Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

ĐƯỜNG lối NGOẠI GIAO của ĐẢNG và NHÀ nước TA GIAI đoạn 1945 – 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.2 KB, 106 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HOC CẦN THƠ
KHOA CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài: ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 1945 – 1954

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S – GVC: HỒ THỊ QUỐC HỒNG

NGUYỄN VĂN RIN
LỚP: SP GDCD K35 - 01
MSSV: 6096110

Cần Thơ, tháng 12 năm 2012


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

MỤC LỤC
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................6
6. Kết cấu luận văn ...............................................................................................6
NỘI DUNG.............................................................................................................7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỐI NGOẠI ............7
1.1. Khái niệm đối ngoại, ngoại giao ....................................................................7
1.2 Quan điểm của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin về đối ngoại .........7
1.3 Quan điểm Hồ Chí Minh về đối ngoại ..........................................................10
1.4 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đối ngoại .......................................17
CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA GIAI
ĐOẠN 1945 – 1954...............................................................................................20
2.1 Bối cảnh lịch sử...........................................................................................20
2.1.1 Bối cảnh quốc tế ...................................................................................20
2.1.2 Bối cảnh trong nước ..............................................................................21
2.2 Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 1945 – 1954 ..........23
2.2.1 Nhận thức của Đảng ta về tầm quan trọng và tác dụng to lớn của hoạt động
đối ngoại ........................................................................................................23
2.2.2 Nội dung đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai
đoạn 1945 – 1954 ...........................................................................................25
2.3 Quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai
đoạn 1945 – 1954 ...............................................................................................35
2.3.1 Ngoại giao trong giai đoạn giữ vững và củng cố Nhà nước cách mạng non
trẻ (8.1945 – 12.1946) ....................................................................................35
2.3.2 Ngoại giao trong giai đoạn khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1947 – 1949) ........................................................................52
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 1


MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

2.3.3 Ngoại giao trong giai đoạn tiến công chiến lược của cuộc kháng chiến
chống Pháp (1950 – 1954).............................................................................77
2.4 Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm ...................................................................95
2.4.1 Ý nghĩa ..................................................................................................95
2.4.2 Một số bài học kinh nghiệm ...................................................................96
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 103

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 2

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,

đây là một sự kiện lịch sử vĩ đại, nó đập tan sự thống trị của thực dân Pháp hơn 80
năm ở nước ta, tạo bước ngoặt mới trong lịch sử dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam bước
vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân
dân ta từ những người nô lệ lên làm chủ nước nhà, làm chủ vận mệnh của mình.
Sau cách mạng tháng Tám, mặc dù giành được chính quyền nhưng nước ta lại
rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trong nước giặc đói, giặc dốt hoành hành còn bên
ngoài thì quân Đồng Minh tràn vào lấy danh nghĩa là giải giáp quân đội phát xít Nhật
nhưng thực chất là chuẩn bị một âm mưu mới nhằm thủ tiêu nền độc lập còn non trẻ
của chúng ta vừa giành được. Tình thế đất nước hết sức khó khăn như “ngàn cân treo
sợi tóc” cũng như chưa được quốc tế công nhận về mặt pháp lý…, nhận ra được tình
thế nguy cấp rất bất lợi cho đất nước lúc này nên Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời
chuyển hướng hoạt động đối ngoại và định ra đường lối, chính sách với hệ thống chủ
trương sách lược linh hoạt, khôn khéo và nhạy bén có nguyên tắc để từng bước phá vỡ
vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, nối liền cuộc kháng chiến của nhân dân ta với phong
trào cách mạng thế giới. Trong hoàn cảnh đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sáng suốt mở rộng mặt trận ngoại giao với phương châm “thêm bạn bớt thù”. Với
những chính sách linh hoạt, khôn khéo và nhạy bén, nền ngoại giao Việt Nam với sự
dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng đưa đất nước thoát khỏi
cảnh khó khăn, bảo vệ thành công thành quả cách mạng tháng Tám.
Ngày nay, khi đất nước trên con đường đổi mới, mặt trận ngoại giao càng đóng
vai trò quan trọng trong việc tận dụng yếu tố thời đại để nhân lên sức mạnh của chính
mình. Bài học đối ngoại giai đoạn 1945 – 1954 vẫn còn nguyên giá trị. Đây là lý do tôi
chọn: “Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 1945-1954” để làm
đề tài nghiên cứu của mình. Với tinh thần tìm hiểu đó, tác giả hy vọng rằng qua đề tài
này, mình sẽ tiếp thu được nhiều tri thức mới bổ ích hỗ trợ cho công tác giảng dạy sau
này.

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 3


MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
-“Ngoại giao Việt Nam (1945 – 2000) của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002 do Đại sứ Nguyễn Đình Bin chủ biên. Đây là công trình nghiên cứu khoa
học công phu của tập thể tác giả là các nhà ngoại giao, các chuyên gia nghiên cứu hàng
đầu về quan hệ quốc tế ở nước ta. Quyển sách làm sống lại những sự kiện chủ yếu của
Đảng, Nhà nước ta về ngoại giao nhân dân trong nửa cuối thế kỷ XX.
-“Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ 1945 – 1954” của Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 do Tiến sĩ Vũ Quang Hiển chủ biên. Nội dung
của quyển sách này phản ánh một cách chân thực, có hệ thống những điều kiện hình
thành và nội dung cơ bản chính sách đối ngoại độc lập tự chủ và sáng tạo của Đảng ta
trong những năm 1945 – 1954, một giai đoạn đầy cam go của lịch sử đối ngoại Việt
Nam.
-“Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do thời kỳ 1945
– 1975” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 do Nguyễn Phúc Luân chủ
biên thuộc học viện quan hệ quốc tế của Bộ ngoại giao.
-“Ngoại giao Việt Nam từ Việt Bắc đến Giơnevơ” của Nhà xuất bản Công An
Nhân Dân, Hà Nội, 2004 do Nguyễn Phúc Luân chủ biên thuộc học viện quan hệ quốc
tế của Bộ ngoại giao.
-“Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1945 –
1950” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004 do Nguyễn Trọng Hậu chủ
biên.
- “Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 – 1995” tập 1 của Nhà xuất bản

Công An Nhân Dân, Hà Nội,1996 do Lưu Văn Lợi làm chủ biên.
- “Quan hệ đối ngoại Việt Nam trên chặng đường 60 năm (1945 – 2005)” của
Vũ Dương Ninh, tạp chí Lịch sử Đảng, số 8 – 2005.
Nhìn chung các tác giả đã chỉ rõ những chuyển biến của tình hình thế giới.
Chính sách ngoại giao của nước ta trước những biến động có tính bước ngoặt trong
lịch sử, đồng thời đề ra nhiệm vụ cấp thiết cho cách mạng Việt Nam cũng như những
đặc trưng tính chất toàn cầu đã và đang tác động đến tiến trình phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta giai
đoạn (1945 – 1954) một cách có hệ thống cả về đường lối và kết quả thực hiện một
cách toàn diện thì chưa có tác giả nào đề cập trực tiếp đến thời điểm này. Do đó, tác
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 4

