng nêu lên ba yếu tố đảm bảo sự vững chắc và thế mạnh của đất

23


nước là : lương thực đủ, quân đội đủ, nhân dân tín.Trong hoàn cảnh bớt đi một thì
phải bớt đi yếu tố quân đội, nếu phải bớt nữa thì phải bớt lương thực vậy. Còn niềm
tin của nhân dân thì không thể thiếu được. Bỉ vì “dân không tín thì không đứng
vững” (Dân vô tín bất lập).
Có lẽ cần nói thêm rằng, trong quan niệm “tín” là giữ đúng lời hứa không

phải là một quan niệm cứng nhắc trong tư tưởng của Khổng Mạnh. Trái lại, riêng
trong quan niệm của hai vị phu tử ấy khá linh hoạt. Khổng Khâu có vẻ chê bai : “
Cứ nói ra là phải tín, cứ làm là phải nhất quyết làm kỳ được, thật là tiểu nhân cứng
đờ đờ”. Mạnh Kha giải thích trong cuốn sách của mình : “ Nói ra, bất tất giữ tín
thật đúng, làm ra bất tất làm kỳ được, chỉ có điều là có nghĩa đúng ở trong đó”.
Đúng thế, anh hẹn đúng ngày giờ đến chơi nhà bạn. Đến giờ ấy, anh lại có công
việc cấp bách phải làm ngay. Giữ lời hẹn bỏ công việc hay là làm công việc mà chịu
“thất tín”? Giải pháp thứ nhất là “Tiểu nhân cứng đờ đờ”, còn giải pháp hai “có
nghĩa đúng ở trong đó”. Cho nên không thể tách riêng ra tuyệt đối mà phải phụ
thuộc vào nghĩa.
Tóm lại, Nho giáo là một trong những học thuyết có giá trị ở Trung
Quốc. Trong đó, đạo đức Nho giáo là tiêu biểu nhất, có một quá trình phát triển với
những nội dung phong phú và phức tạp. Nhìn một cách tổng thể của nó, các phạm
trù đạo đức tồn tại trong mối quan hệ sâu sắc lẫn nhau. Trung tâm của đạo đức Nho
giáo là đức “nhân”. “Nhân” có nội dung, ý nghĩa sâu rộng nó bao quát các phạm trù
khác của Nho giáo. Nhân gồm tinh túy của cả lễ, nghĩa, trí, tín và những tiêu chuẩn
đạo đức khác như: trung, hiếu, đễ, cung kính, khoan hậu, cần mẫn, dũng
cảm…Chính những đức trung tâm này kết hợp với những đức khác quy tụ lại tạo
thành thống nhất bên trong học thuyết đạo đức, luân lý Nho giáo mang lại giá trị
tích cực góp phần xây dựng xã hội phong kiến Trung Quốc.

CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG

24


ĐẠO ĐỨC CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
2.1. Khái lược quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo là một học thuyết ra đời vào thời Xuân thu loạn lạc. Chính vì vậy

Khổng Tử đã hệ thống hoá và phát huy các tư tưởng triết học, đạo đức, để cai trị xã
hội, các tư tưởng này về sau khi trường phía Dương Mặc Tử nổi lên thì được gắn
với tên tuổi Khổng Tử do đó Nho giáo được gọi là Khổng giáo. Do đó, Nho giáo
được du nhập vào Việt Nam chứ không phải phát sinh tại Việt Nam, ở Việt Nam nó
không trải theo quy luật vận động nội tại, nó quan hệ ăn khớp với hạ tầng cơ sở ở
bản địa qua quá trình hình thành và phát triển từng bước liên tục, trọn vẹn.
Nước ta bắt đầu lệ thuộc Trung Quốc vào lúc ở Trung quốc Nho giáo đã
được suy tôn làm quốc giáo, đó là vào thời Hán một thời phong kiến tập quyền điển
hình mà các triều đại phong kiến sau thường coi đó là gương sáng, làm theo mẫu.
Nho giáo được đưa vào Việt Nam thời Bắc thuộc nhưng thời Bắc thuộc,
Nho giáo đã không bám rễ vào được mảnh đất Việt Nam. Nó đã được tiếp thu ngay
sau khi dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập vào thế kỹ X. Đối với Nho giáo,
người Việt Nam đã trãi qua từ quá trình phản ứng đến tiếp thu, từ xa lạ đến gần gũi,
từ công cụ của ngoại bang trở thành công cụ bản thân mình. Nói cách khác, đến
nước ta, Nho giáo được dung hợp và hoà đồng theo cách nghĩ của người Việt Nam
thành Nho giáo Việt Nam. Từ thế kỹ X đến thế kỹ XIX, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu
sắc trong xã hội Việt Nam, đã góp phần đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến
Việt Nam.
Trong suốt thời gian đô hộ nhân dân Việt Nam, bọn phong kiến phương Bắc
luôn duy trì theo đuổi ý định đồng hoá nhân dân Việt Nam. Một trong những thủ
đoạn lớn nhất của họ nhằm mục đích đồng hoá ấy là truyền bá văn hoá, truyền bá
Nho giáo nhưng Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời Bắc thuộc không còn là Nho
giáo Khổng – Mạnh nguyên thuỷ là Nho giáo đã được Hán nho cải tạo.
Theo “ Đại Việt sử ký toàn thư”, thời Tây Hán, tức là khoảng 110 trước công
nguyên đến năm 39 sau công nguyên, hai viên thái thú là Tích Quang và Nhân Diên
đã “ dựng học liệu, dạy lễ nghĩa” tại Giao Chỉ và Cửu chân. Nho giáo bắt đầu
truyền vào Việt Nam từ thời đó.

25



×