Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

ĐẢNG bộ VĨNH LONG LÃNH đạo QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa NÔNG NGHIỆP và NÔNG THÔN GIAI đoạn 2001 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÒA TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẢNG BỘ VĨNH LONG LÃNH ĐẠO QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN
2001 – 2010

Giáo viên hướng dẫn:
Lê Thị Út Thanh

Sinh viên thực hiện:
Đỗ Thị Xuân
MSSV: 6086488

Năm học 2011 -2012


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ................................................................. 6
5. Kết cấu luận văn........................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 7
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn ............................................................................... 7
1.1 Các khái niệm .......................................................................................... 7


1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn................................................................................................................ 8
1.3 Quan điểm, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn ..................................................................................... 12
Chương 2. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long trong thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn giai đoạn
2001-2010 .......................................................................................................... 21
2.1 Khái quát chung về tỉnh Vĩnh Long và đặc điểm tình hình sản xuất
nông nghiệp, nông thôn ở Vĩnh Long ................................................................. 21
2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn (giai đoạn 2001-2010).................................... 23
2.2.1.Thực trạng nông nghiệp, nông thôn Vĩnh Long (1996 -2000) ............ 23
2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ Vĩnh Long về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn ............................................................................. 25
2.3 Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long trong thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (giai đoạn 2000-2010) ......... 31
2.4 Kết quả thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn ở Vĩnh Long giai đoạn 2001 -2010 ............................................................. 34.
1


2.4.1 Thành tựu .......................................................................................... 34
2.4.2 Hạn chế .............................................................................................. 38
2.5 Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn trong thời gian tới ................................. 43
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 48
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 54

2



3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nông nghiệp, nông thôn luôn là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia, kể cả
những nước đã đạt đến trình độ phát triển cao. Đó là khu vực sản xuất chủ yếu,
đảm bảo việc làm và đời sống cho xã hội, là thị trường rộng lớn cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế, nguồn nhân lực và nguồn tích
luỹ cho công nghiệp hoá, phát triển kinh tế. Kinh nghiệm của Mỹ, Nhật Bản đã
đạt đến trình độ cao, cũng như các nước đã trở thành nước công nghiệp mới,
trong những thập niên gần đây vẫn rất coi trọng nông nghiệp, nông thôn. Thành
công mà họ đã đạt được là hiện đại hoá ngành nông nghiệp, cải biến cơ cấu
kinh tế nông thôn, thay đổi cơ cấu dân số nông thôn – thành thị, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn, làm
cho thu nhập kinh tế khu vực nông thôn không chênh lệch quá xa so với khu
vực đô thị. Do đó nông nghiệp và kinh tế nông thôn có điều kiện tích tụ vốn
cho quá trình công nghiệp hoá.
Việt Nam là quốc gia có nhiều thế mạnh để phát triển nông nghiệp: khí
hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, đất đai màu mỡ, hệ thống sông ngòi chằng chịt...đây
là điều kiện thuận lợi để sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn. Con người
Việt Nam cần cù, tần tảo và có nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động nông
nghiệp. Chính nguồn lao động dồi dào cùng với tập quán sản xuất nông nghiệp
truyền thống nên các nông sản phẩm nước ta chiếm tỷ trọng cao trong các mặt
hàng xuất khẩu, đặt biệt là lúa gạo (đứng thứ hai về xuất khẩu lúa gạo chỉ sau
Thái Lan). Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa nhưng hiện tại tỷ
trọng nông nghiệp vẫn còn khá cao và hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nước
ta còn manh mún, nhỏ lẻ, lạc hậu, chưa gắn kết với thị trường... Vì thế, để đạt

mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước trước hết phải đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát huy lợi thế, tiến tới
xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh. Đó là nhiệm vụ cực
kỳ quan trọng nhưng cũng rất khó khăn, phức tạp.
Nhận thức được vị trí, vai trò của nông nghiệp và nông thôn đối với sự
phát triển bền vững của đất nước, trong chủ trương của Đảng, vấn đề này luôn
4