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

giả thực hiện đề tài này nhằm đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể đường lối ngoại giao
của Đảng và Nhà nước ta từ năm (1945 – 1954).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được tác giả xác định là đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta giai đoạn 1945 – 1954.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một bài luận văn tốt nghiệp và do giới hạn của năng lực của bản
thân cũng như thời gian, tác giả chỉ tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà

nước ta giai đoạn 1945 – 1954.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
- Thông qua trình bày một cách có hệ thống các sự kiện lịch sử, luận văn nêu
lên tư tưởng, quan điểm và phương pháp sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trên mặt
trận ngoại giao giai đoạn 1945 – 1954, khẳng định những cống hiến của Đảng và Nhà
nước ta đối với nền ngoại giao cách mạng nói chung và giai đoạn 1945 – 1954 nói
riêng.
- Góp phần nâng cao sự hiểu biết của bản thân về lịch sử cũng như đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 –
1954.
- Qua việc nghiên cứu đề tài trên nhằm phục vụ cho công việc học tập, nghiên
cứu, làm chuyên đề phục vụ giảng dạy về sau của bản thân. Đồng thời, việc tìm hiểu
về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp
giúp bản thân và thế hệ trẻ mai sau hiểu sâu sắc hơn về cuộc kháng chiến anh dũng
chống Pháp cứu nước của dân tộc ta.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những cơ sở lý luận như: các khái niệm về đối ngoại, ngoại giao, quan
điểm của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước
ta về đối ngoại..
- Làm rõ khó khăn, nguy cấp của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám năm 1945.
- Làm rõ đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 1945 – 1954.
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 5

MSSV: 6096110



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

- Làm rõ quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả đạt được về đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 1945 – 1954.
- Làm rõ bài học kinh nghiệm và ý nghĩa rút ra từ thực tiễn chỉ đạo cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 của Đảng và Nhà nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn trong suốt thời gian nghiên cứu ngoài sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tác giả còn sử dụng
nhiều phương pháp cụ thể ngành như: phương pháp lịch sử, logic; phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật đường lối ngoại giao
của Đảng và Nhà nước ta.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
chia làm 2 chương, gồm có 8 tiết.

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 6

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỐI NGOẠI
1.1. Khái niệm đối ngoại, ngoại giao
* Đối ngoại là những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm làm
nhiệm vụ thực hiện các công việc, các quan hệ và các hoạt động của một nước đối với
một hoặc một số nước khác và các tổ chức quốc tế nào đó.
* Ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương
lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Thuật ngữ này
thông thường đề cập đến ngoại giao quốc tế, việc chỉ đạo, thực hiện các mối quan hệ
quốc tế thông qua sự can thiệp hay hòa giải của các nhà ngoại giao liên quan đến các
vấn đề như kinh tế, thương mại, văn hóa, du lịch, chiến tranh và tạo nền hòa bình ...
Các hiệp ước quốc tế thường được đàm phán bởi các nhà ngoại giao trước tiên để đi
đến việc xác nhận chính thức bởi các chính trị gia của các nước. Về mặt xã hội, ngoại
giao là việc sử dụng các tài xử trí, ứng biến để giành được sự thuận lợi, nó là một công
cụ tạo ra cách diễn đạt các tuyên bố một cách không đối đầu, hay là một cách cư xử
lịch thiệp.
1.2 Quan điểm của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin về đối ngoại
Trong hoàn cảnh mà Mác và Ăngghen sống, giai cấp vô sản chưa giành được
chính quyền, vì vậy hai ông luôn luôn nhấn mạnh đến sự đoàn kết trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Mác và Ăngghen đã kêu gọi giai cấp công nhân và
nhân dân toàn thế giới: “Mặc cho giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng
cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết,
ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới. Vô sản tất cả các
nước đoàn kết lại”. Cách đây hơn 150 năm, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
Mác và Ăngghen đã nói đến quốc tế hóa và toàn cầu hóa: “Đại công nghiệp đã tạo ra
thị trường thế giới, thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc
vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ
biến giữa các dân tộc” [6, tr. 598]. Mác và Ăngghen đã chỉ ra toàn cầu hóa là một xu
thế khách quan, xu thế đó gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa và dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc, các khu vực trên thế
giới. Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới. Đặc biệt, trong lý luận

về quan hệ quốc tế, Lênin có nhiều cống hiến to lớn vào kho tàng lý luận của chủ
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 7

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

nghĩa Mác. Người nêu ra những quy luật quan hệ quốc tế ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau và những nguyên lý cơ bản về quan hệ quốc tế để hình thành chiến lược ngoại
giao của Đảng công nhân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước cách mạng tháng
Mười, Lênin nghiên cứu nguyên nhân của chiến tranh và tính chất của chiến tranh giữa
các nước đế quốc. Người vạch ra tính chất cướp đoạt trong chính sách ngoại giao của
các nước đế quốc và nhấn mạnh vai trò quan trọng của sự đoàn kết giữa giai cấp công
nhân và các lực lượng tiến bộ trong đấu tranh quốc tế. Đồng thời, Người cũng chỉ ra
chính sách ngoại giao của Nhà nước vô sản mới thành lập phải đối lập với chính sách
ngoại giao có tính chất cướp đoạt của giai cấp tư sản. Chính sách đó phải thúc đẩy sự
nghiệp giải phóng các nước thuộc địa và quyền tự quyết của các dân tộc, phải liên
minh với các lực lượng cách mạng và các dân tộc bị áp bức, phải bảo vệ hòa bình trên
cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhân dân các nước. Mác và Ăngghen đã nêu lên luận
điểm về cuộc cách mạng vô sản như sau: “Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể được một
cách kinh nghiệm như là hành động “tức khắc” và đồng thời của những dân tộc chiếm
địa vị thống trị, điều này lại giả định là phải có sự phát triển tổ biến của lực lượng sản
xuất và có sự giao tiếp có tính chất thế giới gắn liền với chủ nghĩa cộng sản” [5, tr.
50]. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã nhận ra vai trò cách mạng của phong
trào giải phóng dân tộc. Phong trào này kết hợp với phong trào cách mạng vô sản sẽ

biến các nước phụ thuộc và thuộc địa từ chỗ là lực lượng hậu bị của giai cấp tư sản đế
quốc trở thành đồng minh của giai cấp vô sản cách mạng. Lênin đã chỉ rõ: Phong trào
giải phóng dân tộc cần kết hợp với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản để lật đổ
kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Bổ sung vào khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới đoàn
kết lại” của Mác và Ăngghen, Lênin đã nêu lên khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Sau cách mạng tháng Mười, Lênin tiếp tục phát triển
và làm phong phú thêm những quan điểm của chủ nghĩa Mác về quan hệ ngoại giao
trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của Nhà nước Xô Viết. Các quan điểm đó tấp trung
một số vấn đề sau:
Một là, mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
Lênin chỉ ra: nếu đem chính sách đối ngoại tách khỏi chính sách nói chung, thậm chí
đem đối lập chính sách đối ngoại với chính sách đối nội, thì đó là một sai lầm nghiêm
trọng, bởi vì không chỉ chính sách đối nội ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, mà
chính sách đối ngoại cũng tác động ngược trở với lại chính sách đối nội. “Không có tư
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 8

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

tưởng nào sai lầm hơn và có hại hơn là tư tưởng tách rời chính sách đối ngoại khỏi
chính sách đối nội” [4, tr. 422].
Hai là, phải biết kết hợp tính kiên định, tính nguyên tắc và tính linh hoạt trong
chính sách ngoại giao của Nhà nước vô sản. Lênin nêu lên quan điểm phải biết cách
thỏa hiệp vì lợi ích của Nhà nước Xô Viết và lực lượng cách mạng trên thế giới.

