TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỈ ĐẠO XÂY
DỰNG TUYẾN ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1959-1975 )
Chuyên Ngành: Sư Phạm Giáo Dục Công Dân
Mã ngành: 52140204
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
ThS:Lê Thị Út Thanh
Hồ Thu Xa
MSSV: 6064695
Lớp: SP. GDCD K32
Cần Thơ, 11/ 2009
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu, tìm tòi bắt đầu viết cho đến khi hoàn thành luận văn
tốt nghiệp, tôi đã nhận được rất nhiều lời động viên, chỉ dạy, giúp đỡ từ thầy cô, gia đình và
bè bạn. Chính điều này, đã cho tôi thêm nhiều nghị lực để hoàn thành luận văn. Việc hoàn
thành tốt luận văn sẽ giúp bản thân tôi có thêm nhiều điều bổ ích về tri thức và những kinh
nghiệm quý báu cho công tác giảng dạy về sau .
Chính vì lẽ đó, trang đầu tiên của luận văn tốt nghiệp là lời cảm ơn chân thành của tôi
đến toàn thể thầy cô, gia đình và bè bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn Cô Lê Thị Út Thanh đã
hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn, gớp ý cho bài viết của tôi. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tất cả
các thầy cô thuộc khoa Khoa Học Chính Trị trường Đại Học Cần Thơ đã truyền đạt kiến
thức trong những niên học vừa qua, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có được tài
liệu cần thiết phục vụ cho việc thực hiện đề tài luận văn. Tiếp đến, tôi xin gởi lời cảm ơn đến
tập thể lớp sư phạm giáo dục công dân khóa 32. Các bạn là những người bạn đồng hành lý
tưởng. Và cuối cùng đó là lời tri ân đến cả gia đình, đây là nơi đã cho tôi thêm nhiều nghị lực.
Tuy nhiên, hạn chế về thời gian và khả năng của bản thân nên luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và
các bạn.
Chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, tháng 11 năm 2009
SVTH:
Hồ Thu Xa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .............................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................5
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................6
7. Kết cấu luận văn....................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN (1959 – 1975) ....................................7
1.1 Về tên gọi................................................................................................ 7
1.2 Chủ trương xây dựng con đường chiến lược trên dãy Trường Sơn của
Đảng 9
1.3 Quá trình xây dựng và mở rộng Đường Trường Sơn (1959-1975) ...... 11
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG CHI VIỆN
TRÊN ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN GIAI ĐOẠN 1965-1975 ............................. 22
2.1 Khái quát hoạt động của đường Trường Sơn giai đoạn 1959-1964...... 22
2.2 Đẩy mạnh chi viện cho chiến trường miền Nam trên đường Trường
Sơn giai đoạn 1965-1975 ................................................................................. 25
2.2.1 Quyết tâm bảo vệ đường Trường Sơn của Đảng và dân tộc Việt Nam 25
2.2.2 Đẩy mạnh chi viện cho tiền tuyến miền Nam trên đường Trường Sơn36
2.3 Đường Trường sơn trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước sau
1975............................................................................................................... 42
KẾT LUẬN ............................................................................................... 44
PHỤ LỤC ................................................................................................. 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 54
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi (30/4/1975) đã đánh
dấu chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ xâm lược. Thời gian qua đi nhưng ký ức về cuộc chiến chưa bao giờ mờ
phai trong tâm trí nhiều thế hệ người Việt. Đó là những năm tháng Việt Nam
phải đối đầu với cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, ác liệt của chủ nghĩa đế
quốc mà trực tiếp là đế quốc Mỹ. Trong cuộc đọ sức đó, dưới sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam, dân tộc ta đã đoàn kết thành một khối thống
nhất quyết vượt qua gian khổ hy sinh tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) là kết
quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó, việc thành lập và đẩy mạnh hoạt động
của hệ thống đường Trường Sơn là một trong những yếu tố mang tính chất
quyết định. Ngày 19 tháng 5 năm 1959, xuất phát từ nhu cầu chi viện cho cuộc
kháng chiến ở miền Nam, Đoàn 559 phụ trách xây dựng tuyến đường vận tải
chiến lược trên dãy Trường Sơn ñaõ được thành lập. Với sự quyết tâm của Đòan
559, đường Trường Sơn đã đi từ thô sơ rồi cứ ngày càng được mở rộng và trở
thành con đường vĩ đại thời chiến tranh chống Mỹ. Từ tuyến đường mòn bí mật
gùi bộ đầu tiên, trong mười sáu năm kháng chiến chống Mỹ tuyến giao thông
vận tải này đã ngày càng được mở rộng và trở thành một hệ thống đường cho xe
cơ giới dài đến 16.790 kilômét, với sáu trục dọc phía Đông, Tây Trường Sơn
nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam, vùng giải phóng của
cách mạng hai nước Lào, Campuchia. Song song đó, sự chi viện của hậu
phương Miền Bắc cho tiền tuyến Miền Nam bằng con đường này cũng ngày
càng tăng lên. Chỉ 9 tháng đầu năm 1973, Miền Bắc đã đưa vào tiền tuyến
140.000 tấn hàng các loại, gấp 4 lần so với năm 1972, trong đó có 80.000 tấn
hàng quân sự, 40.000 tấn gạo…
Để thực hiện nhiệm vụ chi viện hết sức quan trọng đó, quân và dân Miền
Bắc mà trực tiếp là bộ đội, thanh niên xung phong cùng nhân dân sống và hoạt
động trên đường Trường Sơn đã phải vượt bao khó khăn gian khổ, chiến đấu
với lòng dũng cảm, không ngại hy sinh để bảo vệ con đường huyết mạch này,
tiến tới giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam cùng những đóng góp của đường Trường Sơn đã chứng tỏ đây là một công
trình có giá trị cả về mặt thực tiễn lẫn trong chính trị, tư tưởng, là một bức tranh
hoành tráng phản ánh trung thực ý chí, sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
Chính vì những lý do trên đã thôi thúc tôi đến việc chọn vấn đề: “Đảng
Cộng sản Việt Nam chỉ đạo xây dựng tuyến đường Trường Sơn trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1959-1975) ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Từ trước đến nay, nghiên cứu về giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954-1975) đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu như: Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975, tập VI; Chiến tranh cách mạng
Việt Nam 1945 – 1975, thắng lợi và bài học kinh nghiệm; Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, tập II ( 1954 – 1975 ); Việt Nam cuộc chiến không quên… Các
công trình nghiên cứu này đã cho người đọc một cái nhìn tổng quát về những sự
kiện, những biến cố đã xảy ra trong giai đoạn hết sức khó khăn của cách mạng
Việt Nam, giai đoạn mà đất nước ta phải đối đầu với kẻ thù xâm lược lớn mạnhđế quốc Mỹ, trong đó có đề cập đến việc thành lập và hoạt động của Đường
Trường Sơn.
