Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

ĐẢNG bộ TỈNH VĨNH LONG vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH vào VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ của hội NÔNG dân TRONG sự NGHIỆP đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.05 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI.
Chuyên ngành: Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S.GVC. TRẦN KIM TRUNG

PHẠM THÀNH TÂM
MSSV:6055393

CẦN THƠ 05/2009

a


LỜI CẢM ƠN
Để có được công trình nghiên cứu này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
toàn thể các thầy cô trong khoa Khoa học Chính trị, mà đặc biệt là thầy Trần Kim
Trung là người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình tìm


hiểu nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do trình độ, điều kiện và thời gian có hạn
nên đề tài nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được
sự thông cảm và góp ý chân thành của các thầy, cô và các bạn đọc để đề tài nghiên
cứu của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện
Phạm Thành Tâm

b


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ. ................................................................................................4
3. Đối tượng nghiên, phạm vi nghiên cứu..................................................................4
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.............................................................4
5. Kết cấu. .....................................................................................................................4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG DÂN VÀ HỘI NÔNG DÂN..................5
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG DÂN VÀ HỘI NÔNG
DÂN. ........................................................................................................................................5
1.1.1. Giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng đưa nông dân đi lên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là động lực của cách mạng Việt Nam. .......5
1.1.2. Hội nông dân phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công –
nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. ..............................................15
1.2. VAI TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN VÀ GIAI CẤP NÔNG DÂN TRONG

CÁCH MẠNG VIỆT NAM..............................................................................................18
CHƯƠNG 2.
PHÁT HUY VAI TRÒ HỘI NÔNG DÂN TỈNH VĨNH LONG TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH...............26
2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA VĨNH LONG
ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NÔNG DÂN. .................................26
2.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG VỀ
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI. .........28
2.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA HỘI NÔNG DÂN TỈNH VĨNH LONG
TRONG THỜI GIAN QUA. ............................................................................................32
2.3.1. Thành tựu..................................................................................................................32
2.3.2. Hạn chế. .....................................................................................................................44

a


CHƯƠNG 3.
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT
HUY VAI TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN TỈNH VĨNH LONG TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI. .....................................................................................................................46
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG....................................................................................................46
3.2. GIẢI PHÁP. .................................................................................................................50
KẾT LUẬN

b


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hội nông dân Việt Nam- tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp nông dân đã

từng tập hợp rộng rải giai cấp nông dân phát huy sức mạnh, góp phần làm nên thắng
lợi vẽ vang của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Hiện nay,
Hội nông dân nhất định sẽ tiếp tục làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong giai
đọan cách mạng mới- công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập với thế giới, nông
dân, nông nghiệp và nông thôn nước ta đứng trước những thách thức nghiệt ngã bởi
nền nông nghiệp vẫn là nền sản xuất nhỏ, kém phát triển, kỹ thuật sản xuất phổ biến
vẫn còn thủ công, lạc hậu, nông sản hàng hóa chưa nhiều, sức cạnh tranh còn kém so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thu nhập và đời sống của nông dân còn
thấp, tỉ lệ nghèo đói chiếm khá cao; trình độ dân trí của dân cư nông thôn còn hạn
chế. Hội nông dân- nơi đại diện cho giai cấp nông dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính
đáng của nông dân phải tổ chức, vận động và tạo điều kiện để nông dân- lực lượng
đông đảo nhất trong nhân dân, đội quân chủ lực của cách mạng, phát huy sức mạnh
trong thời kỳ mới vì nông dân là một lực lượng cơ bản trong việc xây dựng nông thôn
mới, góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa. Trước tình hình đó thì Vĩnh
Long cũng là một tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà nông dân
chiếm đa phần thì việc đưa nông dân vào tổ chức Hội Nông dân là nhiệm vụ cấp thiết.
Trong giai đoạn mà cả nước đang thực hiện cuộc vận động “Học tập và rèn luyện
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thì việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh,
những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, của tổ chức Hội, để nông dân
có điều kiện phát triển về kỹ thuật, kỹ năng nhằm đưa nông dân tỉnh nhà hội nhập vào
các tỉnh trong khu vực, trong cả nước cũng như các nước trên thế giới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn”, “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả
lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”. Hội cũng là nơi xây dựng đời sống
dân chủ ở nông thôn, điều kiện cơ bản để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn. Đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh
3



Long vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát huy vai trò của Hội nông dân
trong sự nghiệp đổi mới”, làm đề tài luận văn tốt nghiệp đại học.
2. Mục đích, nhiệm vụ.
Mục đích: nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và tổ chức Hội nông
dân, những chủ trương chính sách của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long.
Nhiệm vụ: làm rõ việc phát huy vai trò của Hội nông dân tỉnh Vĩnh Long trong
sự nghiệp sự nghiệp đổi mới.
Qua đó thì tác giả cũng đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát
huy vai trò của Hội trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là: Nhằm phát huy vai trò Hội Nông
dân tỉnh Vĩnh Long trong thời gian tới của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về vai trò của Hội nông dân tỉnh Vĩnh Long
trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn được viết dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác, Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vai trò của tổ chức Hội nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Cùng với những chính sách quan điểm,
chủ trương của Trung ương Hội nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Để thực hiện luận văn này đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:
phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, điều tra xã hội học và thống kê…
5. Kết cấu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu của luận
văn gồm ba chương, 7 tiết.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG DÂN VÀ HỘI NÔNG DÂN.
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG DÂN VÀ HỘI NÔNG DÂN.
1.1.1. Giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng đưa nông dân đi
lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là động lực của cách mạng Việt Nam.
Dưới chế độ thuộc địa người nông dân Việt Nam cũng như các giai cấp tầng
lớp khác như: công nhân, trí thức, học sinh, tiểu thương, tiểu chủ… đều bị áp bức bóc
lột hết sức nặng nề. Nên việc giải phóng nông dân thực hiện người cày có ruộng là
nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Là người xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước, thương dân,
được sự yêu thương từ nhỏ của mọi tầng lớp bình dân, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu
được nỗi thống khổ của nông dân, đồng thời Người cũng thấy được sức mạnh lớn lao
của họ. Từ đó thì Hồ Chí Minh cho rằng, vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên
ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết.
Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp
bức công nông, cho nên công nông là người làm chủ cách mệnh.
1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn,
2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là
gốc cách mệnh… Từ đó thì Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng vô sản không thể
thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách
mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực.
Cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay động
được quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Lịch sử dấu tranh của nông dân trên khắp thế giới minh họa một cách phong
phú con đường mà phong trào du kích dần dần tự chuyển thành một lực lượng
nghiêm chỉnh; thành một lực lượng có khả năng cung cấp những người lãnh đạo đích
thực, thực hiện những nhiệm vụ cách mạng có tầm quan trọng lớn lao.

