TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
----- -----
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẢNG BỘ TỈNH SÓC TRĂNG TĂNG CƯỜNG XÂY
DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT GIỮA BA DÂN TỘC KINH,
KHMER, HOA TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐẤT
NƯỚC (TỪ NĂM 1992 – 2011)
Ngành học: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Duy Khánh
MSSV: 6086459
Lớp: ML0868A1
Cần Thơ – 5/2012
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................. 7
7. Kết cấu đề tài ............................................................................................................... 7
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 8
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN,
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC....................................................................................................................... 8
1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết dân tộc........................... 8
1.2. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc .................................. 10
1.3. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc ............... 22
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH SÓC TRĂNG TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY
DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT GIỮA ĐỒNG BÀO BA DÂN TỘC KINH,
KHMER, HOA TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (1992 – 2011) ........ 34
2.1. Khái quát chung về tỉnh Sóc Trăng ......................................................................... 34
2.1.1. Vị trí địa lý, kinh tế – xã hội tỉnh Sóc Trăng................................................ 34
2.1.2. Vài nét về dân cư ở tỉnh Sóc Trăng ............................................................. 36
2.2. Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trước năm 1992 .................. 44
2.3. Chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng về tăng cường xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc ....................................................................................................... 52
2.3.1. Yêu cầu tất yếu phải tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc........... 52
2.3.2. Chủ trương của Đảng bộ Sóc Trăng ............................................................. 57
2.4. Quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả đạt được...................................................... 63
2.4.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện.......................................................................... 63
2.4.2. Kết quả đạt được.......................................................................................... 73
2.5. Kinh nghiệm rút ra qua quá trình tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
của Đảng bộ Sóc Trăng.................................................................................................. 83
2.5.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp là Đảng bộ
Sóc Trăng về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc .......................................................... 83
2.5.2. Nâng cao nhận thức về đại đoàn kết toàn dân về vấn đề dân tộc, tôn giáo
của Đảng........................................................................................................................ 84
2.5.3. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân,
xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước................... 85
2.5.4. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí,
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc.............................................................................................................. 86
2.5.5. Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc ........ 87
2.5.6. Tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền................................................... 88
2.5.7. Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong việc hoạch định và thực
hiện chính sách đối với các tầng lớp .............................................................................. 88
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 92
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đoàn kết là một truyền thống quý báu, nổi bật của dân tộc Việt Nam, một bài học
lịch sử vô giá trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tiếp thu
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó
kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [20; tr. 9]. Đó là chân lý, là
phương châm hành động, là động lực chủ yếu và to lớn của đất nước ta qua những khó
khăn trong lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, truyền thống quý báu, chân lý sáng ngời ấy luôn xuyên suốt trên con
đường cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta có những nét đặc thù. Đó là cuộc sống xen
kẽ mọi thành phần dân cư trong một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo hoàn toàn không
phân biệt. Đó là những cuộc chiến kéo dài không cân sức để chống chọi với thiên tai
khắc nghiệt và chống các cuộc xâm lược của đế quốc thực dân. Quá trình vật lộn với
thiên nhiên, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược là quá trình lịch sử các dân tộc Việt Nam
gắn bó với nhau ngày càng vững chắc, tạo nên một sức mạnh mà kẻ thù phải kiên nể
và nhân dân thế giới đều mến phục. Quá trình lịch sử đó giữa các dân tộc đa số cũng
như dân tộc thiểu số ở nước ta luôn luôn có sự hòa nhập gắn bó keo sơn với nhau. Đó
còn là giá trị văn hóa lâu đời bền vững của dân tộc Việt Nam. Dân tộc ta hiểu rõ giá trị
của sự đoàn kết và quyết tâm làm tất cả những gì có thể làm được để củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc, kiên quyết chống lại những gì phá hoại hoặc làm xói mòn, làm suy
yếu khối đoàn kết, vì lịch sử đã cho chúng ta bài học quý giá: “Đoàn kết thì sống, chia
rẽ thì chết”.
Trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc, phải ra sức giải thích, tuyên truyền,
tổ chức, lãnh đạo làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành
vào công việc yêu nước, sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Đoàn kết là
điểm mẹ, điểm này thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Thực tiễn cách mạng
nước ta từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đã chứng minh sức sống
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 4
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại của quan điểm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trên
cơ sở đó Đảng bộ Sóc Trăng đã quán triệt sâu sắc trong đường lối cách mạng của tỉnh,
là kim chỉ nam cho mọi hành động trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là từ Đại hội VI
(6/1986) của Đảng đến nay trước những đòi hỏi mới của sự phát triển cách mạng nước
ta dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng đã có nhiều đổi mới
trong chính sách dân tộc và công tác dân tộc. Tuy nhiên việc đổi mới vẫn còn nhiều
bất cập trước đòi hỏi của tình hình mới. Vấn đề dân tộc luôn là vấn đề nhạy cảm và dễ
bùng nổ trong lịch sử nhân loại. Trong âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta
các thế lực đế quốc và phản động đang ráo riết lợi dụng chính sách mở cửa, đổi mới
của Đảng bộ Sóc Trăng để xâm nhâp vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm
chia rẽ, kích động quần chúng nhân dân chống lại chính sách của Đảng và Nhà nước
ta, chống phá khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ra sức xây dựng. Trong
bối cảnh đó, để ổn định tình hình chính trị, thực hiện được mục tiêu củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc, phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ Sóc Trăng cần
phải đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng thời vận
dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc.
Sóc Trăng là một tỉnh có tỷ lệ đồng bào dân tộc ít người khá đông so với nhiều
tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài người Việt chiếm đa số, người Khmer và
người Hoa chiếm khoảng 35% dân số, trong lịch sử cũng như hiện tại, các dân tộc ở
Sóc Trăng có mối quan hệ mật thiết, cũng như có một vai trò quan trọng. Sóc Trăng
còn được xem là một trong những vựa lúa lớn của vùng đồng bằng Nam Bộ. Sự nghiệp
xây dựng và phát triển của Sóc Trăng trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
không thể không quan tâm vấn đề đoàn kết các dân tộc. Nhìn nhận vấn đề đoàn kết các
dân tộc sẽ giúp vào việc định hướng phát triển của Sóc Trăng một cách tích cực hơn.
Với tính cấp thiết và tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, nên tác giả nghiên cứu và
quyết định chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng tăng cường xây dựng khối đại
đoàn kết giữa ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa trong quá trình đổi mới đất nước
(Từ năm 1992 – 2011)” làm luận văn tốt nghiệp.
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 5
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu khoa học: “Thực hiện chiến
lược đại đoàn kết toàn dân ở đồng bằng sông Cửu Long trong sự nghiệp đổi mới đất
nước” của tác giả Phạm văn Búa, “Đảng bộ các tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc
đổi mới” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hương, “Quá trình phát triển tư duy chiến lược
đại đoàn kết dân tộc của Đảng trong sự nghiệp đổi mới” của tác giả Đinh Ngọc Quyên,
Phạm văn Búa…
Điểm mới của đề tài là tìm hiểu sự vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng trong thời kỳ đổi mới, giai đoạn từ khi tái lập tỉnh Sóc
Trăng năm 1992 đến hết năm 2011.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam về đoàn kết dân tộc và sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ Sóc Trăng về
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Xây dựng chuyên đề cho tác giả nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy sau tốt
nghiệp. Luận văn góp phần nhỏ trong tư liệu tham khảo lĩnh vực đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhằm tích lũy kinh nghiệm và nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học cho tác
giả khi còn ngồi trên ghế nhà trường và sau tốt nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung tìm hiểu quá trình Đảng bộ Sóc Trăng đã lãnh đạo và chỉ đạo
tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc giữa ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa ở
tỉnh Sóc Trăng.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: tỉnh Sóc Trăng; về thời gian: giai đoạn từ
khi tỉnh Sóc Trăng tái lập năm 1992 đến hết năm 2011.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin về đoàn kết dân tộc; tư
tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đại đoàn kết dân tộc; sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 6
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
– Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam của Đảng bộ Sóc Trăng trong tăng
cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; làm rõ quá trình thực hiện, kết quả đạt
được và kinh nghiệm rút ra trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của
Đảng bộ Sóc Trăng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Thế giới quan chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp luận biện
chứng duy vật.