được quan tâm chú trọng và ngày càng hoàn thiện hơn. Đặc biệt là tại Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X (2008) đã ra nghị quyết quan
trọng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm hoạch định những
bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đến năm
2020.
Là tỉnh nằm ở trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long được biết
đến như là một trong những tỉnh trọng điểm ở phía Nam về sản xuất nông
nghiệp. Hằng năm sản lượng nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long góp một phần lớn
cho sản lượng nông nghiệp cả nước nói chung. Để đẩy mạnh hơn nữa quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn tỉnh nhà, tôi đã lựa
chọn vấn đề “Đảng bộ Vĩnh Long lãnh đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2001 – 2010” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu những chủ
trương của Đảng nói chung và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nói
riêng về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; kết
quả thực hiện các chủ trương đó. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, đề
xuất những giải pháp nhằm vận dụng vào thực tiễn xây dựng nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Vĩnh Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho giai
đoạn tiếp theo.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ các khái niệm: công nghiệp hóa; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thứ hai, tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa
nông nghiệp và nông thôn.
Thứ ba, tìm hiểu quan điểm và chủ trương của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thứ tư, giới thiệu khái quát về tỉnh Vĩnh Long và đặc điểm tình
hình sản xuất nông nghiệp, nông thôn.

5


Thứ năm, làm rõ những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thứ sáu, tìm hiểu quá trình chỉ đạo của Đảng bộ trong thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn và từ đó rút ra một số
bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là tìm hiểu về vấn đề công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở Vĩnh Long dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Không gian ở Vĩnh Long, thời gian
từ năm 2001 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để thực hiện đề tài này tác giả kết
hợp nhiều phương pháp: Phương pháp lịch sử, phương pháp logíc. Ngoài ra tác
giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn

dịch...
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
kết cấu thành 2 chương, 8 tiết.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP
VÀ NÔNG THÔN
1.1 Các khái niệm:
* Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa mang đến cho nền kinh tế một nền tảng công
nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, thúc đẩy sản xuất đạt năng suất,
chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, tác động mạnh mẽ quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Công nghiệp hóa có quá trình lịch sử lâu dài
trong những điều kiện khác nhau, theo những mô hình khác nhau. Tuy nhiên
trong bối cảnh mới hiện nay thì khái niệm công nghiệp hóa được hiểu là quá
trình phát triển toàn diện cả về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trang bị máy móc
công nghệ hiện đại, cũng như phương pháp quản lý tiên tiến và mọi hoạt động
sản xuất trong nền kinh tế dù sản xuất vật chất hay dịch vụ, nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất, đưa tốc độ phát triển nhanh và bền vững về giá trị tăng thêm
(GDP). Như vậy, thực chất công nghiệp hóa là quá trình chuyển lao động thủ
công thành lao động kỹ thuật trên quy mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân, là tạo
lập cơ sở vật chất – kỹ thuật hạ tầng vững chắc, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thích ứng với mỗi trình độ của cơ sở vật chất kỹ thuật đã đạt được và
thích ứng với hình thức tổ chức sản xuất mới.
* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

Từ sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, Đảng
ta tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1/1994) đã khẳng định công
nghiệp hóa ở nước ta hiện nay tất yếu phải gắn liền với hiện đại hóa và chỉ rõ:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao” [20, tr.554].
7


* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn:
Theo quan điểm của Đảng ta, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế – xã hội nông thôn, biến lao động thủ công
thành lao động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn; là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng
các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm năng tạo ra
năng xuất lao động, hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất trong nông nghiệp và
nông thôn, từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế – xã hội nông thôn tiến gần đến thành
thị. Trong đó công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao
trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất
nông nghiệp.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin về tính tất yếu thực hiện công nghiệp
hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ thực tiễn ở Việt
Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, Chủ tịch

Hồ Chí Minh chỉ ra: nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thuật để đưa Miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng
nền kinh tế mới, lấy xây dựng làm nhiệm vụ chủ chốt lâu dài.
Trong lần nói chuyện với Đảng bộ Hà Nội (6-1960), Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Muốn bảo đảm đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng công nghiệp nặng. Như thế phải vừa cải
thiện đời sống, vừa tích lũy. Cải thiện đời sống từng bước theo khả năng, đồng
thời phải tích lũy để kiến thiết” [25, tr.59].
Để thực hiện mục tiêu của công nghiệp hóa, theo Người cần có con
đường, bước đi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước nhà, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu đó là chỗ bắt
8