5



Do đó, Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.
Qua đó thì Hồ Chí Minh đã khái quát được những nội dung cơ bản sau:
- Vị trí quan trọng của nông dân trong cách mạng.
- Cần bồi dưỡng lực lượng nông dân để làm chỗ dựa cho cách mạng.
- Muốn bồi dưỡng được nông dân, phải đem lại ruộng đất cho họ.
Khi ra đi tìm đường cứu nước (1911) cho tới khi trở thành đại biểu ưu tú của
giai cấp nông dân thế giới vào những năm 20, với vai trò Ủy viên đoàn chủ tịch quốc
tế nông dân, Hồ Chí Minh càng có điều kiện đi nhiều, thấy nhiều và hiểu biết nhiều
về giai cấp nông dân. Nhưng trước hết, tình cảm và trí tuệ của Người dành cho sự
nghiệp giải phóng nông dân đất nước mình, những người đang phải chịu sự áp bức,
bóc lột của chế độ thực dân Pháp. Người viết: “Là người An Nam, họ bị áp bức, là
người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản”.[12] Từ
những năm 20, Hồ Chí Minh đã chỉ ra con đường duy nhất để giải phóng giai cấp
nông dân, đó là con đường cách mạng vô sản gắn liền giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp nhân dân và nông dân, đem lại ruộng đất cho nông dân. Tháng
10/1923, trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về tình hình Đông Dương, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận xét về thái độ chính trị của giai cấp nông dân: “Quần
chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước”.[12] Nguyễn Ái
Quốc đã nhận định nông dân Việt Nam rất cách mạng, là một lực lượng rất to lớn nếu
được tuyên truyền, tổ chức. Nhưng do sống tản mạn nên chỉ với lực lượng của riêng
mình, nông dân không bao giờ trút bỏ được gánh nặng đang đè nén, bóc lột họ, từ đó
Người yêu cầu: “Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ, tổ chức lại, cần phải cung cấp
cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải
phóng”.[12]
Là một cán bộ của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ động tổ chức thực
hiện giải phóng giai cấp nông dân Việt Nam, không trông chờ, ỷ lại vào cách mạng
vô sản Pháp. Với tinh thần chủ động cách mạng, Người chỉ rõ nếu thời cơ cho phép

cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa sẽ đi trước cả cách mạng vô sản ở “chính
quốc”, qua đó, sẽ giúp đỡ tích cực cho phong trào cách mạng vô sản trên thế giới.

6


Và thực tế cách mạng Việt Nam, với nội lực đã được dày công chuẩn bị, trải
qua ba cuộc tập dượt lớn trong các cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là
Xô viết Nghệ Tĩnh, Mặt trận Dân chủ 1936 - 1939 và cuộc vận động giải phóng dân
tộc 1939 - 1945, tháng 8/1945, khi thời cơ tới, Đảng đã phát động tổng khởi nghĩa,
nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
dân, công nhân là lực lượng chủ yếu cùng với toàn thể dân tộc làm nên cuộc cách
mạng thần kỳ.
Dưới chính quyền dân chủ nhân dân, vai trò của nông dân tiếp tục được Đảng
và Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Loài người ai cũng
“dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn); nước ta thì “dĩ nông vi bản” [12]
(nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước
muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”.
Suốt trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, khi chưa có điều
kiện giải quyết ruộng đất cho nông dân, Hồ Chí Minh cùng Đảng, Chính phủ đã cố
gắng và kịp thời ban hành nhiều chính sách nhằm từng bước mang lại quyền dân chủ
cho nhân dân, trong đó có nông dân.
Từ năm 1949 rồi tới năm 1953, khi tình hình so sánh lực lượng cho phép,
Đảng đã chủ trương phát động quần chúng tiến hành giảm tô, tiến tới cải cách ruộng
đất triệt để thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”.
Trải qua quá trình khôi phục kinh tế sau chiến tranh, vận động nông dân đi vào
con đường làm ăn tập thể... trong suốt một thời gian dài hợp tác xã nông nghiệp ở
miền Bắc đã thực sự là chỗ dựa cho mọi phong trào cách mạng ở nông thôn, đảm bảo
chính sách hậu phương, động viên hàng triệu lao động tham gia quân đội. Đầu tháng
01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Thái Bình, tỉnh đầu tiên trên miền Bắc đạt

năng suất 5 tấn thóc trên 1 ha gieo trồng. Khi nói về vai trò, vị trí của hợp tác xã,
Người nhấn mạnh: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội
chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã là chiến sĩ sản xuất, cần phải cố
gắng như những chiến sĩ ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã sản xuất tốt để bộ
đội và nhân dân ta ăn no đánh thắng. Vì vậy, nhiệm vụ của hợp tác xã nông nghiệp,
của bà con xã viên, của cán bộ công tác ở nông thôn là rất quan trọng”.[12].