* Các công trình nghiên cứu cụ thể về đường Trường Sơn và vai trò của
tuyến đường này trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
Chính vì vai trò hết sức quan trọng của đường Trường Sơn trong kháng
chiến chống Mỹ nên ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này,
đặc biệt là các tác phẩm dưới dạng hồi ký của chính những người đã từng tham
gia chiến đấu trực tiếp ở Trường Sơn.
- Tác phẩm Những năm tháng sôi động trên đường Trường Sơn của Thiếu
tướng Võ Bẩm được Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1995.
Đến với quyển sách chúng ta như trở lại những năm tháng đầu triển khai tuyến
vận tải quân sự chiến lược ở Trường Sơn và không khí sôi nổi trong việc chuẩn
bị chiến trường, đón thời cơ lớn, tiến lên phục vụ các chiến dịch tiến công giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên – người trực tiếp chỉ đạo, gắn bó với
tuyến đường Trường Sơn đã công bố Tập hồi ức: Đường xuyên Trường Sơn vào
năm 2004. Với tập hồi ức này, tác giả đã thể hiện chặng đường hơn mười năm
hoạt động trong đạn bom khốc liệt, nhưng rất đỗi hào hùng của tuyến chi viện
chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, cũng là quãng thời gian tác giả ở
cương vị phụ trách tuyến chi viện này. Tập hồi ức được thể hiện qua sự chắt lọc
những mảng lớn ký ức, nhật ký công tác của bản thân và đóng góp của một số
đồng đội đã từng chiến đấu, công tác ở Trường Sơn.
- Nguyễn Việt Phương với tác phẩm Trường Sơn- đường Hồ Chí Minh
huyền thoại, xuất bản năm 2005. Bằng hệ thống câu hỏi – đáp, tác phẩm đã gúp
người đọc dẽ dàng nắm bắt những vấn đề liên quan đến địa danh, con người, các
sự kiện đã xảy ra trên tuyến đường Trường Sơn.
- Tác phẩm Con đường máu lửa do Nguyễn Thị Súy và Lê Ngọc Tú chủ
biên, xuất bản năm 2007. Với tác phẩm này, các tác giả đã tái hiện lại những
cuộc hành quân, những đợt chiến đấu anh dũng của quân và dân ta trên đường
mòn Hồ Chí Minh, đồng thời lên án những âm mưu thủ đoạn đánh phá mà đế
quốc Mỹ đã sử dụng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam mà trực tiếp là trên
tuyến đường Trường Sơn.
- Năm 2008, tác giả Đặng Phong đã cho ra đời tác phẩm 5 đường mòn Hồ
Chí Minh. Tác phẩm này là một công trình rất quý giá vì đây là lần đầu tiên tư
liệu trong và ngoài nước được tập hợp trong một cuốn sách để miêu tả và giải
thích tầm quan trọng và quan hệ của 5 đường mòn Hồ Chí Minh: Trên bộ, trong
lòng đất, trên biển, vận chuyển quá cảnh và con đường chuyển ngân trong việc
chi viện cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam cũng như trong việc giữ liên
lạc giữa miền Nam với miền Bắc.
- Năm 2009, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đường 559 – đường
Trường Sơn, Nhà xuất Bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh đã cho ra đời tác
phẩm Trường Sơn con đường huyền thoại, chủ biên là nhà nghiên cứu Lan Anh.
Tác phẩm gồm hai phần: phần một là những bài ký do chính những người lãnh
đạo là những chiến sĩ đã tham gia trực tiếp vào việc triển khai, mở rộng con
đường Trường Sơn huyền thoại và phần hai là những bút ký trở lại Trường Sơn
hôm nay để tìm lại những hồi ức, những chứng tích của một cuộc đấu tranh vì
chính nghĩa.
Đó là những công trình nghiên cứu hết sức công phu, là những tài liệu
tham khảo hết sức quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp
này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình hình thành, phát triển và
hoạt động của hệ thống đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954-1975).
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu về hệ thống đường Trường
Sơn trên mặt đất.
+ Về mặt thời gian: Luận văn tìm hiểu về đường Trường Sơn giai đoạn
(1959 – 1975).
4. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích: Luận văn tập trung làm sáng tỏ về việc chỉ đạo xây dựng tuyến
đường Trường Sơn của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu về tên gọi của đường Trường Sơn; chủ trương xây dựng đường
Trường Sơn của Đảng; khái quát quá trình mở rộng tuyến đường Trường sơn
(1959 – 1975); hoạt động chi viện cho tiền tuyến Miền Nam trên tuyến đường
Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ (1959 – 1975); vai trò của đường
Trường Sơn trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước sau năm 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Để hoàn thành luận văn này tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp quy nạp - diễn dịch, phương pháp so sánh –
đối chiếu…
6. Đóng góp của luận văn
Việc hoàn thành luận văn góp phần bổ sung thêm nguồn tư liệu về đường
Trường Sơn, đặc biệt là chủ trương đúng đắn của Đảng trong việc xây dựng và
phát huy vai trò của tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ.
Theo trật tự khai thác và kiến thức đã chắt lọc tôi mong đây là một trong
những tài liệu tham khảo hữu ích cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ như
học sinh, sinh viên- thế hệ không trực tiếp tham gia cuộc chiến. Mong rằng
đóng góp nhỏ của luận văn sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về đất nước, con người
Việt Nam trong những tháng năm kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ
xâm lược.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn được chia thành 2 chương, 6 tiết.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN (1959 – 1975)
1.4 Về tên gọi
Thực tế, những con đường mòn trên Trường Sơn đã xuất hiện ngay từ
thời phong kiến, tiếp tục được duy trì trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Nhưng những con đường mòn này có tên gọi chính thức là bắt nguồn từ đâu?