đầu đi của chúng ta...Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta
dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi. Dùng máy móc cả trong
công nghiệp và nông nghiệp. Máy sẽ chấp cánh cho con người, làm cho sức
người tăng gấp trăm lần, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm máy, ra
gang, thép, xăng, dầu...Đó là con đường của chúng ta, con đường công nghiệp
hóa nước nhà” [25, tr.40].
Trở lại với những luận điểm chung của C.Mác và V.I Lênin về chủ nghĩa
xã hội và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kế thừa và vận dụng sáng tạo những luận điểm đó, giải quyết mối quan hệ giữa
phát triển nông nghiệp với công nghiệp, trong đó phát triển nông nghiệp làm
nền tảng, tiền đề và tạo điều kiện cho công nghiệp cũng như các ngành kinh tế
quốc dân khác phát triển.
Như vậy, tiến hành công nghiệp hóa là yêu cầu khách quan đối với mọi

quốc gia. Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa có trở thành
hiện thực hay không lại tùy thuộc vào việc xác định con đường, bước đi thích
hợp. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin và Hồ Chí Minh, trước hết phải căn
cứ vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội cụ thể của từng nước mà có chiến
lược phát triển đúng đắn, song với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản
xuất nhỏ, cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn và lạc hậu, kinh tế tiểu nông là chủ
yếu, quá trình công nghiệp hóa thường bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn.
Đồng thời, phải nhanh chóng ứng dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ hiện đại vào việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở nhận thức về quá trình công nghiệp hóa nói chung, Hồ Chí
Minh cũng đã đưa ra quan điểm về công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn
nói riêng.
Trên thực tế, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
công nghiệp cũng như nông nghiệp đều rất nhỏ bé, lạc hậu. Do hậu quả của chế
độ cũ và của chiến tranh để lại, trong những năm đầu sống trong hòa bình bao
giờ nhân dân lao động nước ta cũng phải đương đầu với những khó khăn về cái
ăn, thậm chí phải trãi qua nạn đói không nhỏ như những năm 1955-1956. Vì
9


vậy, coi trọng phát triển công nghiệp, không thể không đồng thời coi trọng phát
triển nông nghiệp, tập trung giải quyết vấn đề lương thực. Phát triển công
nghiệp, sản xuất lương thực đủ tiêu dùng, cả hai việc đó vừa là bức thiết, vừa là
khách quan không những đối với đời sống của nhân dân mà còn đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định công nghiệp và nông nghiệp khắng khít với nhau, hỗ trợ
cho nhau cùng phát triển, coi trọng phát triển công nghiệp, đồng thời phải coi
trọng phát triển cả nông nghiệp… nông nghiệp là nền tảng của quá trình công
nghiệp hóa.
Người khẳng định: “Vì nước ta là nước nông nghiệp, mọi việc dựa vào

nông nghiệp” [25, tr.572]. Ở đây có thể hiều rằng, ở nước ta muốn phát triển
các ngành kinh tế - xã hội nói chung, tiến hành công nghiệp hóa nói riêng, thì
trước hết phải dựa vào nông nghiệp, nông thôn.
Thực tiễn ba năm khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa 1955 -1957 đã
minh chứng tính đúng đắn của quan điểm Hồ Chí Minh. Trong ba năm đầu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Bắc vừa phải khắc phục hậu quả
chiến tranh, vừa phải xây dựng cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Kết quả là:
Nhờ xác định đúng và khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là sản
xuất lương thực là nhiệm vụ trung tâm quan trọng nhất nên cuối năm 1956 đã
đẩy lùi được nạn đói, cuối năm 1957 không những sản lượng lương thực và
bình quân lương thực đầu người đã vượt qua năm 1939 là năm kinh tế Việt
Nam phát triển nhất dưới thời Pháp thuộc, mà còn khôi phục nhanh chóng
những cơ sở công nghiệp cũ bị tàn phá trong chiến tranh và xây dựng mới
nhiều công trình công nghiệp khác, đồng thời giáo dục, y tế cũng phát triển
mạnh mẽ chưa từng có trước đó. Thắng lợi của sản xuất nông nghiệp cũng góp
phần quan trọng vào việc ổn định tình hình chính trị ở nông thôn do có những
sai lầm khi tiến hành cải cách ruộng đất.
Về vai trò “cơ sở” hay nền tảng của nông nghiệp đối với quá trình công
nghiệp hóa, mà trực tiếp đối với sản xuất nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhiều lần nhấn mạnh để toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ để quán triệt thực hiện.
Chẳng hạn, trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III ngày 19-7-1960, phát
10


biểu tại Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ 6, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Nước ta là một nước nông nghiệp…muốn phát triển công nghiệp,
phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm
chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công
nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và
tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”[25, tr.180]. Trước đó, ngày 6 thàng