Phương pháp cụ thể: Phương pháp lịch sử, logic, tổng hợp, so sánh, thống kê, đối
chiếu để nghiên cứu vấn đề.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 2 chương 8 tiết.
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 7
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN,
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết dân tộc
Khi bàn luận đến vấn đề đoàn kết dân tộc, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng
cách mạng không của riêng một cá nhân hay tổ chức nào, mà là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách
mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công – nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to
lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thì “phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”. Luận điểm này chứa đựng quan
niệm về sự thống nhất lợi ích của giai cấp vô sản với lợi ích của nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Giai cấp vô sản cần nhận thức rằng “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người làm ra lịch sử”. Vì vậy không những “giai cấp vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại” mà còn phải “giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại” [1; tr. 68, 69].
Chủ nghĩa Mác – Lênin còn chỉ ra rằng phải lấy liên minh công – nông làm cơ sở
để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, xây dựng lực lượng đoàn kết dân tộc.
Nhiệm vụ của những người cộng sản là cải tạo thế giới và giải phóng dân tộc
dưới sự lãnh đạo của đảng, của giai cấp công nhân. Vì vậy, đoàn kết dân tộc phải gắn
liền với đoàn kết quốc tế, tập hợp lực lượng từng bước và lực lượng cách mạng, tiến
bộ toàn thế giới [1; tr. 68, 69].
Trong nội dung Cương lĩnh Dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin kêu gọi liên hiệp
công nhân tất cả các dân tộc. Đây là một chiến lược cách mạng, phản ánh sự thống
nhất về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Là tư tưởng cơ
bản trong cương lĩnh.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại là cơ sở đảm bảo cho sự đoàn
kết nhân dân lao động các nước, các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc.
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 8
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà
còn là mục tiêu phấn đấu lâu dài để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, đồng thời tạo ra sức mạnh để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế
giới của mình.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khi nói về đại đoàn kết dân tộc cần thực hiện tốt việc đại
đoàn kết quốc tế vô sản.
Đặc biệt là quan niệm coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; quần chúng
nhân dân vừa là người làm nên lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử do chính mình làm
ra... nhất là khẩu hiệu về chiến lược đoàn kết cách mạng “Vô sản tất cả các nước, liên
hiệp lại” nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) và được Lênin phát triển
cho phù hợp với thời đại của mình “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên
hiệp lại” [33; tr. 167].
Theo quan điểm của Các Mác và Ăngghen: sự thành công của phong trào công
nhân trong mỗi nước chỉ có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự
tổ chức.
Lênin thì đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững
chắc trong đảng. Người cho rằng: sự đoàn kết thống nhất trong đảng bắt nguồn từ bản
chất của giai cấp công nhân và đó là nguồn gốc sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng.
Để phát huy sức mạnh vô địch và vô tận đó, cần phải đấu tranh, thanh trừ chủ nghĩa cơ
hội, cải lương và chủ nghĩa bè phái. Trong bài viết Lại bàn về công đoàn, về tình hình
trước mắt, Lênin đã khẳng định: một điều rõ ràng là trong một nước đang thực hiện
chuyên chính vô sản, thì một sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa Đảng
của giai cấp vô sản với quần chúng vô sản, không phải chỉ là nguy hiểm mà còn là cực
kì nguy hiểm….
Chỉ ra sự cần thiết của khối liên minh như vậy, Lênin cho rằng nếu không có sự
đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó là giai
cấp vô sản thì cách mạng không thể thực hiện được. Ông còn viết, giai cấp vô sản còn
cần có sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân lao động khi giai cấp vô sản đã giành được
chính quyền và ngay cả khi đang nắm chính quyền; bởi trong mỗi thời kỳ cách mạng
sự tham gia của quần chúng vào thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng thể hiện
trong các hình thức khác nhau. Có thể nói vai trò của nhân dân trong lịch sử và vị trí
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 9
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
của đoàn kết trong cách mạng vô sản là một trong những cơ sở lý luận quan trọng để
Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc trong các điều
kiện cụ thể, ở từng giai đoạn cụ thể của cách mạng Việt Nam.