7


Nói đến nông dân là phải nói đến vấn đề ruộng đất, đó là lẽ sống và cả cuộc
đời họ. Hiểu sâu sắc điều đó, nên mỗi lần tiếp xúc với bà con nông dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dành những lời xúc động để căn dặn bà con. Người nói: “Ruộng đất
khôn lắm, nó biết suy tính đấy, người chăm sóc nó chừng nào thì nó trả ơn cho người
chừng ấy”[12].
Hồ Chí Minh đã xây dựng cái gốc của cách mạng là khối liên minh công nông
để đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện nhiệm vụ dân tộc dân chủ.
Khi đã giành được độc lập thì cũng dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết đó mà Đảng
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, nông dân
Việt Nam không chỉ là đối tượng giải phóng mà còn là động lực, là gốc của cách
mạng Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, việc đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam là
một tất yếu khách quan và chỉ xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì nhân dân,
trong đó đa số là nông dân mới thực sự được hưởng tự do hạnh phúc. Bởi vậy quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là quá trình nâng cao đời sống người nông dân.
Mục tiêu đó của cách mạng được thể hiện trong đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao đời sống nông dân một cách toàn diện, cả vật chất và tinh thần, trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Đảng và Chính phủ “phải

quan tâm đén lợi ích của nhân dân, trước hết là của nhân dân lao động: công nhân và
nông dân; phải chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[9,Tr 275]. Hồ
Chí Minh nói mộc mạc mà đầy tâm huyết: “Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Các
cháu bé không có trường học, Đảng phải lo. Tôi lo chuyện này lắm: các cháu mắt
nhoẹt, da bủng” [10, Tr 463-464].
Để nông dân phát huy được sức mạnh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và nâng cao đời sống của mình, theo Hồ Chí Minh cán bộ có vai trò quan trọng
trong lãnh đạo và tổ chức nông dân. Người căn dặn: “Các cô, các chú là cán bộ là cốt
cán, phải lãnh đạo nhân dân, đoàn kết nhân dân, đưa nhân dân đấu tranh, tổ chức
cải thiện đời sống, hướng dân nhân dân làm cá, làm mắm, làm muối” [9, Tr150].
Theo Người, là cán bộ phải biết lo trước dân, hưởng sau dân. Người thường giảng

8


giải rằng Đảng ta đấu tranh để làm gì? Là muốn cho tất cả mọi người được ăn no, mặt
ấm, được tự do. Mỗi đảng viên đấu tranh để làm gì? Cũng để mọi người được ăn no
mặc ấm, được tự do. Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm,
sung sướng, tự do. Nhưng nếu tách riêng một mình mà ngồi ăn no mặc ấm, người
khắc mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm cũng cần làm sao cho mọi
người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy cán bộ phải ra sức công
tác, lãnh đạo nông dân và cùng họ ra sức lao động sản xuất.
Theo Hồ Chí Minh, kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ: nông thôn phải kinh qua hai
cuộc cách mạng: cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là chỗ thực hiện tổ đổi
công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã hội hoá nông nghiệp.
Theo Hồ Chí Minh, đã có ruộng, nông dân phải ra sức tăng gia sản xuất để
đảm bảo đời sống ấm no. Muốn sản xuất phát triển thì cần có những tổ đổi công để
giúp đỡ lẫn nhau trong công việc. Ý nghĩa của tổ công là “một cây làm chẳng nên
non, nhiều cây tụ họp thành hòn núi cao”.
Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển công nghiệp nhưng đồng

thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khắng khít với nhau. Nhất là
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, muốn phát triển nông
nghiệp thì trước hết phải xây dựng tốt các phong trào tổ đổi công ở khắp mọi nơi và
trên cơ sở đó sẽ xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao. Nông dân ta muốn
đến chỗ ấm no, sung sướng và góp phần xây dựng nước nhà thì không có con đường
nào khác con đường tiến lên hợp tác xã.
Xây dựng hợp tác xã, phát triển sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm của nông dân
đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn làm được nhiệm vụ đó, theo Hồ Chí Minh, trước hết là
tiến hành cách mạng tư tưởng.
Hồ Chí Minh rất chú ý nội dung tư tưởng trong quá trình xây dựng và phát
triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, cần chú trọng công tác giáo dục chính trị và tư
tưởng nhằm nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho xã viên,
phải làm cho người nông dân hiểu rõ xây dựng hợp tác xã trước hết là để nâng cao
đời sống của nông dân. Bởi vậy phải nâng cao ý thức lao động tập thể làm chủ hợp
tác xã và tinh thần thi đua yêu nước, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật của xã
viên, nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục tư tưởng cá nhân, bảo

9


thủ, ỷ lại, thiếu đoàn kết. Trong hợp tác xã cần đề cao tinh thần chí công vô tư, tác
phong dân chủ, đồng thời giáo dục cho xã viên biết coi công việc của hợp tác xã như
công việc của nhà mình và phải thực hành khẩu hiệu cần kiệm xây dựng hợp tác xã.
Khi phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của nông dân miền Bắc
giành thắng lợi căn bản, người nông dân xã viên có nhiệm vụ mới trên con đường đi
lên là củng cố hợp tác. Trong quá trình củng cố hợp tác xã có hai vấn đề đặt ra. Một
là phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao. Hai là thực hiện cuộc vận động
cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện,
mạnh mẽ và vững chắc. Hai vấn đề này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hồ Chí
Minh nói: Để hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, để

nâng cao đời sống nhân dân, đồng bào và cán bộ phải làm tốt các việc sau đây: “Ra
sức củng cố hợp tác xã về mọi mặt. Tiến hành tốt các cuộc vận động quản lý hợp tác
xã, nhất là quản lý dân chủ và tài chính công khai, chống tham ô, lãng phí” [9, Tr
582].
Muốn tiến lên hợp tác xã bậc cao, Hồ Chí Minh chỉ rõ các hợp tác xã và nông
dân xã viên phải củng cố toàn diện hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất. Phải chuẩn bị thật
tốt khi có đủ điều kiện mới đưa hợp tác xã lên cao. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Gọi là hợp
tác xã bậc cao thì đoàn kết phải cao, sản xuất phải cao, thu nhập chung của hợp tác
xã phải cao, thu nhập riêng của hợp tác xã phải cao” [10,Tr 403]. Như thế mới xứng
đáng là hợp tác xã bậc cao.
Đảng và Chính phủ mở cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ
thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện , mạnh mẽ và vững chắc” là
rất cần thiết và kịp thời. Theo Hồ Chí Minh, từ cải cách ruộng đất đến tổ chức hợp tác
xã nông nghiệp, tổ chức hợp tác xã đến cuộc vận động cải tiến, đó là những giai đoạn
tiến lên của nông nghiệp nước ta.
Trong cuộc vận động này, theo Hồ Chí Minh, chìa khóa của việc phát triển là
chỉnh đốn ban quản trị hợp tác xã. Ban quản trị tốt thì hợp tác xã tốt. Hợp tác xã tốt
thì nông nghiệp phát triển. Ban quản trị phải dân chủ. Mọi công việc của hợp tác xã
trước khi làm phải đem ra bàn bạc với xã viên, hỏi ý kiến xã viên. Ban quản trị phải
công bằng, không thiên vị, minh bạch, tài chính công khai, thu chi phải báo cáo cho
xã viên biết.