Ba là, chỉ có dựa vào những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội do
chủ nghĩa Mác vạch ra mới có thể giải thích về quan hệ ngoại giao một cách khoa học,
dự báo được những xu thế phát triển của quan hệ ngoại giao. Lênin đặc biệt nhấn
mạnh yêu cầu của chính sách nói chung và chính sách ngoại giao là phải đặc biệt quan
tâm đến những nhiệm vụ chủ yếu mà lịch sử đặt ra, quan tâm đến tương quan lực
lượng giai cấp và nguyện vọng của dân chúng trong nước cũng như trên phạm vi quốc
tế.
Bốn là, cần đề ra nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản trong chính
sách ngoại giao của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa quốc tế vô sản đã được Mác
– Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Đến Lênin, nó lại tiếp tục
phát triển và hoàn thiện.
Năm là, đảm bảo nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ xã
hội khác nhau vào khoảng năm 1915 – 1916, Lênin đưa ra kết luận trong thời đại chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi ở một nước hay một vài nước, chủ
nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản diễn ra trong một quá trình lâu dài và đó là cả
một thời kỳ lịch sử. Do đó mà có vấn đề quan hệ giữa các nước có chế độ xã hội khác
nhau. Lênin nhấn mạnh rằng có một lực lượng to lớn hơn nguyện vọng, ý chí và nghị
quyết của bất cứ chính phủ hay giai cấp nào, đó là sức mạnh của quan hệ kinh tế chung
trên toàn thế giới. Quan hệ đó đã thúc đẩy các chính phủ đối địch, các giai cấp đối địch
đi vào làm ăn với chúng ta. Tư tưởng này của Lênin được thể hiện ra trong pháp lệnh
đầu tiên của Nhà nước Xô Viết – Pháp lệnh hòa bình [42, tr. 2]. Học thuyết Mác –
Lênin đã chỉ ra các điều kiện bảo đảm cho cuộc cách mạng ở các nước giành thắng lợi,
trong các điều kiện đó vấn đề đoàn kết quốc tế của các dân tộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc. Trong khi làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là xóa
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
mình, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột, xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: vì chủ nghĩa tư bản là
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 9


MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

một hệ thống thống trị thế giới, do đó cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại
chủ nghĩa tư bản mang quy mô quốc tế; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sứ
mệnh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống
kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân phải liên kết, tập hợp lực lượng
trên quy mô quốc tế, không chỉ trong phạm vi giai cấp mình mà còn phải đoàn kết với
các quốc gia, dân tộc bị áp bức, trong đó đặc biệt là phải đoàn kết với các dân tộc
thuộc địa. “Theo Lênin, cách mạng ở phương Tây muốn giành được thắng lợi thì nó
phải liên kết chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước
thuộc địa và các nước bị nô dịch và về vấn đề dân tộc, như Lênin đã dạy chúng ta, chỉ
là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”. Lênin
chỉ ra rằng: mở cửa về đối ngoại là nhu cầu khách quan để phát triển kinh tế ở mỗi
nước và trên phạm vi thế giới. Người khẳng định “có một sức mạnh to lớn hơn nguyện
vọng ý chí và sự quyết tâm của bất cừ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh
đó là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới”. Tăng cường quan hệ ngoại giao
cũng là xu thế tất yếu trong bước phát triển nền văn minh nhân loại. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa cần phải mở cửa ngoại giao, để học tập kế thừa một cách sáng tạo những
thành quả của văn minh nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Chỉ có như vậy,
chủ nghĩa xã hội mới có thể chứng tỏ được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây còn là nhu cầu bức thiết nhằm tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh vật chất cho
chủ nghĩa xã hội. Lênin đã từng viết dùng cả hai bàn tay mà lấy những cái tốt của nước
ngoài” [49, tr. 684]. Tư tưởng chiến lược của Lênin về tính tất yếu mở cửa và phát

triển kinh tế đối ngoại, về con đường, hình thức lợi dụng thành tựu của chủ nghĩa tư
bản phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc [54, tr. 5].
1.3 Quan điểm Hồ Chí Minh về đối ngoại
Chúng ta đã biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện trong thế kỷ XX như một nhà
chiến lược thiên tài, toàn năng. Trên lĩnh vực khoa học ngoại giao, Người có hiểu biết
sâu rộng về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ quan điểm ngoại giao của chủ nghĩa Mác
– Lênin và những kinh nghiệm thực tiễn hoạt động quốc tế phong phú và sinh động
của C.Mác và Ph. Ăngghen, V.Lênin cũng như từ những tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao, tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập tự chủ và đoàn kết
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 10

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, ngoại giao là một mặt trận,
coi trọng quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn, lợi dụng mâu thuẫn đối
phương, với phương châm “thêm bạn bớt thù”hay lấy “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Ngoại giao là một mặt trận. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX, vai
trò ngoại giao như một mặt trận thể hiện nổi bật trong hai giai đoạn: Những năm 1945
– 1946, khi lực lượng quân sự của ta còn non trẻ, ngoại giao phục vụ bảo vệ chính
quyền cách mạng, tạo nên một kỳ tích về ngoại giao. Đảng ta xác định “Sau vấn đề
phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cần yếu cho một nước độc lập” [13, tr. 290]. Nên
trong đàm phán với Pháp, ta đã kiên quyết đấu tranh để bảo vệ độc lập tự chủ về ngoại

giao. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ
với quân sự và chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp. Ngoại giao đóng góp đắc lực
tranh thủ sự đoàn kết và ủng hộ quốc tế phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược. Nhờ có
đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng, hoạt động ngoại giao đã tranh thủ được sự ủng
hộ và giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc tăng cường liên minh chiến đấu giữa
các nước Đông Dương, hình thành trên thực tế mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới
ủng hộ nhân dân Việt Nam… Trong hoàn cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, những kết
quả ấy tạo thế và lực để ta thực hiện đàm phán ngoại giao với Mỹ. Đó là một kỳ tích
trên mặt trận ngoại giao. Tư tưởng mặt trận ngoại giao được hình thành trong những
năm 1960, tiếp thu truyền thống đánh đàm trong lịch sử ngoại giao truyền thống và
kinh nghiệm ngoại giao thời kỳ kháng chiến chống thực dân xâm lược. Đường lối
ngoại giao luôn xuất phát từ đường lối chính trị; phục tùng và phục vụ đường lối chính
trị. Sức mạnh ngoại giao cũng tùy thuộc vào nội lực quốc gia. “Thu lực là cái chiêng
mà ngoại giao là cái tiếng chiêng có to tiếng mới lớn” [14, tr.145]. Tháng tư năm
1969, Nghị quyết Bộ Chính trị khẳng định: “Ngoại giao trở thành một mặt trận quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược”. Ngoại giao Hồ Chí Minh mang tính nhân dân sâu sắc.
Lòng yêu hòa bình, độc lập, tự do và sự nghiệp chính nghĩa, các mục tiêu đấu tranh mà
nhân dân Việt Nam phấn đấu thực hiện trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như
xây dựng hòa bình là điểm gặp gỡ và là mẫu số chung để xây dựng quan hệ quốc tế
của Việt Nam và để tập hợp lực lượng quốc tế thông qua sự liên hệ và đoàn kết giữa
nhân dân với nhân dân tại các quốc gia có chế độ chính trị xã hội khác nhau. Đồng thời
nó phù hợp với ý thức chống cường quyền, yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta nói
riêng cũng như của nhân loại tiến bộ nói chung [15, tr.162 – 170].
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 11