1.2. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Khi nói về vị trí của đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh có
nói: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình” [33; tr. 173].
Thứ nhất, đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng.
Coi đoàn kết là chiến lược, quyết định thành công của sự nghiệp mạng rất to lớn
nên những người làm cách mạng phải đoàn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó.
“Người mình đã làm cách mạng nhiều rồi mà chưa thành công trước hết bởi vì thiếu
đoàn kết với nhau. Khi xâm lược nước ta thực dân Pháp dùng âm mưu chia để trị, vì
vậy, chỉ có đại đoàn kết mới đánh bại được âm mưu chia rẽ của kẻ thù, chỉ có đoàn kết
nước ta mới giành được độc lập” [33; tr. 175]. Đó là tư tưởng về việc xây dựng và
củng cố, mở rộng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt cuộc đời hoạt động
của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư
tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong quá trình cách mạng Việt Nam. Đó là
chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to
lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp chung
của quần chúng nhân dân đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của
riêng Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo để nhân dân tự đứng lên đấu tranh tự giải phóng
và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy có thể thực hiện bằng sức
mạnh của cả dân tộc. Theo quan điểm của Người, đại đoàn kết dân tộc là một trong
những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Theo
Người muốn có lực lượng phải thực hành đoàn kết. Trong sự nghiệp cách mạng dân
chủ nhân dân đoàn kết tạo nên sức mạnh để đánh thắng kẻ thù, thì trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa, đoàn kết sẽ làm nên thành công to lớn. Trong công cuộc
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 10
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
xây dựng xã hội mới, sự giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng ta phải tự lực cánh
sinh. Bởi vậy đoàn kết là một vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn, lâu dài, quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết phải điều chỉnh
chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau,
nhưng đại đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ
Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” [26; tr. 392].
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công” [28; tr. 22, 154].
Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt...”
[28; tr. 22, 154].
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công” [27; tr. 392].
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt
Nam. Đoàn kết là tư tưởng chỉ đạo, là bài học hàng đầu được quán triệt trọng sự chỉ
đạo của Đảng ở mọi thời kỳ cách mạng. Ngày 03/3/1951, trong lời kết thúc buổi ra mắt
của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể
dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là:
“ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” [25; tr. 183]. Nói chuyện với
cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách
mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là phải làm sao cho
các đồng bào dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là, làm cách mạng hay
kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn
luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống
nhất nước nhà” [31; tr. 184].
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà
còn là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy đoàn kết là đòi hỏi khách
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 11
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
quan của bản thân quần chúng nhân dân, trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự
nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập
hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh bản thân từ “đại” đã nói rõ. “Là
đoàn kết rộng rãi, càng rộng rãi càng tạo nên sức mạnh. Đối tượng đại đoàn kết theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là giữa con người với nhau, dù con người ấy có tiếng nói nào, da
màu gì, vị trí xã hội, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Ngay cả những người trước kia
không đoàn kết nay biết đoàn kết lại vẫn chấp nhận. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh là tư tưởng mang tính cách mạng, nhân bản, vị tha để tập hợp mọi lực lượng cần
tập hợp cho cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh coi nhiệm vụ đánh đuổi giặc ngoại xâm,
đánh đổ phong kiến, giành độc lập tự do cho dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng đất
nước giàu đẹp là nhiệm vụ của toàn dân. Ngày 6/6/1941 Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu
gọi đồng bào cả nước, trong thư Người viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu nước là
việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề phần vai gánh vác một phần trách
nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có
tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng
bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề” [21; tr. 85].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm “Dân”, “Nhân dân” có nội hàm rất
rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người
con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín
ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt “già trẻ, trai gái, giàu nghèo,
quý tiện”. Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được
hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân
tộc. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức có
lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [31, tr. 185]. Ta ở
đây vừa là Đảng, vừa là mọi người dân của Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 12
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người. Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm đường lạc lối nhưng
đã biết hối cải thì chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà không
định kiến, khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay ngón dài, ngón
ngắn, nhưng cả năm ngón tay đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải
đoàn kết rộng rãi, trong thư viết ngày 31/5/1946 Hồ Chí Minh nói rõ: “Tôi khuyên
đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài.