10


Trong cuộc vận động này phải làm sao cho bà con nông dân hiểu mình là
người làm chủ tập thể, làm chủ hợp tác xã, làm chủ nhà nước. Mà đã làm chủ thì phải
đoàn kết chặt chẽ để tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm nhằm nâng cao đời sống
vật chất văn hóa của mình.
Củng cố hợp tác, phát triển sản xuất, đồng thời người nông dân phải xây dựng

cho mình đời sống mới. Hồ Chí Minh chỉ cho đồng bào nông dân thấy, muốn củng cố
hợp tác xã tốt thì phải có sức khỏe. Muốn thế đồng bào phải giữ gìn vệ sinh, ăn uống
sạch sẽ, nhà cửa, vườn tược sạch sẽ.
Hồ Chí Minh đòi hỏi nông dân phải chống mê tín dị đoan. Trời làm hạn hán,
sâu bệnh, không tích cực chống hạn, bắt sâu mà lại cúng bái trời đất. Đồng bào nông
dân phải thấy trời đã làm ra hạn, lụt, sâu bọ, bệnh tật. Vì vâỵ ta không ỷ lại vào trời
mà phải “vắt đất ra nước thay trời làm mưa”.
Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng toàn dân là
sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi để đánh giặc Mỹ xâm lược. Sản xuất chiến đấu là hai
mặt trận có quan hệ mật thiết với nhau. Các hợp tác xã là đội quân hậu cần của quân
đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã chiến đấu sản xuất, phải sản
xuất tốt để bộ đội và những người ngoài tiền tuyến ăn no đánh thắng. Vì vậy, hợp tác
xã nông nghiệp, của bà con xã viên, của cán bộ nông thôn là rất quan trọng.
Xuất phát từ mục đích của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, giải
phóng nhân dân khỏi ách đế quốc thực dân, đánh đổ giai cấp địa chủ mang lại ruộng
đất cho dân cày, đưa nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh xác định
đường lối, chính sách, việc làm của Đảng và Chính phủ là nằm không ngừng nâng
cao đời sống nhân dân, trong đó đông đảo nhất là nông dân.
Cho đến những ngày cuối cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh con chăm chú
lắng nghe Diễn ca Điều lệ Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, những mong với diễn ca
ấy bà con nông dân sẽ dễ hiểu, dễ nhớ để dễ làm theo, mong xây dựng được nền nếp
làm ăn mới, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương...
Hiện nay, ở nước ta có 663 di tích và địa điểm di tích về Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đó là những nơi Người đã ở, làm việc hoặc tới thăm công nhân, nông dân, gia
đình nhân sĩ, tri thức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang... Trong số đó, di tích về
Người ở vùng nông nghiệp, nông thôn chiếm 42%. Riêng ở Thủ đô Hà Nội, thành

11



phố công nghiệp và là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của cả nước, di tích của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở khu vực nông nghiệp ngoại thành là 50 trên tổng số 217,
chiếm tỷ lệ gần 25%. Những chuyến về với nông dân của Chủ tịch Chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ để động viên, mà trước hết là nhằm trực tiếp bàn cách tháo gỡ khó
khăn trong sản xuất và đời sống như tổ chức chống hạn, đào mương, làm thuỷ lợi,
trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc, cải tiến cách quản lý... tạo ra những tiền đề căn
bản để ổn định nông thôn và phát triển sản xuất nông nghiệp, thiết thực cải thiện và
nâng cao dần mức sống của nông dân.
Trong Di chúc, Người đã dành những dòng xiết bao trìu mến, ân cần, thiết
thực đối với giai cấp nông dân: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp,
tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết
sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu
đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn
thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả,
mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Việc đề nghị miễn thuế nông nghiệp chỉ là sự kiện của một năm, với định
lượng và định tính cụ thể. Về lâu dài, Người luôn xác định nhiệm vụ tối cao mà cũng
hết sức cụ thể của Đảng trước dân: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết
sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” [12].
Có thể nói, Hồ Chí Minh rất quý trọng, tin tưởng và nhất mực thương yêu
người nông dân những người suốt đời chân lấm tay bùn, làm ra của cải nuôi sống xã
hội, có nhiều đóng góp cho cách mạng.
Cũng như nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và chống chế độ phong
kiến, một trong hai mục tiêu chủ yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đưa
ruộng đất về cho nông dân. Tuy nhiên, cũng là mục tiêu ấy, nhưng cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản là khác xa con đường giải
phóng dân tộc thuộc phạm trù tư sản. Bởi lẽ, với những người cộng sản thì giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp nông dân chỉ là điểm khởi đầu để đi tiếp những chặng