Trong hồi ký của Thượng tá Võ Bẩm thì đúng vào ngày sinh nhật lần thứ
69 của Bác 19/5/1959, theo chỉ thị của Bộ Chính trị và Bác Hồ, một tuyến giao
thông vận tải được mở để đưa cán bộ, vũ khí và những hàng hóa cần thiết vào
chi viện cho chiến trường miền Nam. Đoàn 559 là lực lượng phụ trách thực hiện
nhiệm vụ trên; do đó, tuyến giao thông vận tải nối liền Bắc-Nam này được gọi
là Đường 559.
Đường 559 còn được gọi với một tên khác là đường Trường Sơn lấy tên
của dãy Trường Sơn, nơi hệ thống tuyến đường này đi qua. Dãy Trường Sơn là
khái niệm phạm vi không gian chỉ dãy núi nối dài trùng điệp từ Tây – Bắc tới
Đông – Nam dọc biên giới ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia. Riêng ở Việt
Nam dãy Trường Sơn gồm các cao nguyên: Mộc Châu, Kon Tum, Pleiku,
Đăklăk, Lâm Viên…Do địa hình cấu tạo xen kẽ những thung lũng hẹp nên dãy
Trường Sơn nói chung và dãy Trường Sơn ở Việt Nam nói riêng có những khúc
đứt gãy phân ra nhiều nhánh núi đâm ngang, dốc cao và thường dừng lại trước
thung lũng sâu cùng khí hậu thời tiết rất khắc nghiệt. Vậy mà, chính nơi đây,
chính trên dãy Trường Sơn này lại hình thành một hệ thống Đường 559 – đường
Trường Sơn.
Đầu năm 1961, đường Trường Sơn được gọi với tên Con đường mòn Hồ
Chí Minh – Ho Chi Minh trail. Tên gọi này xuất phát từ người Mỹ, cụ thể trong
bản báo cáo của tướng Taylor trình lên Tổng thống Kennedy về sự thâm nhập
của miền Bắc Việt. Ông Taylor đã gọi tuyến giao liên vận tải của ta là Ho Chi
Minh trail.
Mười năm sau – năm 1971, một ký giả Pháp ông Van Geirt đã gọi đường
Trường Sơn là: Đường mòn Hồ Chí Minh – La piste Hô Chi Minh trong quyển
sách cùng tên. Cũng trong năm, tại Việt Nam nhà văn Đào Vũ cho ra mắt đọc
giả một tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết: Con đường mòn ấy. Ai đến với tác
phẩm cũng ngầm hiểu tác giả đang nói về Đường 559 – đường Trường Sơn.
Đến năm 1973, khi Bộ Chính Trị - Chính phủ phê chuẩn dự án QĐ243/
TTG ( dự án mở đường ) thì tuyến giao thông vận tải Trường Sơn – Đường 559
được gọi với tên mới Đường Hồ Chí Minh.
Đường 559 – Đường Trường Sơn hay Đường Hồ Chí Minh là mạng lưới
giao thông quân sự chiến lược chạy từ lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
vào tới lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, đi qua miền Trung Việt Nam, hạ Lào, và
Campuchia.
Ngoài ra, đường Trường Sơn còn được các nhà văn nhà thơ, những người
lính trong cuộc chiến hình tượng hóa bằng những tên gọi khác như: tuyến lửa,
con đường máu lửa, con đường huyền thoại, trận đồ bát quái xuyên rừng rậm...
1.2 Chủ trương xây dựng con đường chiến lược trên dãy Trường Sơn –
Đường 559 của Đảng
Hiệp định Giơnevơ (7/1954) đã mở ra bước ngoặt quan trọng trong lịch
sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta gần một thế
kỷ chống thực dân Pháp xâm lược. Từ đây miền Bắc được hoàn toàn giải phóng
và bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu
tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ tiến tới tổng tuyển cử thống
nhất đất nước. Vĩ tuyến 17 trên sông Bến Hải trở thành giới tuyến quân sự tạm
thời chia cắt hai miền Nam – Bắc Việt Nam. Nhưng, chẳng những tổng tuyển cử
thống nhất đất nước Việt Nam đã không được thực thi như điều khoản của Hiệp
định Giơnevơ mà hình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt vì
âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam của đế quốc Mỹ.
Từ lâu, đế quốc Mỹ đã dòm ngó Việt Nam, ấp ủ mưu toan thôn tính
“…Mỹ công khai can thiệp thẳng vào cuộc chiến tranh, hà hơi tiếp sức cho
Pháp với ý đồ chuẩn bị điều kiện tiến tới thay thế Pháp…”. Và vì vậy, khi thực
dân Pháp thất bại trong chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ đã “…nhảy vào miền
Nam Việt Nam, thẳng tay hất cẳng Pháp, dựng lên chính quyền tay sai, lập ra
một quân đội đánh thuê do Mỹ điều khiển, dìm phong trào yêu nước của dân ta
trong máu lửa…” [2, 85].
Thật vậy, đế quốc Mỹ lợi dụng sự suy yếu của Pháp đã hất cẳng tên thực
dân cáo già, độc chiếm miền Nam, áp đặt ách nô dịch thực dân kiểu mới nhằm
chia cắt đất nước ta một cách lâu dài. Âm mưu cơ bản của chúng là thôn tính
miền Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự
tiến lên đánh miền Bắc, đẩy lùi hệ thống chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, miền
Nam Việt Nam sẽ trở thành môi trường thí nghiệm các học thuyết chiến tranh
xâm lược kiểu mới của Mỹ. Để biến âm mưu đó thành hiện thực, đế quốc Mỹ đã
thẳng tay đàn áp, khủng bố, đánh phá cách mạng Việt Nam, giết hại những
người kháng chiến và nhân dân yêu nước. Chúng thi hành luật 10/59 tăng cường
tố cộng, diệt cộng, lê máy chém khắp miền Nam, gây bao cảnh đau thương mất
mát. Điều này đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân ta.
Thực tiễn đẫm máu và nước mắt của cách mạng miền Nam sau những
năm 1954 – 1959 đòi hỏi Đảng ta phải tìm ra con đường để đưa cách mạng miền
Nam qua khỏi vòng nguy biến và phát triển đi lên. Dân tộc Việt Nam không còn
con đường nào khác là phải đứng lên đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải
phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước với tinh thần “Cả nước
chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất
nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc
lập cho Tổ quốc.” [2, 87].