MSSV: 6096110



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

Trước hết Người cho rằng đường lối quốc tế chính sách ngoại giao là bộ
phận hợp thành của chiến lược cách mạng: Điểm lại lịch sử đấu tranh vì độc lập tự
do của nhân dân ta từ nhiều thế kỷ trước cho đến ngày nay, điều dễ cảm nhận trước hết
là trong thời đại Hồ Chí Minh, nhất là từ khi có Đảng, phong trào yêu nước và cách
mạng nước ta mới có được đường lối ngoại giao rõ ràng, gắn được với xu thế phát
triển của thế giới, chọn đúng vị thế cách mạng nước ta trong quan hệ toàn cầu. Hơn
nữa, cũng từ đó cách mạng nước ta mới có sách lược nhất quán về mối quan hệ bạn –
thù và sắp xếp lực lượng bên ngoài, đi đến hình thành một chủ trương và biện pháp
sách lược trong việc xử lý những vấn đề quốc tế có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến lợi ích chiến lược của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đường lối quốc tế
của cách mạng nước ta bắt nguồn từ “Đường kách mệnh” (1927), “Chính cương vắn
tắt”, “Sách lược vắn tắt” của Đảng (1930)… do Nguyễn Ái Quốc đề xướng. Trong lời
kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc
Nhận định: “Mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đế quốc đã gây ra chiến tranh thế giới
thứ nhất năm 1914 – 1918. Sau cuộc chém giết đẫm máu đó, thế giới chia làm hai mặt
trận: mặt trận cách mạng gồm các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản bị bóc lột trên
toàn thế giới… và mặt trận chủ nghĩa đế quốc… Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
đang được ráo riết chuẩn bị. Nếu chúng ta để cho chúng chuẩn bị chiến tranh, nếu
chúng ta để cho chúng chống lại cách mạng Trung Quốc và nước Nga Xô Viết, nếu
chúng ta để cho chúng tiêu diệt cách mạng Việt Nam thì khác nào chúng ta để cho
chúng dìm giống nòi Việt Nam ta xuống Thái Bình Dương” [10, tr.25 – 26]. Vì vậy,
Người đề ra trong chương trình tóm tắt của Đảng: Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam
tự do và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản
Pháp” [27, tr.21].
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
VIII, năm 1941 – Hội nghị Trung ương lần đầu tiên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của

Nguyễn Ái Quốc, đã đi đến quyết định lịch sử: chuyển hướng chiến lược cách mạng từ
làm cách mạng tư sản dân quyền sang làm cách mạng giải phóng dân tộc trực tiếp. Hội
nghị đã quyết định “phải thay đổi chiến lược” của cách mạng, phải đề ra những “chính
sách mới của Đảng” cho phù hợp với tình hình đã có nhiều thay đổi; tiếp tục nhấn
mạnh định hướng “cách mạng Đông Dương là một bộ của cách mạng thế giới” và coi
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể dân tộc” [10,
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 12

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

tr.21]. Vấn đề liên hiệp các lực lượng bên trong, Hội nghị quyết định thành lập mặt
trận Việt Nam độc lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, bao gồm rộng rãi các tầng lớp
xã hội khác nhau, thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương được
thành lập trước đó. Đi đôi với việc đề ra chủ trương đấu tranh trên bình diện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, thắm đượm tư duy ngoại
giao của Hồ Chí Minh, đã đưa ra quyết định bốn điểm trọng yếu về ngoại giao:
1. Hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký bất kỳ nước nào.
2. Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ gìn hòa bình.
3. Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền lợi của Việt Nam.
4. Mật thiết liên lạc với tất cả các dân tộc bị áp bức, giai cấp vô sản trên thế giới.
Đối phó với tình hình “Ngàn cân treo sợi tóc” của cách mạng nước ta ngay sau
khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; vào lúc cách mạng nước ta bị phong tỏa và
chịu nhiều sức ép lớn từ bên ngoài; thực dân Pháp quyết định chiếm lại Đông Dương

bằng vũ lực, quân đội Đồng Minh: Anh, Tưởng Giới Thạch lấy cớ thi hành quyết định
Pốtxđam của các nước lớn đưa quân vào “tiếp quản sự đầu hàng” của quân Nhật với ý
đồ thống trị chia cắt lâu dài đất nước ta; vấn đề thù trong giặc ngoài trở thành thách
thức lớn nhất cho cách mạng nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Tân Trào
(14, 15/8/1945), “trong vấn đề ngoại giao” [27, tr.146], đã chỉ ra rằng: “Chính sách của
chúng ta là phải tránh các trường hợp một mình phải đối phó với nhiều lực lượng
Đồng Minh (Trung Quốc, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt một chính phủ Pháp
Đờ Gôn (De Gaulle) hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện của dân tộc”
[10, tr.416]. Hội nghị đề ra chủ trương “sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng Minh: Anh –
Pháp và Mỹ – Trung Quốc về vấn đề Đông Dương là một điều ta cần lợi dụng”[10,
tr.417]. Và chúng ta “cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô… Đối với các nước
nhược tiểu và dân chúng Trung Quốc và Pháp, chúng ta cần phải liên lạc và tranh thủ
sự giúp đỡ của họ” [10, tr.555]. Trong mười chính sách của Việt Minh, trong thời kỳ
Tổng khởi nghĩa, đã nói rõ: “10 – thân thiện và giao hảo với các nước Đồng Minh và
các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình ủng hộ của họ” [5, tr. 555].
Sau cách mạng tháng Tám, trong Tuyên ngôn Độc Lập ngày 02/9/1945, Người
đã tuyên bố những nguyên tắc cơ bản của chính sách ngoại giao của Nhà nước Việt
Nam độc lập. Trong “thông báo về chính sách ngoại giao” ngày 03/10/1945, Người –
với tư cách Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng ngoại giao thời bấy giờ, đã nêu ra mục
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 13