12


đường mới, vươn tới những mục tiêu cao hơn, triệt để hơn là giải phóng xã hội, giải
phóng con người.
Ngày nay, dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ruộng đất đã
trở thành sở hữu toàn dân. Nhân dân đã được hưởng quyền làm chủ về chính trị, kinh
tế, xã hội. Nhiệm vụ của Nhà nước hiện nay không phải là đem ruộng đất về cho
nông dân, mà là tổ chức và hướng dẫn nông dân, tạo điều kiện cho nông dân được
thực hiện quyền làm chủ trong sản xuất, chủ động phát huy năng lực để sản xuất có
hiệu quả cao. Trong đó bao gồm từ những vấn đề cụ thể như lựa chọn cây trồng, vật
nuôi, tiêu thụ, chế biến sản phẩm, đến cơ chế chính sách về đất đai, phân công lao
động xã hội... Vấn đề dân chủ cho nông dân, trong điều kiện nước ta thực hiện nền
kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang nảy sinh nhiều nội dung mới. Đặc biệt
là quyền dân chủ ấy được đặt trong bối cảnh quốc tế, hội nhập đấu tranh và ràng buộc
lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Dân chủ hóa nông thôn bao gồm nhiều lĩnh vực, song ruộng đất vẫn là một
trong những tiêu chí, là thước đo quan trọng để đánh giá trình độ làm dân chủ của
nguời nông dân. Ruộng đất tuy thuộc sở hữu toàn dân, song trong thời gian 20 đến 25
năm, những con người cụ thể được giao quyền sử dụng, thì ruộng đất ấy gắn bó chặt
chẽ với đời sống, việc làm; gắn với việc sắp xếp cơ cấu, xây dựng nông thôn mới và
có quan hệ trực tiếp tới quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn.
Tháng 2/1947, nói chuyện với nhân dân Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mong muốn làm sao phát triển sản xuất, để “Nghèo trở nên đủ, đủ trở nên giàu, giàu
thì giàu thêm”. Có thể hiểu câu nói này của Người với nhiều nghĩa; một mặt thể hiện
sự chăm lo của Người đến mọi tầng lớp nhân dân, mặt khác Người rất khuyến khích
sự năng động của mọi người, không tự bằng lòng với những thành quả đã đạt được.

Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường như hiện nay dù muốn hay
không, chúng ta cũng buộc phải chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập của các bộ
phận dân cư. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (Khóa VII) đã chủ
trương khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Coi việc một
bộ phận dân giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có chính sách ưu đãi

13


hợp lý về tín dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo điều kiện cho người nghèo có
thể tự mình vươn lên để đủ sống và phấn đấu trở thành khá giả.
Những năm gần đây, cùng với Nhà nước chú ý đầu tư cho các công trình điện,
đường giao thông, trường học, trạm y tế ở nông thôn, việc thực hiện cơ chế dân chủ
theo phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân sử dụng và khuyến
khích khôi phục lại các giá trị văn hóa truyền thống ở các làng xã như các hương
ước... đã làm cho nông thôn và người nông dân vừa được hưởng quyền dân chủ nhiều
hơn, vừa tạo điều kiện và khuyến khích họ đóng góp có hiệu quả hơn cho công cuộc
xây dựng vừa tạo điều kiện xây dựng đất nước theo đúng nghĩa “Dân giàu, nước
mạnh”.
Tháng 10/1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu
(khóa VIII). Căn cứ vào những thuận lợi và khó khăn của đất nước trong bối cảnh
đang phải chịu tác động khủng hoảng tài chính - tiền tệ, suy thoái của khu vực và một
số nước trên thể giới, Hội nghị khẳng định quyết tâm: Tiếp tục công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết là công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn. Hội nghị đã đề ra các giải pháp đặc biệt về kinh tế - xã hội
năm 1999 là: “Tập trung cao độ cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế ở
nông thôn để làm nền tảng ổn định kinh tế - xã hội” [12].
Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (lần 1) là sự phát triển lôgic từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Nếu như Đại hội lần thứ VIII mới
nêu: “Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn”

thì tới Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Đảng đã xác định cụ thể hơn: “Trước hết là công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, và coi việc ổn định kinh tế - xã hội
nông thôn là nền tảng ổn định chính trị đất nước. Với sự nhìn nhận và đánh giá này,
chắc chắn những khó khăn, vướng mắc trong công nghiệp, nông thôn sẽ được Đảng
tập trung tháo gỡ bằng các biện pháp và chính sách cụ thể, tương xứng giữa yêu cầu
và tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với các
yếu tố vật chất đảm bảo như vốn và công nghệ để thiết thức đưa nghị quyết của Đảng
vào cuộc sống. Cùng với việc xây dựng “tầm nhìn vĩ mô” đối với toàn bộ vùng nông
thôn Việt Nam đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trước mắt cần có những giải pháp
thiết thực, cụ thể tập trung vào hai vấn đế cơ bản là Nông dân với ruộng đất và nông

14


dân với việc làm. Người nông dân cần được vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư sản
xuất tạo ra những mô hình thích hợp. Đảng và Nhà nước cũng cần ban hành các chính
sách khuyến khích để nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho các
vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cũ của cách mạng. Đồng thời
thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho bà con
nông dân, mở rộng dân chủ, chống tham nhũng, kêu gọi tình yêu thương, đoàn kết
giữa những người lao động, giữa các địa phương và trong cả nước.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại muôn vàn tình thương yêu
cho tất cả mọi người, trong đó có tìch cảm sâu nặng với bà con nông dân, Người căn
dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [12].
Nhân dân Việt Nam luôn giữ vững niềm tin vào Đảng. Cuộc sống đã kiểm
chứng và khẳng định chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mới lãnh đạo được dân tộc qua
các bước hiểm nghèo. Niềm tin ấy được nhân lên gấp bội vì Đảng ta do lãnh tụ Hồ
Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.
Hồ Chí Minh đã được thế giới công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc,

Danh nhân văn hóa thế giới vì những đóng góp kiệt xuất của Người về văn hóa cho
dân tộc và thời đại. Bác Hồ của chúng ta sống mãi với nhân dân, trong lòng dân tộc,
trong trái tim của những người nông dân cần cù, chất phác, thuỷ chung, những người
đã và đang được hưởng thành quả ruộng đất do Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam mang lại; Bác Hồ của chúng ta cũng sống mãi với nhân loại tiến bộ trên thế
giới.
1.1.2. Hội nông dân phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh
công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ
chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp tầng lớp khác nhau trong xã hội, phù hợp
với từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, đó là những tổ chức với nhiều tên
gọi khác nhau. Trước yêu cầu của cách mạng và bản thân của giai cấp nông dân Việt
Nam cũng cần có một tổ chức yêu nước phù hợp đó là Hội nông dân.
Từ đó thì Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, sớm xây dựng được khối liên minh