1 năm 1960, trong bài viết cho tạp chí Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã
hội (số ra tháng 2 năm 1960) nhân dịp 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho
việc công nghiệp hóa của nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì
công nghiệp mới có thể phát triển mạnh”[25, tr.14-15]. Đặc biệt, ngày 16-41962 phát biểu tại hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa III
Đảng Lao động Việt Nam – một Hội nghị quan trọng với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội nói chung, công nghiệp hóa nói riêng, Hồ Chí Minh đã vạch
ra những luận điểm quan trọng nhưng rất cụ thể.
Trước hết, về những điều kiện để phát triển nông nghiệp, Hồ Chí Minh
nói: “Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt”; cho phép chúng ta quanh năm trồng
trọt, thu hoạch bốn mùa, “như thế là thiên thời rất thuận lợi”; ruộng đất tuy ít,
người lại nhiều, nhưng có thể trồng xen, tăng vụ, thì một mẫu đất có thể tăng
hai; “ như thế là địa lợi rất tốt”; nông dân ta cần cù lao động, thực hiện tốt
chính sách của Đảng và Nhà nước, nếu được tổ chức chặt chẽ, đó là một lực
lượng vô cùng to lớn; đào non cũng trúc, lấp biển cũng bằng, “thế là điều kiện
nhân hòa cũng rất thuận lợi”. Người coi đây là những điều kiện xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ rằng, điều quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân
ta cần phải làm, là ra sức kết hợp và vận dụng thật khéo những điều kiện đó vào
công cuộc xây dựng kinh tế.
Về vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp đối với đời sống cũng
như sự phát triển của công nghiệp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Việt Nam có câu
tục ngữ “có thực mới vực được đạo”, Trung Quốc cũng có câu tục ngữ “dân dĩ
thực vi thiên” (dân lấy ăn làm trời). Hai câu ấy rất đơn giản nhưng đúng lẽ. Vì
vậy, muốn nâng cao đời sống nhân dân thì trước hết phải giải quyết vấn đề ăn
11


(rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải
làm thế nào cho có đủ lương thực, mà lương thực do nông nghiệp sản xuất ra.
Bác kết luận: “vì vậy, phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”[25, tr.544].

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ đặc
điểm, từ hoàn cảnh cụ thể, từ tiềm năng thế mạnh sẵn có trong nền kinh tế
truyền thống, chủ yếu và quan trọng nhất là nền nông nghiệp, và từ lực lượng
lao động hùng hậu, cần cù lao động là nông dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp
với mục đích của chủ nghĩa xã hội là từng bước nâng cao đời sống của nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động mà nông dân chiếm tuyệt đại đa số, trong
đó cơm no, áo ấm luôn là vấn đề quan trọng nhất.
Với những nhận thức đúng đắn, sâu sắc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh phải hết sức chú trọng phát triển nông nghiệp, nhất là sản xuất
lương thực, coi đó là điểm đột phá để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Làm như vậy
vừa đáp ứng được nhu cầu bức thiết trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân,
vừa tạo ra điều kiện tối cần thiết (lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, lao
động, hàng xuất khẩu, thị trường tiêu thụ hàng hóa) cho công nghiệp; đồng thời
qua đó, nhờ tác động của công nghiệp qua việc cung cấp các mặt hàng công
nghiệp (như điện, các loại máy móc và vật tư nhà nước khác) cho nông dân,
nông nghiệp cũng từng bước phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Như thế
chủ nghĩa xã hội sẽ từng bước được thực hiện.
Lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn chục năm đổi mới vừa qua đã
khẳng định rõ thêm quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò nền tảng
của nông nghiệp đối với sự nghiệp chủ nghĩa xã hội, hiện đại hóa đất nước.
Quan điểm vừa hợp lòng dân, vừa đúng quy luật và đã được Đảng, Nhà nước ta
nhận thức ngày càng sâu sắc, vận dụng ngày càng thành công trong đổi mới.
1.3 Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn.
Ở nước ta, quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với sự phát triển
nông nghiệp và nông thôn, vai trò và vị trí nông nghiệp, nông thôn luôn được
coi như một trong những điều kiện có tính chất nền tảng về kinh tế - xã hội đối