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng


tiêu của ngoại giao và sách lược đối tượng với bốn đối tượng quan trọng nước ngoài
liên quan đến trình độ cách mạng nước ta: với các nước lớn trong Đồng Minh dân chủ;
với các nước láng giềng; với thực dân Pháp và nước Pháp, người Pháp và với các nước
nhược tiểu trên toàn cầu.
Suốt 30 năm kế tiếp, đương đầu với hai cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô
lớn của hai cường quốc thế giới vốn có sức mạnh về quân sự, kinh tế hơn mình nhiều
lần, trong hoàn cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn phức tạp, công
cuộc đấu tranh ngoại giao, vận động quốc tế trở nên quan trọng trong chiến lược kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) và sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, hoàn
thành công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tháng 04/1959 Người
tham dự Hội nghị Bộ Chính trị và trong khi xem xét đường lối chống Mỹ cứu nước,
thấm nhuần trí tuệ của Người, Bộ Chính trị khẳng định: “ngoại giao trở thành một mặt
trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược”. Như vậy là đường lối quốc tế và chính sách
ngoại giao của cách mạng và Nhà nước ta được Người vạch ra cùng một lúc với việc
hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, và nó được ấp ủ từ tháng năm,
Người chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc lập ra Đảng tiên phong và
thể hiện sinh động trong chiến lược đứng về phe dân chủ chống thế lực phát xít trong
chiến tranh thế giới lần thứ hai, và đặc biệt đã vận dụng thành công trong tiến trình
cách mạng tháng Tám. Nó được sửa đổi bổ sung, mỗi lúc cách mạng Việt Nam đứng
trước khúc quanh thời đại đòi hỏi phải điều chỉnh chiến lược nhằm phục vụ tốt hơn
cho mục tiêu cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử trong cuộc kháng chiến đánh bại
chủ nghĩa thực dân Pháp và trong cuộc đụng đầu lịch sử chống Mỹ cứu nước.
Điều cần đặt ra để xem xét, nghiên cứu là: Vì sao Hồ Chí Minh đã sớm nhận
thức tầm quan trọng và đưa đường lối ngoại giao, vận động quốc tế vào “tổng lộ
tuyến” như vậy? Theo quan điểm Hồ Chí Minh trong chiến lược “châu chấu đá xe”,
nước nhỏ đánh thắng đế quốc to, đường lối ngoại giao và hoạt động ngoại giao có thể
tập hợp lực lượng có lợi cho “dân tộc nhược tiểu” mỗi khi họ liên kết được với xu thế
cách mạng và tiến bộ xã hội bên ngoài, góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện đấu
tranh và tạo bước chuyển biến tương quan lực lượng có lợi cho nước nhỏ. Lý giải về
“đánh bằng mưu” trong “binh pháp Tôn Tử” (xuất bản năm 1947) Người nhấn mạnh:

“Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu, thứ hai là đánh bằng ngoại giao, thứ ba mới
đánh bằng binh. Vây thành mà đánh là kém nhất (như quân Đức vây thành Stalingrát
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 14

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

mà không lấy được, từ đó bị thất bại đến cùng)” [28, tr.518]. Nhận thức được vai trò
của vũ khí ngoại giao, ngay dù trong một cuộc chiến hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: “Ngày nay… ngoại giao ai thuận lợi hơn, thì thắng”. Với ý chí của dân tộc bị
áp bức vùng lên để tự giải phóng, Người đòi hỏi công cuộc đấu tranh quốc tế phải làm
sao “đưa ngoại giao của bên địch đến chỗ bế tắc” [26, tr.298]. Những quan điểm trên
đây của Người được Đảng và Nhà nước ta vận dụng trong việc đề ra và vận hành
đường lối ngoại giao và mạng lưới hoạt động ngoại giao, vận động quốc tế, phát huy
thế chủ động tiến công linh hoạt, sáng tạo trong ứng xử quốc tế suốt những chặng
đường đấu tranh hơn 70 năm qua.
Chủ quyền ngoại giao là vấn đề then chốt để hoàn thiện nền độc lập dân tộc:
Với cương vị Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng ngoại giao, trong năm 1945 – 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì phấn đấu giữ vững chủ quyền ngoại giao, coi vấn đề
“có ngoại giao riêng” là nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh nền độc lập: “Nếu quân đội
và ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa độc lập hẳn và vẫn
là thuộc địa của Pháp” [28, tr.70] và tuyên bố tại Pari ngày 12/7/1946, Người lại khẳng
định đòi hỏi: “Việt Nam có quyền phái Đại sứ và lãnh sự đi các nước” và coi đó như là
một yêu cầu tiên quyết để đi đến thỏa hiệp giữa hai bên. Chủ tịch Hồ Chí Minh một

lần nữa nêu rõ lập trường của nhân dân ta:“Nếu nước Pháp ưng thuận để nước ta thống
nhất và độc lập, đủ quyền kinh tế, quân sự ngoại giao thì dân ta rất sẵn sàng hợp tác
thân thiện trong khối liên hiệp Pháp” [29, tr.113]. Quan điểm về chủ quyền ngoại giao
của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc định ra phương hướng chính sách ngoại
giao, độc lập, tự chủ, dựa trên cơ sở lợi ích chiến lược của cuộc chiến đấu trong một
giai đoạn lịch sử, lợi ích lâu dài của dân tộc và phù hợp với những chuẩn mực quốc tế
(quyền dân tộc cơ bản, quyền dân tộc tự quyết… đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai), khớp nhịp với xu thế thời đại. “Độc lập có ý nghĩa
là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở bên
ngoài vào”[29, tr.136] – thể hiện quyết tâm chống lại mọi hình thức áp đặt và ách
thống trị giữa các nước lớn bên ngoài. Tuyên ngôn Độc Lập ngày 02/9/1945, Người đã
khẳng định quyết tâm xóa bỏ mọi quan hệ bất bình đẳng và nêu ra đạo lý làm nền tảng
cho chính sách ngoại giao độc lập tự chủ đi đến hình thành một định hướng mới cho
quan hệ quốc tế của Nhà nước Việt Nam độc lập: “Các dân tộc trên thế giới sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 15

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

Ngoại giao là vũ khí cách mạng tiến công: Ra đời trong cuộc chiến đấu sống
còn, luôn đương đầu với nhiều thế lực thù địch bên ngoài hùng mạnh hơn nhiều, chịu
ảnh hưởng trí tuệ của Hồ Chí Minh, nền ngoại giao Việt Nam mới luôn thể hiện tính
chiến đấu cách mạng cao và tinh thần tiến công mạnh mẽ. Nó càng trở nên năng động

tích cực hơn trong bước chuyển biến thời cuộc nước ta và bước ngoặt của sự biến đổi
quốc tế. Cho dù trong tình thế phức tạp và cả vào lúc “Sức ta rất thiếu thốn”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn kiên trì quan điểm “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ” [28, tr.3]. Giành
chủ động trên mặt trận quân sự lẫn mặt trận ngoại giao đều có tầm quan trọng không
kém gì nhau và bổ sung lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ của sự
nghiệp ngoại giao trong tất cả các thời kỳ là luôn “nêu cao chính nghĩa và kêu gọi dư
luận tán đồng lập trường của mình… dùng mọi mánh khóe ngoại giao để chiếm được
thắng lợi” [29, tr.297]. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, ngoại giao đóng vai trò quan
trọng trong việc chủ động đề xuất phương hướng chiến lược, vận dụng sách lược mềm
dẻo, lợi dụng sự khác nhau về lợi ích để phân hóa thế lực thù địch, làm suy yếu từng
bộ phận, đi đến cô lập và đánh thắng kẻ thù chính trong từng thời kỳ cách mạng. Mỗi
khi có điều kiện và thời cơ cho phép, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hiện diện trong các
hoạt động ngoại giao với vai trò nổi bật là người đề xướng và trực tiếp chỉ huy các đợt
tấn công trên mặt trận ngoại giao. Cuối năm 1945 đầu năm 1946, Người đã bật đèn
xanh mở màn cho cuộc thương lượng Pháp – Việt vào đúng lúc Đờ Gôn đổ vào Hiệp
định Hoa – Pháp về thay quân sắp được ký kết, đưa đến Hiệp định sơ bộ ký vao ngáy
06/3/1946 và tạm ước ngày 14/9/1946, tạo cục diện hòa hoãn, tuy ta chấp nhận cho
15.000 quân Pháp vào miền Bắc để thay thế 200.000 quân Tưởng, nhưng Pháp và các
nước Đồng Minh phải chấp nhận sự tồn tại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, ta tranh thủ thời gian đó để chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Chủ
tịch Hồ Chí minh cũng đã tiến công ngoại giao trong bài phát biểu tháng 11/1953 bày
tỏ thái độ thiện chí muốn kết thúc chiến tranh bằng biện pháp thương lượng hòa bình
tay đôi với chính phủ Pháp đúng vào thời điểm tình hình chính trị nước Pháp đã bắt
đầu rối loạn bởi cuộc chiến tranh Đông Dương, phía ta chờ đón chiến thắng Xuân – Hè
năm 1954. Kiến nghị hòa bình có tính tấn công của Người, góp phần to lớn làm tan rã
ý chí xâm lược của thực dân Pháp và động viên phong trào chống “Chiến tranh bẩn
thỉu” của nhân dân Pháp và các nước khác trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
Chính phủ ta từ tháng Giêng năm 1967 đã bắt đầu đưa ra điều kiện buộc Mỹ phải
SVTH: Nguyễn Văn Rin