15


công nông. Khối liên minh công- nông này ngày càng được củng cố vững chắc, tạo
thành một đội quân chủ lực hùng hậu của cách mạng, là một trong những nhân tố
quyết định tạo nên những thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám (1945), trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất
nước. Qua thực tiễm cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Chỉ có
khối liên minh công-nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và
triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của
nhân dân lao đông, hoàn thiện nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dận tộc, dân chủ và
tiến lên chủ nghĩa xã hội” [11, Tr 303-304].
Trong cuốn “Đường cách mệnh” viết năm 1927, Hồ Chí Minh giành một

chương riêng viết về tổ chức của nông dân. Sau khi phân tích mọi sự cực khổ của
nông dân, Người viết: “Nếu dân An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng ấy, thì phải
tổ chức nhau để kiếm đường giải phóng” [7, Tr 310]. Hồ Chí Minh đặt tên tổ chức đó
là “Nông hội” và đề ra nguyên tắc tổ chức, điều kiện vào Hội, nhiệm vụ của Nông
hội, con đường để giải phóng đó là sự đồng tâm hiệp lực với giai cấp công nhân để
làm cách mạng. Trước đó, năm 1926, Hồ Chí Minh đã lập ra “Hội Liên hiệp Nông
dân” để tập hợp những nông dân sống ở Xiêm (Thái Lan).
Năm 1930, Đảng ta ra đời đã đặt ra vấn đề xây dựng ngay tổ chức của giai cấp
nông dân, để tập hợp nông dân. Trong sách lược vắn tắt của Đảng đã ghi: “Đảng phải
thu phục được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo” “ phải làm
cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (Công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực
và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia” [ 8, Tr 3].
Trong chương trình tóm tắt của Đảng cũng đề ra nhiệm vụ: “Đảng phải tập
hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ
phong kiến” [8, Tr 44]. Nhờ có chủ trương đúng đắn của Đảng, tổ chức Nông hội
được thành lập ở nhiều cơ sở; tập hợp nông dân đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Phong trào đấu tranh của nông dân có Nông hội đỏ làm nồng cốt đã phát triển mạnh
mẽ trong cả nước mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Trước tình hình phát triển của phong trào nông dân và Nông hội, tháng 101930 Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về nông dận,

16


vận động, đề ra nhiệm vụ khẩn trương thành lập Tổng Nông hội Việt Nam. Ngày 1410-1930 Nông hội đỏ được thành lập, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam ngày
nay. Nhưng chủ trương đúng đắn đó của Đảng ta không được Quốc tế Cộng sản đồng
ý. Do không sát với tình hình thực tế ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản
cho rằng giai cấp nông dân có bản chất là tư hữu nhỏ, dễ đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa, không nên thành lập một tổ chức riêng của họ ở cấp cao vì như vậy có thể
sẽ nguy hại đến cách mạng.
Đảng ta và Hồ Chí Minh đã nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất cách mạng của

giai cấp nông dân Việt Nam và vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng nên đã
khẳng định việc thành lập Tổng Nông hội Việt Nam sẽ không có hại gì, trái lại càng
có lợi cho phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân, vì nó là một trung tâm tập hợp
đông đảo nông dân trong mặt trận chống đế quốc và phong kiến, Đảng ta và Hồ Chí
Minh kiên trì kiến nghị với Quốc tế Cộng sản để thành lập Tổng Nông hội Việt Nam.
Kiến nghị của Đảng ta và của Hồ Chí Minh vẫn không được Quốc tế Cộng sản
chấp nhận. Đến năm 1949, do tình hình phát triển và sự đòi hỏi cấp bách của phong
trào nông dân và của Hội Nông dân, Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định
thành lập Ban Nông vận Trung ương, rồi thành lập Ban Chấp hành Trung ương (lâm
thời) của Hội Nông dân Việt Nam. Sau đó, Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần
thứ nhất họp từ ngày 28-11 đến ngày 07-12-1949 tại Việt Bắc. Tuy cơ quan Trung
ương của Hội Nông dân chưa có nhưng Trung ương Đảng vẫn chỉ đạo phát triển tổ
chức Hội ở cơ sở. Từ ngày thành lập đến nay, để phù hợp với tình hình nhiệm vụ của
từng thời kỳ cách mạng, Hội Nông dân Việt Nam mang nhiều tên khác nhau (Năm
1930 là Nông Hội đỏ, năm 1936: Hội Nông dân phản đế, năm 1941: Hội Nông dân
cứu quốc, năm 1961: Hội Nông dân giải phóng (ở miền Nam), năm 1970: Hội Liên
hiệp Nông dân Việt Nam, năm 1974: Hội Nông dân tập thể Việt Nam và từ năm 1988
đến nay là Hội Nông dân Việt Nam). Tuy mang nhiều tên khác nhau, Hội Nông dân
Việt Nam vẫn luôn luôn là một tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp nông dân Việt
Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo. Hội đã làm nồng cốt
trong phong trào nông dân, góp phần to lớn cũng cố khối liên minh công – nông, vào
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

17


1.2. VAI TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN VÀ GIAI CẤP NÔNG DÂN
TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
ÄVai trò của Hội nông dân trong cách mạng Việt Nam.
Ở nước ta, nông dân chiếm đại đa số trong các tầng lớp dân cư, sống trải đều