Trước tình hình đó, ngày 13 tháng 01 năm 1959, Ban chấp hành Trung
ương Đảng họp hội nghị mở rộng lần thứ 15. Nghị quyết 15 khẳng định: “Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là dùng bạo lực, theo tình
hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì đường lối dùng bạo lực là:
lấy sức mạnh quần chúng, dựa vào sức mạnh chính trị của quần chúng là chủ
yếu kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc,
dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân…Nhiệm vụ cơ bản là giải
phóng miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân kiên quyết đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài
Ngô Đình Diệm tay sai đế quốc Mỹ…” [8, 56].
Nghị quyết 15 của Trung Ương Đảng với việc nhấn mạnh cách mạng
miền Nam phải bằng bạo lực quần chúng chống lại chế độ độc tài phát xít Ngô
Đình Diệm đã đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của cách mạng và của nhân dân
cả nước, đặc biệt là của nhân dân miền Nam. Nhưng miền Nam sau hiệp định
Giơnevơ chỉ có lực lượng chính trị. Như vậy, miền Nam sẽ đấu tranh vũ trang
như thế nào? Một trong những nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ là nhanh chóng
mở con đường hành lang Bắc – Nam để sự lãnh đạo của Đảng từ Trung Ương
thông suốt về tận chiến trường Nam Bộ, để tăng cường chi viện sức người, sức
của từ miền Bắc vào cho cách mạng miền Nam.
Vì vậy, đầu tháng 5/1959, Bộ Chính trị đã giao cho Quân ủy Trung ương
nghiên cứu tổ chức một đoàn giao thông quân sự đặc biệt, mở một tuyến giao
thông và vận tải để đưa cán bộ, vũ khí và những hàng hóa cần thiết vào Nam.
Chỉ thị của Bộ Chính trị ghi rõ: “Đây là một việc lớn, có ý nghĩa chiến lược,
quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc”. Tuy
nhiên, vì xu hướng của những nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ là chung sống
hòa bình, nên việc mở đường và đưa lực lượng vào Nam chiến đấu là chuyện rất
tế nhị. Do đó, chỉ thị của Bộ Chính trị còn căn dặn: “Mở đường và tổ chức vận
tải từ miền Bắc vào miền Nam phải tuyệt đối bí mật, an toàn.”[24, 473].
Đến ngày 19 tháng 05 năm 1959, Quân ủy Trung ương quyết định thành
lập Đoàn 559 (tiền thân của Binh đoàn Trường Sơn) có nhiệm vụ mở con đường
này trên cơ sở lực lượng của đoàn giao thông quân sự đặc biệt đó. Các đại biểu
chiến trường, đồng bào chiến sĩ vô cùng xúc động trước quyết định mở tuyến
chi viện từ Bắc vào Nam. Đoàn 559 đã dựa vào cơ sở những con đường giao
liên ở vùng rừng núi các tỉnh miền Tây được thiết lập trong những năm kháng
chiến chống Pháp và duy trì từ khi có hiệp định Giơnevơ đến nay để khởi đầu
thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Con đường vận tải kỳ diệu đã bắt đầu như
thế. Con Đường 559 – Đường Trường Sơn được hình thành như một sự tất yếu
trong cuộc chiến đấu bảo vệ chính nghĩa và con đường ấy đã làm nên những kỳ
tích có một không hai.
1.3 Quá trình xây dựng và mở rộng Đường Trường Sơn (1959-1975)
Ngược dòng lịch sử thì tại Trường Sơn đã có sẵn những con đường xuyên
sơn Nam- Bắc và Đông- Tây mà vua chúa thời xa xưa đã sử dụng như các con
đường đánh úp đối phương “ Lịch sử có ghi chép rằng, vào thế kỷ thứ 10, vua
Lê Đại Hành đem quân đánh Chiêm Thành cũng dùng thượng đạo Trường Sơn
vào đánh Quảng Nam là thủ phủ vua Chiêm. Dân Chiêm phải kéo vào rừng núi
ẩn nấp, đời này qua đời nọ lập thành từng bản, từng châu liên lạc với nhau qua
các nẻo đường xuyên sơn... Rồi đời Tây Sơn, danh tướng Trần Quang Diệu đã
có công khai phá mở rộng thêm các thượng đạo. Đường này từ thượng du Bình
Định thông suốt tới thượng du Nghệ An, rồi lại kéo dài tới ranh Khánh Hòa,
Phú Yên để xuyên thẳng vào đất Gia Định. Người Pháp sau này có tu bổ lại con
đường mà trước kia Trần Quang Diệu đã khai phá và đặt tên thành đường Cái
Quang số 14 hiện vẫn còn thấy ghi trên bản đồ. ” [6, 24-25].
Ban đầu đường Trường Sơn mới chỉ là các lối mòn theo những dấu vết tự
nhiên trong rừng sâu núi thẳm. Một số phần của đường Trường Sơn vốn đã tồn
tại từ hàng thế kỷ dưới hình thức các con đường mòn sơ khai dành cho việc giao
thông buôn bán trong vùng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các con
đường mòn xuyên Bắc Nam trên Trường Sơn đã hỗ trợ đắc lực cho kháng chiến
“ Theo đường mòn Trường Sơn, nhiều đoàn cán bộ vào tăng cường khu V, Nam
Bộ…” [18, 36].
Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ những con đường mòn sơ khai ấy,
với ý chí và quyết tâm vì miền Nam ruột thịt, vì độc lập dân tộc và thống nhất
Tổ Quốc quân và dân ta đã mở rộng thành hệ thống những con đường ngang,
dọc nối liền Miền Bắc với Miền Nam, trở thành một trong những yếu tố quyết
định cho thắng lợi của cuộc kháng chiến gian khổ này.
* Giai đoạn 1959 – 1964
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi
thành lập Đoàn 559, tuyến giao thông vận tải quân sự đường bộ được triển khai.
Lực lượng ban đầu gồm một tiểu đoàn giao liên D301 với 440 người, đoàn
trưởng là Thượng tá sau là Thiếu tướng Võ Bẩm.
Đoàn 559 dưới chỉ huy của đồng chí Võ Bẩm đã xác định rõ tầm quan
trọng trong việc mở đường Trường Sơn, tổ chức chi viện cho chiến trường miền
Nam đó là nhiệm vụ vừa vận chuyển vừa mở đường hành quân. Đoàn 559 đã cụ
thể hóa những kế hoạch và trong năm 1959 tổ chức thiết lập tuyến hành lang nối
liền thông tin liên lạc vận chuyển gấp một số hàng quân sự thiết yếu theo yêu
cầu của chiến trường.