Trang 16

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

ngừng ném bơm để ngồi vào bàn thương lượng… Tại Hội nghị Bộ Chính trị năm
1967, Người nhận định: “Đã đến lúc mở mặt trận ngoại giao…” Các đợt tiến công
ngoại giao đó điều nhằm kiềm chế xung lực của kẻ thù, phân hóa chúng, thể hiện thiện
chí của ta, khơi gợi xu hướng muốn giải quyết cuộc xung đột thông qua thương lượng
hòa bình, thúc đẩy đối phương xuống thang chiến tranh và quan trọng hơn hết là buộc
đối phương đi vào khả năng do ta lựa chọn tùy thời điểm, mở ra cục diện “đánh –
đàm” mà ở đó ta có thể phát huy hết sức mạnh chính trị, quân sự, ngoại giao và sức
mạnh cộng hưởng của dân tộc thời đại, tạo những tiền đề về tinh thần và vật chất để
xoay chuyển thế trận cuộc đấu tranh ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho thế lực thù
nghịch. Nhìn lại lịch sử ta có thể thấy, dùng ngoại giao để trực tiếp tấn công thế lực
thù địch làm suy yếu chúng, đã trở thành một nghệ thuật đầy trí tuệ của Hồ Chí Minh.
1.4 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đối ngoại
Đối ngoại Việt Nam đã kế thừa những giá trị tiêu biểu của truyền thống hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào
mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Khi mới được thành lập, dù gặp muôn vàn khó khăn,
nhưng được Bác Hồ trực tiếp dìu dắt, ngoại giao Việt Nam đã thực sự trở thành một vũ
khí sắc bén, góp phần giữ vững thành quả cách mạng tháng Tám, bảo vệ chính quyền
cách mạng non trẻ, tranh thủ thêm thời gian để bảo toàn và củng cố lực lượng cho sự
nghiệp cách mạng lâu dài. Nhiều sách lược ngoại giao kiên quyết mà khôn khéo như
"hòa để tiến", "dĩ bất biến ứng vạn biến", "thêm bạn bớt thù"... đã được Bác vận dụng
một cách tài tình, trở thành những bài học kinh nghiệm quý báu của ngoại giao Việt

Nam.
Trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều biến chuyển, Đại hội đại biểu
lần thứ II của Đảng họp tại Tuyên Quang (2.1951) quyết định đưa Đảng ra hoạt động
công khai với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã phát triển và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dân của Đảng, quyết định những vấn
đề quan trọng về chính sách ngoại giao, tuyên bố công khai vấn đề Việt Nam là một
thành viên của hệ thống xã hội chủ nghĩa, một bộ phận của các lực lượng dân chủ trên
thế giới.
Luận cương cách mạng Việt Nam (Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội) do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày
tại Đại hội nêu rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp xâm
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 17

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

lược, giành thống nhất độc lập hoàn toàn và bảo vệ hòa bình thế giới. Mọi chính sách
đối nội và đối ngoại đều phải thực hiện mục tiêu đó. “Chính sách ngoại giao của ta là
chính sách ngoại giao có tính chất dân tộc và dân chủ. Nguyên tắc cơ bản của chính
sách đó là bảo vệ toàn vẹn độc lập, dân chủ, chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc
gia; ủng hộ phong trào của giải phóng dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa; bảo vệ hòa
bình dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến, đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung
Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, hợp tác thân thiện, tự do và bình đẳng với
chính phủ và nhân dân các nước” [21, tr. 145].

Tổng Bí thư Trường Chinh nêu rõ: “Tiến hành đến cùng cuộc kháng chiến để
tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh đổ bọn can thiệp Mỹ, thắt chặt đoàn kết với
nhân dân lao động Pháp và Mỹ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp – Mỹ. Tích
cực giúp đỡ cuộc chiến tranh giải phóng của các dân tộc Ai Lao và Cao Miên. Củng cố
quan hệ hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác. Sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với các nước, nhất là những nước láng giềng ở
Đông Nam Á, trên nền tảng bình đẳng, thân thiện và tôn trọng chủ quyền của nhau.
Phát triển ngoại giao nhân dân rộng rãi. Bảo hộ kiều bào ở nước ngoài, bảo hộ kiều
dân ngoại quốc ở Việt Nam, nhất là những người vì đấu tranh cho độc lập, dân chủ và
hòa bình mà bị các chính phủ phản động truy nã, buộc phải tạm thời lánh ở nước
ta”[21, tr. 146].
Để đẩy mạnh công tác ngoại giao cho phù hợp với hoàn cảnh mới, phải đặc
biệt chú trọng:
“1. Xúc tiến việc đặt cơ quan ngoại giao và củng cố quan hệ ngoại giao với các
nước bạn.
2. Tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của các dân tộc Ai Lao, Cao Miên.
3. Có kế hoạch theo dõi và đả phá kịp thời những mưu mô và hành động ngoại
giao của bọn bù nhìn Việt gian ở những nước Đông Nam Á.
4. Củng cố mối liên hệ với nhân dân Pháp để tiến tới những hình thức phối hợp
đấu tranh chống đế quốc Pháp – Mỹ, quyết liệt và phong phú hơn.
5. Phát triển ngoại giao nhân dân, đặc biệt chú trọng tham gia các cuộc vận động
lớn trên thế giới, và thắt chặt liên hệ tổ chức và hoạt động giữa những đoàn thể của
nhân dân Việt Nam với đoàn thể nhân dân thế giới.

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 18

MSSV: 6096110



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

6. Đào tạo và bổ túc cán bộ ngoại giao. Lựa chọn những cán bộ đáng tin cẩn về
chính trị, giáo dục chu đáo về tư tưởng, chính sách và đạo đức cách mạng, huấn luyện
họ thành những cán bộ ngoại giao mới. Đề phòng khuynh hướng ngoại giao hình thức
theo lối tư sản”[21, tr. 147-148].
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân và đế quốc xâm lược,
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta, ngoại giao Việt Nam đã phát huy
truyền thống đoàn kết, tự lực tự cường, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp, tranh thủ được sự
ủng hộ quý báu cả về vật chất và tinh thần của bạn bè khắp năm châu phục vụ sự
nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Ngoại giao đã phát huy thắng lợi trên chiến trường ở mức cao nhất để biến
thành sức mạnh thuyết phục trên bàn đàm phán. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về
Đông Dương và Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
là kết quả của những năm tháng đấu tranh gian khổ trên mặt trận ngoại giao, là những
mốc son của ngoại giao Việt Nam trong 65 năm xây dựng và trưởng thành. Từ đây,
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận, nước ngoài rút
hết quân đội khỏi lãnh thổ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để quân dân cả nước tiến
tới giành thắng lợi trọn vẹn vào mùa xuân lịch sử năm 1975.