12



với ổn định và phát triển đất nước. Theo đó, vai trò của nông nghiệp và nông
thôn là:
- Cung ứng lương thực thực phẩm cho xã hội.
- Cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ.
- Cung cấp một phần tích lũy cho công nghiệp.
- Là thị trường quan trọng cho các ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn, mức sống
của người dân được cải thiện.
- Phát triển nông nghiệp nông thôn nhằm tạo môi trường xã hội lành
mạnh, những thuần phong mỹ tục, những nét văn hóa đẹp của truyền thống văn
hóa nhân văn được bảo tồn và phát huy.
- Phát triển nông nghiệp là cơ sở để ổn định kinh tế chính trị, xã hội.
Với vai trò, vị trí trọng yếu của nông nghiệp, nông thôn không chỉ có ý
nghĩa đối với việc tạo sự chuyển biến các mặt của đời sống kinh tế xã hội ở
nông thôn mà còn có ý nghĩa chung đối với toàn bộ sự phát triển của đất nước.
Thực tế cho thấy, không phải ngay từ đầu chúng ta đã nhận thức được một cách
thấu đáo mà phải trải qua quá trình trải nghiệm thực tiễn, tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận để phát triển. Thực tiễn khách quan này đòi hỏi Đảng Cộng
sản Việt Nam phải đổi mới tư duy lý luận, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thấy được tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong sự
phát triển của đất nước, Đảng ta từng bước xác định nhiệm vụ xây dựng kinh tế
nông nghiệp, nông thôn.
Tiến trình đổi mới ở Việt Nam được bắt đầu từ đột phá nông nghiệp với
chính sách cơ chế khoán, từ khoán sản phẩm trong nông nghiệp, lợi ích cá nhân
của người nông dân được coi trọng và kinh tế hộ gia đình nông dân được xác
định là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường để khơi dậy được tiềm năng sáng tạo ở nông
thôn, giải phóng mọi năng lực sản xuất, tạo động lực thực sự cho nông dân

bằng việc giải quyết hợp lý các quan hệ lợi ích trong nông nghiệp và nông thôn.
Trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, thực
13


trạng kinh tế-xã hội nông thôn đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc như: thiếu việc
làm, thu nhập thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao, chênh lệch mức sống ngày càng
tăng…là những thách thức, cản trở cho sự phát triển nhất là trong bối cảnh
cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn là vấn đề chiến lược cần được đặc biệt quan tâm như trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu: “phát triển nông-lâm-ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
để ổn định tình hình kinh tế xã hội”[14, tr.12].
Tại Hội nghị lần thứ Bảy của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X
(2008) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: nông nghiệp, nông thôn,
nông dân có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và là lực lượng quan trọng để phát triển
kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường
sinh thái. Đảng ta khẳng định, trong mối quan hệ của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn thì nông dân là chủ thể của quá trình phát triển công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Xây dựng nông thôn mới gắn với việc
xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là
căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt. Hội nghị
nhấn mạnh: “Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân…Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò to lớn
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội…Phát triển nông nghiệp, nông thôn, xóa đói, giảm nghèo,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân là nhiệm vụ chiến lược, là

cơ sở góp phần đảm bảo ổn định chính trị- xã hội, phát triển đất nước hài hoà
và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.[5, tr.111-113]
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều cơ hội cũng
như những thách thức mới. Đảng cần phải xem xét đánh giá đúng tình hình và
có những quyết sách mạnh mẽ giải quyết kịp thời những vấn đề đang đặt ra.
14


Để thực hiện tốt Nghị quyết của Đại hội X (2008) của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển cần thực hiện
chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn để chuyển từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Thực tế gần 25 năm đổi mới ở Việt Nam cho thấy tầm quan trọng của
nông nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế của cả nước. Định hướng về phát triển
nông thôn phải bắt đầu từ đổi mới nhận thức về vai trò của nông thôn theo
hướng phát triển toàn diện các ngành nghề, dịch vụ trên địa bàn nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng phát triển toàn
diện và vững chắc gắn với công nghiệp chế biến và thị trường xuất khẩu nông
sản. Do vậy, cần đổi mới quan điểm và nhận thức về vai trò và vị trí của nông
thôn trong sự nghiệp đổi mới.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới Đảng ta luôn nhấn mạnh tầm quan trọng
của nông nghiệp, nông thôn trong sự phát triển của đất nước. Và từ đó Đảng đã
đề ra những chủ trương nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) là Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới ở
nước ta. Đại hội đã tổng kết thực tiễn, khẳng định những thành tựu đã đạt được
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời chỉ rõ những yếu kém,
khuyết điểm trong chỉ đạo thực hiện đường lối của Đảng nhằm đưa nền kinh tế
- xã hội ra khỏi khủng hoảng. Đại hội chỉ rõ trong những năm trước mắt: “Phải

thật sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện cho được ba chương trình
mục tiêu lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” [13,
tr.47]. Đại hội cũng xác định những vấn đề trọng yếu về chính sách phát triển
nông nghiệp và nông thôn; chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
chính sách đất đai, chính sách đầu tư và tài chính nhằm giải phóng sức sản
xuất, phát triển sản xuất hàng hóa đáp ứng ngày càng tăng về lương thực, thực
phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản cho xuất khẩu, từng bước cải
thiện đời sống cho nông dân và xây dựng nông thôn mới. Ngày 5 tháng 4 năm
1988 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 – NQ/TW về “Đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp”, Nghị quyết này là một bước đột phá mạnh mẽ trong phát triển
15