Buổi đầu, để mở đường chúng ta phải vượt qua nhiều núi cao hiểm trở,
vượt qua nhiều sông, suối và qua cả hệ thống đồn, bốt của địch. Chủ trương của
ta thời gian đầu là: “ Tuyến giao liên vận tải quân sự cơ bản sẽ được mở dựa
trên tuyến giao liên Thống Nhất, với nguyên tắc là mở đường mới nhưng vẫn
giữ được cơ sở cách mạng nơi tuyến đường đi qua ” [13, 524]. Sau một tháng
học tập sắp xếp tổ chức quán triệt thực hiện tình hình nhiệm vụ, Đoàn triển khai
công tác vừa mở rộng căn cứ bàn đạp vừa phát triển cơ sở vừa mở đường hành
lang. Lực lượng được chia làm hai mũi để phát triển cơ sở, mở rộng đường vào
Nam: một mũi chủ yếu do đồng chí Trần Quang Sang phụ trách từ căn cứ Bắc
Nam mở đường qua cao nguyên Plây Tô vượt lộ 8 tiến về Đồng Nai Thượng tìm
bắt liên lạc với bộ phận C200 của Đông Nam Bộ mở đường từ chiến khu Đ ra;
một mũi do đồng chí Phùng Đình Ấm phó đoàn B90 phụ trách từ căn cứ Bắc
Nam Nung phát triển qua vùng ba biên giới vùng tiếp giáp của Trung Bộ Nam
Bộ và Đông Bắc Campuchia mở đường từ chiến khu Đ ra.
Ngày 30 tháng 10 năm 1960, mũi mở đường phía Đông đã mở được liên
lạc với tổ mở đường từ chiến khu Đ ra tại vàm Đắc tít sông Đồng Nai thượng.
Ngày 4 tháng 11 năm 1960, mũi mở đường thứ hai ở phía Tây cũ bắt liên lạc
được tổ mở đường của lực lượng vũ trang tỉnh Bình Phước tại cây số 4 đường
Đắc Song – Gia nghĩa của quốc lộ 14 kéo dài. Từ đó chấm dứt tình trạng chiến
trường bị chia cắt nối liền Nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ. Từ đây đường
Trường Sơn ngày càng được xây dựng và mở rộng nhiều hơn.
Đầu năm 1962, tuyến hành lang 559 có đoạn phía Nam giới tuyến tạm
thời đi xuyên qua vùng kiểm soát của địch. Vì vậy, sau khi phát hiện, chúng đã
tập trung quân càn quét chà đi xát lại gây trở ngại cho bộ đội ta. Phát hiện sự
phát triển mới của tuyến chi viện chiến lược, đế quốc Mỹ ráo riết tiến hành
nhiều hoạt động ngăn chặn. Máy bay Mỹ trinh sát tuyến đường suốt ngày đêm,
kết hợp thả thám báo biệt kích dò la chỉ điểm. Các cuộc đánh bom phá đường và
săn đuổi đội hình xe bằng máy bay từ khu vực Đường 9 trở ra cũng tăng dần,
đặc biệt tập trung ở một số đầu mối quan trọng hoặc hiểm yếu như Tà Khống,
Mường Phin, Pác Pha Năng, Pha Nộp, Ba Na Phao... hình thành các trọng điểm
đánh phá ngày càng ác liệt.
Ðược sự nhất trí giữa hai Ðảng, hai nhà nước Việt – Lào, Quân ủy Trung
ương giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh quân khu 4 và Ðoàn 559 phối hợp mở
tuyến hành lang mới, vượt đỉnh Trường Sơn sang đất bạn để cùng lúc chi viện
cho chiến trường Nam Lào và chiến trường miền Nam nước ta. Từ cuối năm
1962, tuyến đường mở trên đất Lào được gọi là Trường Sơn Tây, tuyến đường
trên đất Việt gọi là Trường Sơn Ðông. Phương thức vận tải lúc đầu chủ yếu là
gùi, gánh, vác riêng tuyến Trường Sơn Tây có thể dùng xe đạp thồ. Tuyến hành
lang 559 đã phát triển nhanh chóng các trục dọc, ngang, nối Trường Sơn Tây
với Trường Sơn Ðông, dẫn tới các vùng căn cứ của quân ta ở miền Tây Bình Trị
Thiên và các tỉnh thuộc Khu 5 với chiều dài tổng cộng 20.000 km, chưa kể
chiều dài đường ống xăng dầu và đường dây thông tin.
Đến năm 1964, hệ thống đường Trường Sơn phát triển thành một mạng
lưới phức tạp của các con đường đất (một số nơi rải đá hoặc lót ván gỗ ) rộng
khoảng 5,5m gồm đường cho người đi bộ và xe đạp thồ, bãi đỗ xe tải; bên cạnh
đó còn có kho chứa, bãi chứa hàng, doanh trại, bệnh viện, và các cơ sở vật chất
khác. Tất cả được che dấu khỏi sự quan sát từ trên không bằng một hệ thống
ngụy trang tự nhiên và nhân tạo không ngừng được mở rộng và củng cố.
Như vậy, từ những ngày soi đường âm thầm, lặng lẽ giữa mùa mưa năm
1959, những người lính Trường Sơn đã từng bước nghiên cứu, nắm bắt quy luật
đánh phá ngăn chặn của kẻ thù, nghiên cứu điều kiện tự nhiên núi rừng Trường
Sơn. Chính tinh thần yêu nước, niềm tin vào cách mạng, ý chí vượt qua khó
khăn, gian khổ của người lính Trường Sơn đã tạo nên thắng lợi bước đầu hết
sức quan trọng này. Với những cố gắng đó, Tổng Quân ủy – Bộ Quốc phòng
trong dịp Tết năm 1961 đã biểu dương thành tích cho Đoàn 559: “ Các đồng chí
đã đảm nhận một nhiệm vụ vinh quang, góp phần cống hiến rất cụ thể vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc...Chúng ta tin tưởng rồi đây dù khó khăn
gian khổ với quyết tâm ngày càng được củng cố, ý chí ngày càng cao, chúng ta
sẽ vượt qua tất cả, bắt đỉnh Trường Sơn phải cúi đầu, Mỹ - Diệm phải khuất
phục..” [13, 540].