ở nông thôn trên diện rộng lớn của mọi vùng miền đất nước, gắn với nghề nông
truyền thống.
Nông dân - nông thôn - nông nghiệp Việt Nam có vị trí cực kỳ quan trọng
trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Lịch sử và truyền thống của
nông dân Việt Nam gắn liền với lịch sử và truyền thống của dân tộc, của đất nước.
Từ khi có Đảng, vị trí và vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam càng được
khẳng định và phát huy mạnh mẽ. Ở mọi thời kỳ cách mạng, giai cấp nông dân Việt
Nam đều nằm trong “nền tảng liên minh” của khối đại đoàn kết dân tộc vượt qua
mọi hi sinh gian khổ, đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Cụ thể là trong Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ II tháng 3/1931 nhấn mạnh
''cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông Hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương
của Đảng, trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các tầng lớp nhân dân
đoàn kết đấu tranh, gương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa tô, thất nghiệp, chống
khủng bố trắng, chống chiến tranh'' [11]. Thực hiện Nghị quyết Trung ương II, các tổ
chức Nông hội được củng cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân.
Dưới sự lãnh đạo của Nông hội, phong trào nông dân diễn ra mạnh mẽ trong những
năm 1932 - 1935, 1936. Tháng 3/1937 Trung ương Đảng họp, đề ra đường lối chính
trị và phương pháp tổ chức mới và tên của các tổ chức. Tổ chức Nông hội thay Nông
hội đỏ. Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội khắp nơi
trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp lực
với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Hình thức tổ chức của Nông hội rất đa dạng: hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, hội
góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học quốc ngữ...đã thu hút đông đảo nông dân
đấu tranh giành quyền lợi của giai cấp mình.
Trong năm 1937, có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng
đất, đòi chia ruộng công, giảm tô, tức, khất thuế...Từ tháng l đến tháng 11/1938, có

18



125 cuộc đấu tranh của nông dân với 55.442 người tham gia. Hội nghị Trung ương 8
(5/1941), khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng
ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân
cày nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh); các đoàn thể lấy tên Cứu quốc [11].
Từ đầu năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
nông dân các dân tộc Cao Bằng đã tổ chức những đoàn thể cứu quốc đầu tiên. Sau đó,
nông dân từ các miền ngược đến miền xuôi nô nức tham gia vào các đoàn thể của
Mặt trận Việt Minh. Hội Nông dân cứu quốc là lực lượng to lớn của Mặt trận Việt
Minh, đồng thời nông dân còn chiếm đại đa số trong các tổ chức cứu quốc ở nông
thôn như: Thanh niên, phụ nữ cứu quốc…tạo nên một lực lượng chính trị rộng lớn, áp
đảo kẻ thù. Các tổ chức nông dân cùng với công nhân đã trở thành ''xương sống'' của
Mặt trận. Từ các bản làng heo hút ở vùng rừng núi Việt Bắc đại ngàn xuống đến vùng
châu thổ sông Hồng hay trong các thôn xóm, ấp của Trung kỳ, Nam kỳ, các đội tự vệ
cứu quốc mà lực lượng chủ yếu là thanh niên nông dân ưu tú đã lần lượt ra đời làm
nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng.
Trong năm 1941 - 1942, dưới sự lãnh đạo của nông hội, nông dân đã đấu tranh
chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu...Từ năm 1943, với
khẩu hiệu ''Đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật - Pháp''. Nông hội đã đưa nông dân
tham gia vào các phong trào sôi nổi với những hình thức như biểu tình chống Nhật,
vũ trang đánh Nhật...Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), phong trào ''Phá kho
thóc Nhật giải quyết nạn đói'' đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng lên đấu tranh trực
diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu quốc của nông dân càng
phát triển mạnh mẽ, nhiều châu, huyện góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng phần
đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ sở của
phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước bước vào cuộc Tổng
khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.
Thành công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là một minh chứng cho tinh
thần, khả năng và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với


19


giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó sống còn giữa Đảng với nông dân, nông dân với
Đảng.
Ở miền Bắc, trong điều kiện chiến tranh ngày càng lan rộng với mức độ gay
go ác liệt hơn, nhiệm vụ kháng chiến càng đòi hỏi phải động viên toàn thể nông dân
tham gia trên tất cả các mặt trận. Đảng ta chủ trương, thành lập Ban Chấp hành lâm
thời Hội Nông dân cứu quốc Trung ương, kiện toàn tổ chức ở cấp trung ương và cơ
sở.
Để thực hiện chủ trương trên, Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ
nhất được triệu tập từ ngày 20/11 đến ngày 7/12/1949 tại thôn Phong Vân, xã Tân
Tiến, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.[11]. Hội nghị thông qua đề án về chương
trình và hành động của Hội trong năm 1950 và những năm tiếp theo.
Đó là những chương trình lớn nằm trong nội dung của sáu cuộc vận động nông
dân: tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn
thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ.
Về tổ chức Hội Nông dân toàn quốc, Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thành
lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương (sau đổi tên thành Ban liên lạc nông dân toàn
quốc) Nhiệm vụ của Hội Nông dân cứu quốc toàn quốc là lãnh đạo phong trào nông
dân và tổ chức Hội các cấp. Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào nông dân và Hội
Nông dân Việt Nam, giai cấp nông dân có một tổ chức hội ở cấp trung ương, đáp ứng
nguyện vọng của nông dân.
Phong trào nông dân từ sau Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất có bước phát triển
mới, toàn diện và rất mạnh mẽ. Để tiếp tục đánh giá phong trào nông dân và tổ chức
Hội Nông dân, Ban liên lạc nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ
nông dân toàn quốc lần thứ hai vào tháng 3/1951. Hội nghị đã tập trung quán triệt
những nhiệm vụ mới của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nông dân và xây dựng
tổ chức Hội đáp ứng với những yêu cầu trước mắt. Với tinh thần ''Tất cả cho tuyền

tuyến, tất cả để chiến thắng'', nông dân cả nước hăng hái thanh gia ''Phong trào thi
đua ái quốc sản xuất lập công'' do Đảng và Chính phủ phát động. Hội Nông dân
trong các vùng địch tạm chiếm đã tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng
đất, láng xóm để sản xuất; lên án hành động bắn phá, phá hoại hoa màu của địch;