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 19

MSSV: 6096110



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
2.1 Bối cảnh lịch sử
2.1.1 Bối cảnh quốc tế
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại những hậu quả nặng nề cho toàn
thế giới: gần 60 triệu người chết và 90 triệu người bị thương và tàn phế; tiêu tốn và
gây thiệt hại hơn 4.000 tỷ USD; nhiều đô thị lớn bị phá hủy, nhất là ở Liên Xô, Đức,
Nhật Bản, châu Âu… Hầu hết các quốc gia tham chiến đều bị chiến tranh tàn phá. Mỹ
là nước duy nhất trục lợi từ chiến tranh và trở thành siêu cường có sức mạnh áp đảo về
mọi mặt. Các nước châu Âu phải dựa vào Mỹ về mặt kinh tế. Tại Hội nghị Yanta
(2.1945) và Hội nghị Pốtxđam (7.1945), nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mỹ và Anh nhất
trí thành lập Liên hợp quốc (trong đó 5 cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung
Quốc là 5 ủy viên thường trực Hội đồng bảo an, có quyền phủ quyết); nước Đức bại
trận bị chia cắt thành nhiều khu vực dưới sự quản lý của Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp.
Trong đó, Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô; còn Tây Âu thuộc phạm vi
ảnh hưởng của Mỹ. Hình thành khuôn khổ của một trật tự thế giới mới – trật tự thế
giới hai cực. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã
hình thành với sự ra đời của một loạt nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Tháng
10.1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời và tuyên bố đứng về phía Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, làm đảo lộn cục diện thế giới và hệ thống quan hệ
quốc tế. Phát biểu của cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill ngày 5.3.1946 về “Bức
màn sắt” đánh dấu sự khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh. Ra đời hai khối liên minh quân
sự do Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi khối: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) năm 1949 và Tổ chức Hiệp ước Vácxava năm 1955. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi và lan rộng sang các nước

Mỹ Latinh, trở thành một dòng thác cách mạng đánh đổ chủ nghĩa thực dân. Hầu hết
các nước châu Á – Thái Bình Dương và Đông Dương vốn là thuộc địa của Anh, Pháp,
Bồ Đào Nha. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các quốc gia châu Âu này suy yếu,
vai trò và ảnh hưởng tại khu vực bị suy giảm. Mỹ tăng cường can thiệp, tiến hành ký
kết hiệp ước an ninh, thành lập các khối quân sự trong khu vực: khối quân sự Nam
Thái Bình Dương (ANZUS), gồm Mỹ, Ôxtrâylia và Niu Dilân thành lập tháng 9.1951;

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 20

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

khối quân sự Đông Nam Á (SEATO), gồm Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân,
Philíppin, Thái Lan, Pakixtan, thành lập tháng 9.1954, giải thể tháng 6.1977.
2.1.2 Bối cảnh trong nước
Thuận lợi: Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ra đời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng tháng Tám
thành công, nhân dân ta được giải phóng khỏi kiếp đời nô lệ, trở thành người chủ nước
nhà. Nhân dân vô cùng vui vẻ, sung sướng và tin tưởng vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tích cực chăm lo xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền, có điều kiện trực tiếp chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Hơn
nữa Đảng ta đã trải qua hơn mười lăm năm rèn luyện và trưởng thành, có đầy đủ kinh
nghiệm, bản lĩnh lãnh đạo đất nước trong tình hình mới. Chính quyền cách mạng mới
ra đời còn non trẻ, nhưng đó là chính quyền của nhân dân, đại diện cho quyền lợi của

nhân dân. Đây là một thuận lợi to lớn của ta. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, nhân dân ta đã xây dựng một mặt trận thống nhất, đoàn kết dựa trên nền tảng
liên minh công – nông đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng về mục tiêu chung là
chăm lo xây dựng đất nước bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám.
Như vậy, sau cách mạng tháng Tám năm 1945, tuy chúng ta có những thuận lợi
to lớn nhưng bên cạnh đó cũng có những khó khăn buộc phải đối mặt hết sức nguy
hiểm, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải hết sức thận trọng trong việc đối phó với “bọn
thù trong giặc ngoài” đang dòm ngó nước ta.
Khó khăn: Chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với tình thế khó khăn về
mọi mặt: giặc đói, giặc rét và giặc dốt hoành hành; kinh tế kiệt quệ; ngân quỹ trống
rỗng; quân đội còn rất non trẻ, vũ khí hầu như không có; các lực lượng phản cách
mạng hoạt động ráo riết; chính phủ chưa được quốc tế công nhận…
- Ở miền Bắc: gần 200 ngàn quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa là giải
giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt Nam sống
lưu vong ở Trung Quốc, những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức giả danh cách
mạng, như Việt Nam cách mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách), Việt Nam Quốc dân
Đảng (Việt Quốc) do chính quyền Tưởng Giới Thạch thu nạp và nuôi dưỡng từ lâu.
Với sự giúp sức của quân Tưởng, bọn Việt Quốc, Việt Cách đánh chiếm thị xã Móng
Cái, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Hồng Gai, Quãng Nam. Chúng

SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 21

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng


lập các chính quyền phản động ở thị xã Vĩnh Yên, Yên Bái, Móng Cái. Ngoài ra, quân
Tưởng còn đòi đổi quốc kỳ, quốc ca, đòi Hồ Chí Minh từ chức Chủ tịch nước.
- Ở miền Nam: Hơn 1 vạn quân Anh vào giải giáp quân đội phát xít Nhật. Từ
tháng 9.1945, Anh đã chính thức ký với Pháp hiệp định công nhận chính quyền dân sự
của Pháp tại Đông Dương. Ngày 1.1.1946, Anh ký hiệp định trao quyền cho Pháp giải
giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào. Trong thời gian Nhật chiếm Đông Dương,
Pháp vẫn duy trì 50 ngàn quân trên các miền Đông Dương, sau chiến tranh 1.500 lính
Pháp bị Nhật giam giữ được thả ra, những đạo quân viễn chinh của Pháp được gấp rút
đưa vào miền Nam. Ngoài ra, còn khoảng 60 ngàn quân Nhật ở Việt Nam chờ giải
giáp. Như vậy, ở Việt Nam lúc này có khoảng 30 vạn quân đội nước ngoài thuộc bốn
thế lực đối địch với cách mạng Việt Nam, đã tạo nên sự chênh lệch trong cán cân lực
lượng hết sức bất lợi cho cách mạng Việt Nam, tình thế cách mạng “ngàn cân treo sợi
tóc”. Chính vì lẽ đó đòi hởi Đảng và Nhà nước ta phải đủ bản lĩnh, nhạy bén trong việc
đối phó các thế lực thù địch đang ra sức quấy phá chính quyền còn non trẻ của ta.
- Về kinh tế – tài chính: nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, nạn đói
hoành hành, ngân quỹ nhà nước trống rỗng, lạm phát tăng, giá sinh hoạt đắt đỏ. Đặc
biệt là nạn đói diễn ra vào đầu năm 1945 làm cho hơn hai triệu đồng bào ở Bắc Bộ bị
chết đói (do chính sách của Nhật và Pháp ra sức vơ vét thóc gạo ở Việt Nam. Phát xít
Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đai, còn thực dân Pháp lập đồn điền trồng cao su).
Trong khi đó, nạn lụt giữa năm 1945, nước lũ lên cao, đê sông Hồng bị vỡ, làm ngập
tám tỉnh Bắc Bộ: Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Vĩnh Yên, Phú Yên, Bắc Ninh, Hải
Dương, Thái Bình. Sau đó nạn hạn hán làm sụt mất 1/3 sản lượng thu hoạch ở các tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Báo cứu quốc số ra ngày 4 và 5.1.1946 cho biết số
thóc thu vụ mùa 1945 chỉ “đủ nuôi tám triệu con người trong ba tháng. Đợi đến vụ
chiêm 1946, dân số bị đói trong bốn tháng. Nghĩa là còn thiếu 850.000 tấn thóc”.
Trước đây, nền kinh tế ở Đông Dương do thực dân Pháp nắm: Xi măng, than, xe lửa,
điện, cao su, đều trong tay họ. Khi chính quyền nhân dân được thiết lập chỉ có một số
ít xí nghiệp là hoạt động được, do trước khi bỏ chạy Pháp đã đập phá hết. Các nhà
công thương Việt Nam chỉ làm chủ những cơ sở nhỏ. Do đó, sau cách mạng Tháng