* Giai đoạn 1965 – 1968
Mùa mưa hàng năm làm ảnh hưởng tới các hoạt động vận tải của đường
Trường Sơn và cũng gây khó khăn cho các chiến dịch ném bom của đế quốc
Mỹ. Ngoài ra, sương mù buổi sớm và khói do tập tục đốt rẫy của dân cư thiểu
số cũng cản trở việc ném bom của kẻ thù. Nắm được những mặt thuận lợi, Đảng
Cộng sản Việt Nam triển khai kế hoạch tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh tuyến
đường Trường Sơn.
Đầu năm 1965, trước nhu cầu vận chuyển vào chiến trường ngày càng
lớn, tổ chức và phương thức vận chuyển cũ không còn thích ứng nữa. Cuộc
chiến đấu ở chiến trường đòi hỏi phải thay đổi phương thức hoạt động, phải
chuyển lên cơ giới mới có thể vận chuyển khối lượng lớn vào các chiến trường
xa, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các chiến trường.
Tháng 4 năm 1965, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 54/QUTƯ
nâng quy mô tổ chức của Đoàn 559 từ tương đương cấp sư đoàn lên thành
tương đương cấp quân đoàn để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới1. Lúc này,
Đoàn 559 có ba lực lượng chính là: lực lượng mở đường mới, giữ gìn và sửa
chữa đường cũ; lực lượng vận chuyển và giữ kho; lực lượng bảo vệ. Ngoài ra
còn có các lực lượng bảo đảm như thông tin, quân y, sửa chữa... Các lực lượng
đó được huy động từ quân đội, Bộ Giao thông vận tải và dân công địa phương
các tỉnh. Tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ huy thống nhất của Đảng ủy và
Bộ tư lệnh 559. Nhiệm vụ chủ yếu của Bộ tư lệnh 559 là mở đường và tổ chức
vận chuyển chi viện cho các chiến trường miền Nam và Hạ Lào, đồng thời còn
có nhiệm vụ bảo đảm vật chất và an toàn cho các lực lượng hành quân, bảo vệ
hành lang thang địch tập kích, biệt kích bằng đường bộ và đường không, phối
hợp và giúp đỡ các địa phương củng cố vùng giải phóng ở dọc hành lang. Lúc
bấy giờ, Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính
ủy Đoàn 559. Đồng chí Phan Trọng Tuệ đã trở thành vị Tư lệnh đầu tiên của
Đoàn 559 cấp quân đoàn.
Việc mở rộng quy mô vận tải cơ giới trên hệ thống đường mòn Hồ Chí
Minh với các tuyến phát triển sâu sang đất bạn Lào là một chủ trương táo bạo,
đúng đắn và kịp thời lúc bấy giờ.
1
Cấp Sư đoàn (tương đương cấp Đại đoàn): khoảng 10.000 người
Cấp Quân đoàn: khoảng 33 đến 45 ngàn người.
Cuối năm 1965, Đại tá Hoàng Văn Thái được cử làm Tư lệnh và Đại tá
Vũ Xuân Chiêm được cử làm Chính ủy Đoàn 559. Đến cuối năm 1966, Đại tá
Đồng Sĩ Nguyên được cử làm Tư lệnh Đoàn 559.
Nhằm tăng thêm tính vững chắc cho việc hoàn thành kế hoạch chi viện
trong năm, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đề nghị Quân ủy Trung ương và Bộ
Quốc phòng cho mở tuyến vận tải thô sơ xuyên từ ngã ba biên giới qua Tây
Nguyên để chuyển vũ khí cho Nam Bộ đề phòng tình hình chính trị ở Cam-puchia còn khó khăn và tăng cường lực lượng mở nhanh đường xe cơ giới nhẹ có
trọng tải khoảng 500kg từ A Túc vào Bù Lạch để tăng khả năng bảo đảm cho
hướng trọng điểm Khu V. Kế hoạch mở đường từ A Túc đi Bù Lạch được Bộ
chấp nhận và chỉ thị phải làm gấp để kịp sử dụng trong mùa khô 1967. Mùa khô
năm 1966 – 1967, các sở chỉ huy của tuyến đường Trường Sơn được chuyển ra
gần đường, các lực lượng phòng không, công binh đóng sát đường để hỗ trợ kịp
thời và hiệu quả hơn cho lực lượng vận tải chủ công. Nhiều tuyến đường phụ,
đường vòng được mở thêm để đảm bảo thông đường cho xe chạy.
Tính đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã lên 2.959 km đường ô tô,
trong đó có 275 km đường chính, 576 km đường vòng, và 450 đường vào cùng
các kho chứa. Đường hành quân từng bước được tu sửa dễ đi hơn. Mặt đường
mở rộng từ 1m đến 1,2m, phát bỏ các chướng ngại trên đường cho ngắt bỏ
những đoạn đi vòng cho đường ngắn bớt. Các chỗ dốc cao tìm cách sửa đi cho
đỡ dốc và tạo thành bậc. Các cầu qua suối đều làm mặt rộng, có phên lát cho bộ
đội đi nhanh.
Tháng 3-1968, giặc Mỹ tăng cường ném bom nhằm chặt đứt đường
Trường Sơn, chặn đường vận chuyển của ta từ miền Bắc vào chiến trường miền
Nam. Lúc này ở Trường Sơn, gần nửa tháng trời Đoàn 559 cạn xăng có lúc cả
ngàn xe vận tải phải nằm chờ. Đạn, lương thực, quân nhu không vào được chiến
trường. Thiếu gạo, thiếu muối, khẩu phần ăn của chiến sĩ chỉ còn 2 lạng trong
ngày. Lệnh của trên truyền xuống nhiệm vụ đặc biệt lúc bấy giờ là bằng mọi giá
phải đưa số xăng dầu cần thiết vượt Trường Sơn để giao cho Đoàn 559. Thực
hiện chỉ thị đó, một đường ống dẫn xăng dầu từ Bắc vào Nam hay còn gọi là
đường Trường Sơn trong lòng đất được xúc tiến xây dựng song song với đường
Trường Sơn trên mặt đất.
* Giai đoạn 1969 – 1975
Cuối năm 1968 đầu năm 1969, có khoảng 43.000 người Việt và Lào đã
tham gia điều khiển, nâng cấp, mở rộng hệ thống đường Trường Sơn. Năm
1970, Đoàn 559 được nâng lên ngang mức quân khu. Chỉ huy thời kỳ này là Đại
tá Đồng Sỹ Nguyên - Tư lệnh và Đại tá Vũ Xuân Chiêm - Chính ủy. Linh cảm
về một sự kiện lớn sẽ bùng nổ trên chiến trường, toàn tuyến bừng bừng khí thế.