20


tranh thủ sản xuất, thu hoạch và cất dấu lương thực, thực phẩm vùng địch hậu, đã
đảm bảo được nhu cầu của nhân dân, đóng góp cho Nhà nước, phục vụ cho kháng
chiến.
Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thức dận Pháp, giai cấp nông dân
và Hội Nông dân đã đóng góp to lớn vào thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi của ta tại Hội nghị Giơ - ne - vơ năm 1954 về
Đông Dương mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Hoà bình
được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá
độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam ngày 21-4-1961, Hội nông dân giải phóng miền Nam ra đời, để
chống lại âm mưu và những thủ đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm, trong chỉ đạo phong
trào cách mạng miền Nam ở giai đoạn này, Đảng ta và Hội Nông dân giải phóng đã
khẳng định phá ấp chiến lược là một nhiệm vụ có tính cấp bách, đồng thời cũng là
nhiệm vụ lâu dài, cần phải phối hợp chặt chẽ ba mặt tiến công quân sự, chính trị và
binh vận với một kế hoạch tỉ mỉ, toàn điện.
Tháng 7-1965, Hội Nông dân giải phóng miền Nam đã ban hành dự thảo Điều
lệ hoạt động của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động của các cấp Hội cơ sở, phát
triển hội viên và động viên nông dân phát huy vai trò tích cực của mình trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cuối năm 1965, mặc dù chưa tổ chức Đại hội đại biểu Hội Nông dân toàn
miền Nam, song Hội Nông dân giải phóng miền Trung Trung Bộ đã mở Đại hội đại
biểu để tổng kết, đánh giá hoạt đông của Hội. Đại hội đã phát động phong trào ''ba

quyết thắng'' trong nhân dân: thi đua đánh thắng đế quốc Mỹ, thi đua tăng gia sản
xuất đóng góp cho cách mạng và thi đua xây dựng vùng nông thôn mới.
Nông dân trong các vùng giải phóng đã chịu đựng muôn vàn hy sinh gian khổ,
trụ bám không cho địch lập vành đai trắng, giữ vững địa bàn đứng chân cho bộ đội,
du kích bám địch. Đồng bào lấy hầm chống bom để làm nhà, dựng tạm thanh tre, lán
nứa che nắng, che mưa. Địch càn thì tháo dỡ địch rút đi thì che lại. Mọi công việc sản
xuất đều phải làm vào ban đêm.
Tháng 1 năm 1969, Hội nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành
Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nhân dân trong 8 năm, đồng thời

21


quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch
“bình định cấp tốc” của địch. Đại hội đã đề ra bốn nội dung công tác lớn của Hội là:
- Tiếp tục vận động nông dân đấu tranh giành quyền làm chủ, bảo vệ và xây
dựng chính quyền cách mạng.
- Đẩy mạnh nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, phát triển du kích chiến tranh, đẩy
mạnh 3 mũi đấu tranh: chính trị, binh vận, vũ trang để phá tan kế hoạch “bình định”,
lấn chiếm của địch.
- Giữ vững quyền làm chủ về ruộng đất, thực hiện các quyền dân sinh, dân
chủ, đẩy mạnh sản xuất phục vụ tiền tuyến.
- Đối với vùng tạm chiếm, cần vận động kết nạp từ 20-30% hộ nông dân vào
Hội, vùng tranh chấp từ 40-50%, vùng mới giải phóng từ 50-60%, vùng giải phóng cũ
từ 60-80%.
Là tổ chức chính trị của giai cấp nông dân miền Nam, Hội nông dân giải
phóng miền Nam đã kế thừa truyền thống cách mạng của “Hội nông dân phản đế”,
“Hội nông dân cứu quốc” và trở nên dày dạn kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Những kinh nghiệm hoạt động phong phú của các cấp Hội
nông dân giải phóng miền Nam và những hy sinh to lớn của cán bộ Hội trong suốt

cuộc kháng chiến đã góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang của cả dân tộc, đồng thời
cũng khẳng định vị trí, vai trò to lớn của tổ chức Hội đối với toàn bộ sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Ä Vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng Việt Nam theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp nông dân có lực lượng đông đảo nhất, chiếm phần
lớn dân số xã hội, nhưng quan trọng hơn, họ có mối thù sâu nặng với bọn thực dân,
bọn địa chủ phong kiến phản động, những kẻ đã tước đoạt ruộng đất, hành hạ, áp bức
họ như những con súc vật, bóc lột họ đến tận xương tủy. Do đó theo Người, khi tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với cách mạng dân chủ để giải
phóng nông dân. Chỉ có một cuộc cách mạng như vậy mới lôi kéo được nông dân
tham gia và giành thắng lợi.
Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng ấy, thì phải tổ chức nhau
để kiếm đường giải phóng. Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước

22


nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được
quần chúng nông dân ủng hộ tích cực. Cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu như những
làn sóng cách mạng lay động được quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản.
Lịch sử đấu tranh của nông dân trên khắp thế giới minh họa một cách phong
phú con đường mà phong trào du kích dần dần tự chuyển thành một lực lượng
nghiêm chỉnh; thành một lực lượng có khả năng cung cấp những người lãnh đạo đích
thực, thực hiện những nhiệm vụ cách mạng có tầm quan trọng lớn lao.
Đảng ta phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng tập
hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và
phong kiến. Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và

nông dân cho một giai cấp nào khác.
Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt
phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn,
sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh.
Muốn đánh thắng thì quân và dân ta phải ăn no. Muốn ăn no thì phải có nhiều
lương thực. Muốn nhiều lương thực thì phải cày cấy nhiều. Phải chịu khó bón phân,
làm cỏ“Thực túc thì binh cường”.Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công
thì đồng bào ở hậu phương phải thi đua tăng gia sản xuất.
Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương.
Đa số dân ta là nông dân. Mọi việc đều phải dựa vào nông dân. Nông dân giác
ngộ hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng lợi, kiến quốc mới chóng thành công,
nông dân mới được giải phóng…
Giai cấp nông dân: Nông dân là tối đại đa số trong nhân dân nước ta, là bộ
phận chủ chốt trong đội ngũ cách mạng, là giai cấp đóng góp nhiều nhất trong kháng
chiến… Nông dân lao động đã thành cột trụ của chính quyền ở nông thôn, do đó mà
nhân dân chủ chuyên chính và công nông liên minh trở nên vững chắc.

23


×