nông nghiệp và nông thôn, giải quyết một bước vấn đề quan trọng nhất của
kinh tế là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, khẳng định tính
tự chủ của kinh tế hộ gia đình.
Kế thừa những đánh giá cơ bản về nông nghiệp, nông thôn trong quá trình
công nghiệp hóa đất nước của Đại hội VII (6/ 1991), Hội nghị lần thứ V Ban
Chấp hành Trung ương Khóa VII (6/1993) đã ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới
và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban
hành Luật đất đai xác định cho người nông dân có 5 quyền liên quan đến đất
đai đã được trao quyền sử dụng lâu dài: thừa kế, chuyển nhượng, chuyển đổi,
cho thuê, thế chấp.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khóa VII của Đảng (1/1994)
khẳng định phải hết sức quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Khóa VII
(7/1994) xác định rõ vị trí của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn và chỉ rõ những phương hướng cơ bản về phát triển nông nghiệp và

nông thôn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996), Đảng ta nhận định
những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới, nhiều
tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tạo ra. Trên thế giới
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày
càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều
đứng trước những cơ hội để phát triển. Nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị
trường… thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển và các công ty đa quốc
gia, cho nên các nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước những
thách thức to lớn. Chênh lệch giàu nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng.
Cuộc cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học – công nghệ diễn ra gay gắt…
Xuất phát từ tình hình trên và căn cứ vào Cương lĩnh của Đảng, Đại hội
VIII đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc biệt coi
16


trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đại hội VIII
nêu rõ nội dung và mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn.
Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn bao
gồm:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp hình thành các vùng tập trung
chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa
nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã
hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và
ngoài nước. Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa…
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng
cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết công nghiệp ở đô thị. Phát triển các
ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ

công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công
nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại
hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại. [15,
tr.87]
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở nước
ta cũng đồng thời là quá trình giải quyết các vấn đề: tạo việc làm cho lao động
dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập và mức sống cho dân cư nông thôn; đa
dạng hóa nền kinh tế nông thôn, đa dạng hóa ngành nghề lao động ở nông thôn
trên cơ sở tạo ra ngành nghề mới, sử dụng lao động dư thừa ngay tại chỗ trên
địa bàn nông thôn vừa làm ruộng, vừa làm ngành nghề khác như công nghiệp
và dịch vụ nông thôn, thực hiện “ly nông bất ly hương” (rời ruộng nhưng
không rời làng)…do vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Khóa VIII (12/1997) đã tiếp tục xác định nội dung phát triển nông nghiệp
và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao
động ở nông thôn trên cơ sở thực hiện tốt các chủ trương về phát triển nông,
lâm nghiệp, thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông
17


nghiệp hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tao việc làm và thu
nhập cho nông dân nghèo, phát triển các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp
và dịch vụ nông thôn. Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản, thực hiện
cơ chế lưu thông thực sự thông thoáng trên thị trường trong nước, tạo cho được
một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường
quốc tế, thực thi các chính sách hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp để phát
triển sản xuất kinh doanh nông sản hàng hóa đạt hiệu quả cao. Phát triển mạnh
các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh
trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu,

vùng xa. [16, tr.63-68]
Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn càng
được xác định cụ thể hơn ở Nghị quyết 06 (1998) của Bộ Chính trị mở ra
những cơ chế và chính sách mới, thông thoáng hơn để giải phóng mạnh mẽ sức
sản xuất, nhất là tiềm lực về đất đai, rừng, biển và lao động nông thôn.
Tiếp tục đường lối đổi mới nhằm phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn. Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã khẳng định đường lối, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2001 – 2010 là đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị Trung ương 5
Khóa IX (3/2002) đã ra Nghị quyết về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010. Đây là kết quả của quá trình nhận
thức, đổi mới tư duy của Đảng, chuyển hướng nội dung công nghiệp hóa đất
nước, phù hợp với bối cảnh mới của quốc tế, điều kiện cụ thể của ngành kinh tế
- xã hội của nước ta. Nghị quyết nêu rõ nội dung tổng quát của công nghiệp,
hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường,
thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa ứng dụng các thành tựu khoa
học, kỹ thuật trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật công nghệ