Cán bộ, chiến sĩ nô nức lập công với khẩu hiệu: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt.
Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, công binh khẩn trương mở rộng và
kéo dài cầu đường, pháo cao xạ đánh mạnh và hiệu quả, đội hình xe đột kích
nhanh. Nhiều cán bộ, chiến sĩ các binh chủng lập thành tích xuất sắc trở thành lá
cờ đầu toàn tuyến “Tiêu biểu về thành tích vượt cung tăng chuyến trong lực
lượng vận tải ô tô có các đồng chí Trần Công Nhỡn, Đỗ Văn Chiến, Hà Văn Tơ,
Khúc Văn Lượng, Lê Quang Biện, Kim Ngọc Quản. Tiêu biểu về bám đường,
bám xe, khắc phục nhanh sự phá hoại của địch trong lực lượng công binh là
các đồng chí Vũ Tiến Đề, Tô Quang Lập, Nguyễn Văn Tửu. Về thành tích quay
nòng pháo theo bánh xe lăn, bắn rơi máy bay địch bao vệ an toàn đội hình vận
chuyển và trọng điểm trong lực lượng cao xạ có đồng chí Trần Xuân Sinh, Phan
Văn Nhật. Về thành tích đưa quân đi, đón thương binh về an toàn trong lực
lượng giao liên có đồng chí Nguyễn Văn Sinh ” [26].
Năm 1971, Đại tá Đặng Tính được cử làm Chính ủy. Binh đoàn được tổ
chức lại thành 5 bộ tư lệnh khu vực ngang cấp sư đoàn là: 470, 471, 472, 473,
và 571. Lực lượng binh đoàn bao gồm 4 trung đoàn vận tải, 2 trung đoàn đường
ống dẫn dầu, 3 trung đoàn pháo phòng không, 8 trung đoàn công binh, và Sư
đoàn 968 Bộ binh. Đến cuối năm, đoàn 559 đã có 27 binh trạm.
Cũng trong năm 1971, đường Trường Sơn dưới tán rừng bắt đầu được
xây dựng.
Đến tháng 2 năm 1972, một tuyến đường dài 800 km hoàn thành và bắt
đầu đưa vào sử dụng. Trên tuyến này, xe chạy dưới tán rừng già, chạy hoàn toàn
vào ban ngày để tránh bị máy bay phát hiện. Xe chạy theo đội hình trung đoàn
liền trên toàn tuyến chứ không chạy theo chặng nên thời gian giảm được từ 10
đến 15 ngày.
Đến năm 1973, xe tải có thể chạy suốt dọc đường mà không ra khỏi mái
ngụy trang, ngoại trừ khi đi qua suối cạn hay vượt suối qua các ngầm (loại cầu
được xây ngay dưới mặt nước). Lúc này, hệ thống đường Trường Sơn bao gồm
một con đường rải sỏi và đá vôi rộng hai làn xe, chạy từ các cửa khẩu ở Bắc
Trung Bộ tới dãy Chu Pông ở miền Nam Lào.
Đến tháng 7 năm 1973, Binh đoàn Trường Sơn được tổ chức lại, nâng lên
cấp cao hơn, các bộ phận cấp trung đoàn được chuyển lên cấp sư đoàn, và các
binh trạm được nâng lên cấp trung đoàn. Bộ Tư lệnh Trường Sơn lúc này có tám
sư đoàn gồm: “ hai sư đoàn ô tô vận tải 571, 471; bốn sư đoàn công binh: 470,
472, 473, 565; sư đoàn phòng không 377, Sư đoàn bộ binh 968... ” và một số
trung đoàn trực thuộc gồm: “ 6 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn bộ binh, 4
trung đoàn đường ống xăng dầu, 2 trung đoàn cầu, 2 trung đoàn thông tin, 1
trung đoàn vận tải đường sông, 1 trung đoàn giao liên cơ giới, 1 trung đoàn
kho, 1 trung đoàn huấn luyện, an dưỡng...” [28]. Lực lượng thanh niên xung
phong hoạt động trên tuyến lên đến gần 10 nghìn nam nữ thanh niên. Chỉ huy
thời kỳ này là Đại tá Đồng Sĩ Nguyên - Tư lệnh và Đại tá Hoàng Thế Thiện Chính ủy.
Năm 1974, Đại tá Đồng Sĩ Nguyên được thăng vượt cấp lên Trung tướng,
Đại tá Hoàng Thế Thiện được thăng cấp Thiếu tướng. Thời gian này, đã có 4 làn
đường hoàn chỉnh từ Tây Nguyên đến tận tỉnh Tây Ninh ở phía tây bắc Sài Gòn.
Với việc xây dựng một bước cơ bản đường đông Trường Sơn và củng cố trục
đường tây Trường Sơn đã cho phép bộ đội Trường Sơn vận chuyển liên tục cả
hai mùa mưa nắng năm, đồng thời rút thời gian chạy xe trước đây mất 22 đến 28
ngày nay xuống 7 đến 10 ngày. Mặt khác có thể bảo đảm cơ động cho cán loại
binh khí kỹ thuật xe tăng, pháo hạng nặng và bảo đảm cơ động đội hình cấp
quân đoàn.
Đến mùa hè năm 1974, đường đông và tây Trường Sơn đã hình thành một
hệ thống liên hoàn, vững chắc. Đồng thời, tuyến hành lang đông - tây Trường
Sơn đã hình thành một căn cứ hậu cần chiến lược rộng trên 130 nghìn cây số
vuông, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường nam Đông
Dương, là chỗ dựa vững chắc cho các chiến trường.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đại tá Lê
Xy được cử làm Chính ủy, đường Trường Sơn lúc này gồm có 5 hệ thống
đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Đông với Tây Trường Sơn, vươn tới
các chiến trường, với tổng chiều dài gần 2 vạn km đường ô tô, 1.400 km đường
ống dẫn xǎng dầu, 3.140 km đường kín cho xe chạy ban ngày và hàng ngàn cầu,
cống ngầm.