Nhưng vắn, dài đều hợp nhau nơi bàn tay. Trong mấy triệu người thì cũng có người
thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta
phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít
nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lầm lối lạc đường, ta phải lấy tình thân ái
mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc
sẽ vẻ vang” [29; tr. 246, 247].
Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không
chống nữa, khối đại đoàn kết dân tộc vẫn mở cửa đón họ. Người đã nhiều lần nhắc
nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù
những người đó trước đây chống đối chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết
với họ” [31; tr. 186]. Với tấm lòng độ lượng, bao dung, Người tha thiết kêu gọi tất cả
những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính
kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước.
Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải
thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điển đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi
như trên là vì người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít
hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi
bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước được bộc lộ.
Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 13
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
độc lập và thống nhất Tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải
được xây dựng từ hôm nay cho đến mãi mãi mai sau.
Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm nhiều chục triệu con người. Muốn
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về
điều này Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân và nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng
đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết tốt các tầng lớp nhân dân khác” [31; tr.
187]. Người còn phân tích sâu hơn đâu là những lực lượng nòng cốt tạo nên cái nền
tảng ấy, hay cũng có thể nói đâu là nền tảng của cái nền tảng ấy: “Lực lượng chủ yếu
trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng
của Mặt trận Dân tộc thống nhất” [31; tr. 187]. Về sau người nêu thêm: lấy liên minh
công – nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh của nhân dân
trong khối đại đoàn kết dân tộc. Coi nhân dân là nguồn gốc của sức mạnh, Người
khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng dân, trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đầu thế kỷ XX nước ta đang dưới chế độ bạo
tàn của thực dân Pháp “Hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa” Hồ
Chí Minh chỉ ra “Cách mạng thì sống, không cách mạng thì chết. Cách mạng là việc
chung của dân chứ không phải việc của một hai người”. Tập hợp nhân dân dưới sự chỉ
đạo của Đảng là nguyên nhân chính của mọi thắng lợi của cách mạng, khi nói về thắng
lợi của cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nói: “Nhất là vì lực lượng của toàn dân
đoàn kết, tất cả các dân tộc các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo
lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực
lượng vĩ đại hơn hết không ai chiến thắng được lực lượng đó. Khi nói về công việc
kháng chiến kiến quốc, Người hỏi: Ai thực hiện kháng chiến kiến quốc? Và trả lời:
“Trong cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”. Cái vĩ đại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là đã nhìn thấy ở nhân dân lực lượng, quyết định thắng lợi của cách
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 14
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
mạng, Người nói: “Nước lấy dân làm gốc, dân chúng là gốc của cách mạng, có lực
lượng của dân việc to tát mấy khó khăn mấy cũng làm được lý tưởng cách mạng đã đi
vào lòng của đông đảo nhân dân thì biến thành sức mạnh vật chất, không máy bay, đại
bác nào chống lại được”. Và cái vĩ đại của Hồ Chí Minh là đã tìm thấy những hình
thức tốt nhất để tổ chức nhân dân. Người đã sáng lập ra Mặt trận Dân tộc thống nhất
để đoàn kết toàn dân, sáng lập ra mặt trận vũ trang nhân dân từ nhân dân mà ra, ngay
từ đầu khói lửa của cuộc kháng chiến từ Trung ương đến cơ sở đều do nhân dân bầu
ra, vì nhân dân phục vụ [8; tr. 32, 33].