18


hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng xuất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, 3 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010, Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn là sự lựa chọn bước đi đúng đắn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu đã đạt được trong
lĩnh vực này đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế, xã hội những năm 2001
– 2005 phát triển.
Phân tích và chỉ rõ những thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra, tiềm năng,
lợi thế của nước ta, Đại hội X chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Bước đi
quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải tiếp tục: “Đẩy
mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” [19, tr.29].
Như vậy, ở mỗi kỳ Đại hội Đảng ta đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn và đề ra những chủ
trương, chính sách cụ thể, nhưng cho đến thời điểm hiện nay có thể nói Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khóa X (8/2008) với Nghị quyết
tam nông là đề cập sâu sắc nhất, đầy đủ nhất về vấn đề này. Nghị quyết khẳng
định:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính
trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng
bộ, gắn với quy trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước,
19


tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định,

hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc,
tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao
đời sống nông dân.
Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát đó là: không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự
chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo
có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản
lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch
vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị
ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp
nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo
nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện những mục tiêu trên Đảng ta đã đưa ra các giải pháp cụ thể
như:
Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời
phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị. Nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn. Đổi mới và xây
dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn. Phát
triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo
nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá
nông thôn. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn
lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

20


của nông dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông
dân. [5, tr.148-160].
Như vậy, có thể nói dựa trên những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn. Đảng ta nhìn nhận vị trí và vai trò quan trọng của hoạt động sản
xuất nông nghiệp, nông thôn đối với nền kinh tế quốc dân nước ta. Trong mỗi
giai đoạn phát triển của đất nước Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới và
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đó là nền tảng hết sức quan trọng để Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long vận dụng mềm dẻo, linh hoạt vào trong quá trình lãnh đạo
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn tỉnh nhà.

21


CHƯƠNG 2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG
TRONG THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN (GIAI ĐOẠN 2001-2010)
2.1 Khái quát chung về tỉnh Vĩnh Long và đặc điểm tình hình sản
xuất nông nghiệp, nông thôn ở Vĩnh Long.
Tỉnh Vĩnh Long xưa nguyên là đất Tầm Đôn - Xoài Rạp (đất Tầm Đôn
còn gọi là xứ Tầm Đôn, vị trí trung tâm của Tầm Đôn xưa thuộc khu vực của
Thị xã Vĩnh Long cũ, nay thuộc khu vực Thành phố Vĩnh Long ).
Tỉnh Vĩnh Long ngày nay là một phần của Long Hồ dinh, được hình
thành từ năm 1732, bao gồm các tỉnh Bến tre, Trà Vinh và một phần của Cần
Thơ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, tỉnh Vĩnh Long cũng đã nhiều lần thay
đổi địa giới hành chính và tên gọi; từ Long Hồ dinh đến Hoàng Trấn dinh (năm

1779), rồi Trấn Vĩnh Thanh (1780 - 1839), tỉnh Vĩnh Long (1839 - 1950), tỉnh
Vĩnh Trà (1951 - 1954), tỉnh Vĩnh Long (1954 - 1975), tỉnh Cửu Long (1976 1992). Đến tháng 5 năm 1992, Vĩnh Long được tái lập.
Tỉnh Vĩnh Long, có nhiều đặc điểm tiêu biểu cho vùng Đồng bằng sông
Cửu Long. Vĩnh Long là tỉnh nằm ở trung tâm Châu thổ Đồng bằng sông Cửu
Long thuộc giữa sông Tiền - sông Hậu. Vị trí giáp giới như sau:
- Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Tiền Giang và Bến Tre.
- Phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Trà Vinh.
- Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng.
- Phía Tây Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp.
Chính vị trí địa lý thuận lợi này, giúp cho Vĩnh Long có thể dễ dàng giao
lưu, phát triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh nói chung cũng như có điều kiện phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ở tỉnh Vĩnh Long cũng có ảnh
hưởng đến nông nghiệp, nông thôn. Vĩnh Long nằm trong vùng nhiệt đới gió
mùa, quanh năm nóng ẩm, có chế độ nhiệt tương đối cao và bức xạ dồi dào.
Điều kiện dồi dào về nhiệt và nắng là tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp trên
cơ sở thâm canh, tăng vụ.
22


Ngoài ra,Vĩnh Long còn có nhiều tài nguyên có tác động trực tiếp đến sản
xuất nông nghiệp, nông thôn.
Thứ nhất, về tài nguyên đất, nhìn chung đất đai ở Vĩnh Long tương đối
màu mỡ, phì nhiêu rất thích hợp để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Theo số
liệu thống kê, tính đến ngày 1/1/2010, tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh có
147.912,7 ha được chia ra 5 loại đất sử dụng như sau (tỉnh không có đất lâm
nghiệp): Đất nông nghiệp 116.180,6 ha, chiếm 78,6%; Đất chuyên dùng
9.163,9 ha, chiếm 6,2%; Đất ở nông thôn 5.502,3 ha, chiếm 3,7%; Đất ở đô thị
656,8 ha, chiếm 0,44%; Đất chưa sử dụng, 105,3 ha, chiếm 0,07%. Kết quả đó
cho thấy, đất nông nghiệp Vĩnh Long chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên.