Tóm lại, đường Trường Sơn được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh vào
ngày 19/5/1959. Con đường này khởi đầu từ huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An vắt
qua dãy núi Trường Sơn, chạy suốt đến Chơn Thành. Do hệ thống đường được
hình thành trên dãy núi Trường Sơn nên cứ 200 mét có một dốc cao, 15 mét có
một đèo cao, 200 mét có dòng suối nhỏ, 2.000 mét có dòng suối lớn, 20 kilômét
có một dòng sông nhỏ. Đường Trường Sơn- Đường 559 được xây dựng, phát
triển và đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong
điều kiện như thế. Qua thời gian, hệ thống đường trường Sơn đã lập nên những
kỳ tích chiến công, gớp phần vào thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Đường Trường Sơn đã trở thành huyền thoại của cuộc chiến tranh
nhân dân chứa đựng những sự tích thần kỳ với những cuộc hành trình đầy máu
lửa và bão tố của rừng núi, với những cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh trên con
đường vĩ đại nối liền Bắc – Nam ấy.
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG CHI
VIỆN TRÊN ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN GIAI ĐOẠN 1965 – 1975
Trong suốt 16 năm (1959 – 1975), hàng triệu người con Việt Nam đã
tham gia mở đường, vận chuyển hàng hóa, vũ khí tiếp sức cho chiến trường
miền Nam. Những con người ấy đã sống, đã lao động, đã chiến đấu và anh dũng
hy sinh để làm nên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Bằng nhiều hình thức
vận tải từ đơn giản gùi, thồ dần phát triển đến hoạt động xe cơ giới, đường
Trường Sơn đã trở thành cầu nối giữa căn cứ địa miền Bắc với miền Nam, đảm
bảo chi viện kịp thời, ngày càng cao sức người, sức của cho chiến trường miền
Nam để đánh thắng Mỹ, thống nhất đất nước.
2.1 Khái quát hoạt động của đường Trường Sơn giai đoạn 1959 –
1964
Trong thời gian đầu, hoạt động của đường Trường Sơn hoàn toàn hành
quân bộ, mỗi ngày đi một đoạn đường từ trạm giao liên này tới trạm giao liên
tiếp theo. Do thời gian này rừng núi còn hoang sơ, các tuyến đường không rõ lối
nên việc vận chuyển chủ yếu được thực hiện bằng gùi và thồ.
Ngày 13 tháng 8 năm 1959, chuyến hàng đầu tiên của Đoàn 559 chính
thức vượt Trường Sơn. Chuyến đi đầu tiên thắng lợi hàng vào đích an toàn.
Hàng chi viện từ miền Bắc được chuyển vào chiến trường gồm 32 gùi hàng.
Phát huy thắng lợi chuyến đi đầu tiên, đồng thời tranh thủ yếu tố bí mật, bất
ngờ, toàn Đoàn dốc sức chuyển hàng và dẫn quân qua tuyến đẩy nhanh tốc độ
vận chuyển giao cho khu 5 và Trị - Thiên. “Đến hết tháng 8 năm 1959, Đoàn
559 đã chuyển giao Liên khu 5 được 60 súng trung liên, 100 súng tiểu liên, súng
trường và hàng nghìn viên đạn súng bộ binh.” [9, 39].
Kết thúc năm 1959, Đoàn 559 đã chuyển vào Tà Riệt – Pa Lin 1.667 khẩu
súng bộ binh, hàng trăm nghìn viên đạn, súng trường, tiểu liên, súng ngắn…và
một số quân dụng thiết yếu khác; trong đó, súng ngắn 850 khẩu, 50.000 viên
đạn; súng tiểu liên 712 khẩu, 100.000 viên đạn; 72 khẩu trung liên, 12.000 viên
đạn; súng giảm thanh 21 khẩu, 4.000 viên đạn; 750 dao găm, 40 ống nhòm, 65
địa bàn, 188kg chất nổ TNT kèm hoả cụ, 20 bộ bản đồ Liên khu 5 giao cho Liên
khu 5. Một phần trong số đó được Liên khu 5 chuyển tiếp vào phía trong để
trang bị cho các đơn vị vũ trang tự vệ vừa thành lập ở Tây Nguyên và miền tây
các tỉnh Trung bộ. Ngoài số hàng vận chuyển qua tuyến, Đoàn 559 còn tạo chân
hàng ở hậu cứ tiểu đoàn 301 và đoàn 603 một khối lượng khá lớn.
Cũng theo tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn, đến cuối năm
1959, đã có 542 cán bộ, chiến sĩ gồm phần lớn là cán bộ chỉ huy cấp trung đội,
đại đội, cán bộ kỹ thuật quân khí vào làm nhiệm vụ ở miền Nam.
Kết quả năm đầu tiên vận tải được đánh giá cao tuy khối lượng hàng đưa
vào miền Nam chưa nhiều nhưng trong hoàn cảnh ta bị địch săn lùng quyết liệt
như thế thì đưa được ngần ấy hàng cũng là vô cùng quý giá. Đặc biệt là bắt đầu
đảm bảo an toàn cho các đoàn cán bộ tới các chiến trường.
Sang năm 1961, các tuyến mới mở ở nam đường số 9 có rất nhiều đoạn
khá bằng phẳng, bộ đội ta chỉ cần mở rộng mặt đường và gia cố thêm là có thể
sử dụng để chuyển hàng. Một số chặng đường có thể dùng ngựa và voi để thồ
hàng, có những đoạn lại sử dụng xe đạp thồ nhưng cũng có chặng chỉ sử dụng
được sức người. Việc sử dụng voi, ngựa chuyển hàng trên những cung đường
núi hiểm trở tuy có kết quả nhất định, nhưng tốc độ chậm, khối lượng hạn chế;
đặc biệt, việc nuôi dưỡng voi, ngựa khá tốn kém, phức tạp nên chỉ hoạt động
được trong một thời gian ngắn “Việc di chuyển bằng voi, ngựa trên chặng
đường hàng ngàn cây số có lắm chuyện phải lo…Thớt voi đầu đàn đổ bệnh, hai
thớt còn lại đều ốm lừng khừng. Đàn ngựa bị đau què quá nửa. Đoàn 559 lại
phải sử dụng quân gùi cõng hàng.” [20, 127].
Ngày 9 tháng 8 năm 1964, Trung đoàn 98 vận tải Anh hùng đã bắt đầu
thực hiện mở đường cơ giới lên Trường Sơn. Nhưng do là lần đầu tiên, chưa hội
tụ đủ điều kiện để đối phó với cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ nên