Thứ tư, sức mạnh dân tộc được tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, mà ở
những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu
hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành
lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận
Dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thế, quần
chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người chỉ là một số đông không có
sức mạnh. Thất bại của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rõ đều này.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý việc đưa
quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với giai tầng, từng giới,
từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo; hơn nữa còn phù hợp với từng bước
phát triển của phong trào cách mạng. Đó là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay
nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội
Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn... Và bao trùm nhất là
Mặt trận Dân tộc thống nhất, nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi
con dân nước Việt, không phải chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về
quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận Dân tộc thống nhất có
thể có những tên gọi khác nhau như: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 15
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
(1936), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955) (1976) nhưng
thực chất đó chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng
lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài
nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân. Mặt trận phải có cương lĩnh điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những
nguyên tắc sau:
- Là thực thể của tư tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận Dân tộc
thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông (về sau Người thêm
là liên minh công – nông – lao động trí óc), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ
đó mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được
toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất
lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố
và không ngừng mở rộng.
- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Tại Đại hội Mặt trận Việt Minh – Liên Việt (3/1951), Người nêu rõ:
“Trong Đại hội này chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, già
có, trẻ có, nam có, nữ có thật là một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng sau cuộc
Đại hội mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân” [21; tr. 190].
Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận (8/1962),
Người yêu cầu: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân... Phải đoàn
kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực
hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc
anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và
đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ
quốc” [21; tr. 191].
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 16
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Thứ năm, Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận Dân tộc thống nhất,
vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng
vững chắc.
Đảng ra đời trong đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đảng gồm những người tiến tiến, ưu tú của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động của các dân tộc. Đảng muốn hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình phải gắn bó
máu thịt với nhân dân. Đảng là tổ chức chính trị cao nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận, và là một thành viên của Mặt trận
Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh phân tích cặn kẽ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận
thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra một bộ phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần
chúng thừa nhận rộng rãi chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng
mới giành được địa vị lãnh đạo” [23; tr. 139].
Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách đúng đắn của Mặt trận.
Chính sách đúng đắn là cơ sở, là căn cứ tập hợp đoàn kết nhân dân. Đảng lãnh đạo Mặt
trận – thực hiện theo nguyên tắc Mặt trận: hiệp thương dân chủ, phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện...
Người viết: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ
và đảng viên không được tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại
phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người... Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm
như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều” [24; tr. 19, 20].
Thứ sáu, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Người khẳng định:
yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân.
Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh xác định: “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [22; tr. 267, 268].
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 17
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Từ đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới càng
được làm rõ hơn và đầy đủ hơn. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản.
Đó là nước Nga Xô viết, là Liên Xô và sau này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Đó là phong trào đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội của nhân dân trên thế giới. Người đặc biệt coi trọng khối đại đoàn kết Việt –
Miên – Lào, ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế
quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba Mặt trận:
Một là, Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Hai là, Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Ba
là, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết
dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc
là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì đại đoàn
kết quốc tế cũng là nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả
nước lên quá độ chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới”, “Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với
phong trào cách mạng thế giới”. Người là hình mẫu của những hoạt động không mệt
mỏi vì sự đoàn kết giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản và các dân tộc trên thế giới.
Nêu cao tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh không
những được cả nước tôn vinh là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam
mà còn được thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới, danh
nhân văn hóa nhân loại.
– Quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số
Trong quá trình xây dựng và vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến hành
đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh thường xuyên dành tâm sức thực hiện đoàn kết giữa
đồng bào dân tộc đa số với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập trong khi còn bề bộn công việc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt đến đại biểu các dân tộc thiểu số. Khi tiếp đoàn
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 18
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang ngày 23/11/1945, Người đã nói: “Bao
giờ bọn Pháp không trở lại được nữa, đồng bào Kinh sẽ rãnh rang giúp đồng bào Thổ,
Mán như sẽ giúp cho các dân tộc nhỏ khác được có đủ ruộng làm, đủ trâu bò cày...