Tám, sản xuất thiếu hụt, hàng hóa tiêu dùng khan hiếm, số người thất nghiệp tăng.
Tình hình tài chính nguy ngập: Khi Chính phủ lâm thời được thành lập, ngân sách
Đông Dương hụt tới 185 triệu đồng, nợ tới 564 triệu đồng, ngân khố Trung ương chỉ
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 22

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

còn 1.200.000 đồng, trong đó có 586 ngàn đồng là hào nát không dùng được. Đồng
bạc Đông Dương mất giá, quân Tưởng tung tiền “Quan kim, Quốc tệ” vào Việt Nam.
Ngân hàng Đông Dương tuyên bố không tiêu giấy bạc 500 đồng, không chịu ứng tiền
cho Việt Nam, hòng gây khó khăn cho ta.
- Về chính trị – xã hội: Chính quyền ta còn non trẻ, chưa có kinh nghiệm trong
việc quản lý đất nước, tệ nạn xã hội lan tràn.
- Về văn hóa – giáo dục: Dưới ách thống trị của Thực dân Pháp, ở nước ta hơn
90 % dân số mù chữ, nhà tù nhiều hơn trường học do thực dân Pháp thực hiện chính
sách ngu dân để trị.
- Nội phản: bọn phản cách mạng ngó đầu dậy chống phá cách mạng (cướp
chính quyền ở Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái… gây nhiều vụ bắt bớ, cướp của giết
người).
- Chống giặc ngoại xâm: Đêm 22 rạng 23.9.1945, được sự giúp đỡ của thực
dân Anh, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần
hai. Như vậy lúc này nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng một lúc phải đối đầu với
hai kẻ thù: quân Tưởng ở miền Bắc, quân Pháp ở miền Nam. Trước tình hình đó, Đảng

ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm
vi cả nước. Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Qua
chín năm kháng chiến trường kỳ, ngày 7.5.1954 dân tộc ta làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu, chấm dứt chế độ thực dân tại Việt Nam và Đông Dương,
mở ra một thời kỳ cách mạng mới cho đất nước.
2.2 Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 1945 – 1954
2.2.1 Nhận thức của Đảng ta về tầm quan trọng và tác dụng to lớn của hoạt
động đối ngoại
Vừa mới giành được độc lập, nhân dân Việt Nam bước vào một giai đoạn cách
mạng mới. Đảng ta xác định hai nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn mới là kháng chiến
và kiến quốc; chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược;
đề ra chủ trương phải kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, huy động mọi lực
lượng nhân dân tham gia kháng chiến và xây dựng đất nước về mọi mặt như: chính trị,
quân sự, kinh tế, xã hội… Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời trong bối cảnh quốc tế đầy rối loạn, diễn biến tình hình ở Việt Nam và
Đông Dương đang chịu sự chi phối rất lớn của các nhân tố bên ngoài. Kẻ thù quyết
SVTH: Nguyễn Văn Rin

Trang 23

MSSV: 6096110


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: TH.S – GVC Hồ Thị Quốc Hồng

tâm chống lại nền độc lập tự do của dân tộc ta là thế lực thực dân, đế quốc và phản
động từ bên ngoài tới. Đất nước ta đang bị bọn đế quốc phản động phong tỏa, cắt mọi
quan hệ với bên ngoài. Hơn thế nữa, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta

(Nhật, Anh, Pháp và lực lượng Tưởng Giới Thạch) và 4 trong 5 nước lớn thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc (Anh, Pháp, Trung Quốc, Mỹ) đang dính
líu vào việc áp đặt giải pháp cho Đông Dương với một mục tiêu duy nhất là: Tìm cách
xóa bỏ chính quyền cách mạng, “lập lại trật tự” của thực dân phương Tây ở xứ sở này.
Nhìn tổng thể, kinh tế, tài chính, quân sự, tương quan lực lượng giữa ta và thế lực thù
địch từ bên ngoài vào có sự chênh lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình thế “châu
chấu đá xe”. Trong bối cảnh bộn bề khó khăn và thách thức, thế lực thù địch mạnh hơn
ta gấp nhiều lần, khi vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, nền ngoại giao
nước ta xuất hiện và trở thành phương tiện đấu tranh sắc bén trong tay Nhà nước cách
mạng, góp phần tích cực vào việc bảo vệ thành quả cánh mạng tháng Tám. Ngày
13.11.1945, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ đưa ra lời kêu gọi nhân dân ta
ra cứu nước. Người nói: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc…kiến thiết cần phải
có nhân tài. Chúng ta cần nhất bây giờ là: Kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến
thiết quân sự, kiến thiết giáo dục”. Nhận thức về tầm quan trọng và tác dụng của hoạt
động ngoại giao, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
1. Đường lối quốc tế, chính sách ngoại giao là bộ phận hợp thành của chiến lược
cách mạng.
2. Ngoại giao là vũ khí cách mạng tấn công.
3. Chủ quyền ngoại giao là vấn đề then chốt để hoàn thiện nền độc lập dân tộc.
Nhận thức về vai trò của vũ khí ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Ngày
nay,…ngoại giao ai thuận lợi hơn thì thắng”. Trong những năm 1945 – 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kiên trì phấn đấu giữ vững chính quyền ngoại giao, coi vấn đề “có
ngoại giao riêng” là nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh nền độc lập. Nếu quân đội và
ngoại giao Việt Nam dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa độc lập hẳn và vẫn là
thuộc địa Pháp. Ngoài ra, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng ngoại giao
đóng vai trò quan trọng trong việc chủ động đề xuất phương hướng chiến lược, vận
dụng chiến lược mềm dẻo, vận dụng sự khác nhau về lợi ích để phân hóa thế lực thù
địch làm suy yếu từng bộ phận, đi đến cô lập và đánh thắng kẻ thù chính trong từng
thời kỳ cách mạng. Như vậy, sau cách mạng tháng Tám, tuy hoàn cảnh vô cùng khó
SVTH: Nguyễn Văn Rin


Trang 24

MSSV: 6096110


×