Đây là thế mạnh để Vĩnh Long phát triển hơn nữa kinh tế nông nghiệp tỉnh nhà.
Thứ hai, nguồn nước dồi dào được cung cấp từ hai hệ thống sông Hậu,
sông Tiền – sông Cổ Chiên. Hệ thống kênh rạch chằng chịt, hệ thống giao
thông vươn tới khắp các xã, phường, thuận lợi cho việc phát triển nông sản,
hàng hóa, vật tư…là điều kiện thích hợp đa dạng hóa cây trồng – vật nuôi cho
năng suất cao, nhằm phát triển mạnh sản xuất nông sản hàng hóa, cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản ngay trên địa bàn và vùng lân
cận, đặc biệt là cho các khu công nghiệp tập trung.
Thứ ba, nguồn lao động với cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động trong
độ tuổi chiếm 67.23% dân số và có xu hướng tăng qua từng năm là tiềm năng
lớn về nguồn nhân lực. Năm 2010, dân số trung bình của tỉnh Vĩnh Long là
1.032.000 người trong đó số lao động qua đào tạo chiếm 18%, lao động từ đại
học trở lên hiện có tỉ lệ không nhỏ trong các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp
cộng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động là nguồn vốn quý giá để tỉnh có
điều kiện tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật hiện đại áp dụng vào điều kiện nông
nghiệp, nông thôn tỉnh nhà.
Tóm lại, với vị trí địa lý và nguồn tài nguyên thiên nhiên ưu đãi thêm vào
đó là con người Vĩnh Long có phẩm chất cần cù, ham học hỏi tất cả đã tạo cho
Vĩnh Long thế mạnh hình thành nền nông nghiệp hàng hóa đa canh, thâm canh
có hiệu quả cao với các nông sản chiến lược là: trái cây đặc sản, rau màu, lương
thực thực phẩm, cá tôm nước ngọt…đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và
23


xuất khẩu. Tiềm năng cơ bản nêu trên là điều kiện quan trọng để thúc đẩy
nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
2.2.1 Thực trạng

Trong thời gian trước 2001, thực hiện các chủ trương phát triển kinh tế
nói chung, trong nông nghiệp nói riêng ở Vĩnh Long đã đạt được những thành
tựu đáng kể đó là:
Nhờ tập trung thủy lợi, giao thông nông thôn, phát triển mạng lưới điện,
giống mới, kỹ thuật thâm canh nên sản xuất nông nghiệp liên tục tăng trưởng,
giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 4,3%; bước đầu hình thành các vùng
chuyên canh: lúa, cây ăn trái, hoa màu; chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp theo hướng tăng nhanh giá trị ngành chăn nuôi, kinh tế vườn và thúc
đẩy phát triển mạng lưới dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Cây lúa vẫn giữ vai trò
chủ lực, năng xuất bình quân đạt trên 4,4 tấn/ha/vụ. Kinh tế vườn tiếp tục phát
triển, tốc độ tăng bình quân 10,41%/năm; năm 2000 vườn chuyên canh và vườn
đặc sản chiếm 78% tổng diện tích, gia trị sản xuất tăng 64% so với năm 1995
và chiếm trên 36% giá trị ngành trồng trọt. Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục
tăng trưởng, bình quân tăng 8,67%/năm với nhiều hình thức và quy mô phù
hợp, đàn giống được cải tạo, chất lượng được nâng cao.
Tập trung đầu tư công tác thủy lợi nội đồng, nạo vét kênh tạo nguồn, xây
dựng hệ thống cống, bọng, bờ bao, gắn kết thủy lợi với giao thông nông thôn;
năng lực phục vụ tăng thêm trên 30.000 ha; nâng tổng diện tích đất lúa được
khép kín thủy lợi trên 55.000 ha, chiếm 70% diện tích đất.
Giao thông nông thôn được đầu tư thông suốt, đường ô-tô về cơ bản đã
đến trung tâm các xã; gần 80% số hộ dân có điện sinh hoạt; 83% ấp xe hai bánh
chạy thông suốt; 58/94 xã có đường ô tô tới trung tâm.

24


×