đồng bào Kinh và Chính phủ rất thương mến đồng bào Mán, Thổ coi như anh chị em
trong một nhà”. Trong bức thư gửi đồng bào Đông Bắc ngày 20/3/1946, Người bày tỏ
sự chân thành: “Tuy hiện nay tôi ở Hà Nội xa cách với đồng bào nhưng không bao giờ
tôi quên được các đồng bào. Tôi luôn nhớ đến lòng yêu mến và sự giúp đỡ của các
đồng bào trong những ngày tôi ở thượng du” [18; tr. 20].
Trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta, các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 13%
dân số cả nước, hầu hết các đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở vùng núi và cao
nguyên, trừ một vài dân tộc như Khmer, Hoa... sinh sống ở đồng bằng các đô thị. Đại
đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là nhân tố quan trọng hàng
đầu đảm bảo cho cách mạng thành công. Bởi vậy, trong những bài viết, bài nói hoặc
thư gửi các đồng bào dân tộc, tư tưởng đầu tiên ở Hồ Chí Minh là tất cả các dân tộc
sống trên lãnh thổ Việt Nam đều là con một nhà, Hồ Chí Minh nhiều lần sử dụng cụm
từ “con Rồng cháu Tiên” để nói lên mối quan hệ máu thịt giữa các dân tộc sống trên
đất nước ta. Sau khi giành được chính quyền, dù công việc bộn bề, chính quyền non
trẻ phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt nhưng ngày 3/12/1945
dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Đại hội lần thứ nhất các dân tộc thiểu số đã được tổ
chức. Tại Hội nghị các dân tộc thiểu số Việt Nam, Người chỉ rõ: “Nước Việt Nam nay
được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng các dân tộc Việt Nam, tất cả
đều như anh em ruột trong nhà... Chính phủ sẽ giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi
mặt” [54; tr. 31].
Sự cần thiết đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số được Hồ Chí Minh thể hiện
đặc biệt sinh động và có sức truyền cảm lớn qua thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số
miền Nam tại Plây Cu. Người luôn coi các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam
đều là anh em một nhà, là thành viên không thể chia cắt của đại gia đình dân tộc Việt
Nam. Chưa đầy một năm sau, ngày 19/4/1946, do điều kiện chủ quan lẫn khách quan,
Người không thể đến dự, nhưng với tình cảm thắm thiết của mình, Bác Hồ đã gửi đến
Đại hội một bức thư. Trong thư Người vạch rõ những âm mưu thâm độc của bè lũ đế
quốc, phong kiến và nêu cao tinh thần đoàn kết của đồng bào các dân tộc. Người nêu
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 19
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
rõ: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na
và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Sông có thể cạn, núi có
thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt” [21; tr. 293].
Để thực hiện sự đoàn kết giữa các dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên đồng bào
các dân tộc phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, xóa bỏ những bất đồng, mặc cảm, tôn
trọng và có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc. Năm sau, ngày 26/02/1947, Người
lại có thư “Gửi đồng bào thượng du” (Thanh Hóa). Thư viết: “Trong cuộc kháng chiến
cứu quốc này, đồng bào thiểu số đã tỏ lòng nồng nàn yêu nước... Tôi thay mặt Chính
phủ cảm ơn đồng bào và trân trọng hứa rằng: Đến ngày kháng chiến thành công, Tổ
quốc và Chính phủ sẽ luôn luôn ghi nhớ những công lao của đồng bào...” [18; tr. 26].
Trong thời kỳ đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ thù chung của đồng
bào các dân tộc là, đói nghèo, lạc hậu, Hồ Chí Minh xác định: “Đồng bào tất cả các
dân tộc không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt
chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa
xã hội làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc ấm no” [30; tr. 282]. Đoàn kết và
thực hiện đoàn kết có yêu cầu rất cao về nghệ thuật vận động, tổ chức, chỉ đạo. Điều
này càng đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện xã hội Việt Nam – một xã hội nông
nghiệp lạc hậu, dân cư thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau, trình độ dân trí thấp,
nhất là khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số.
Để thực hiện đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu bốn nguyên tắc sau:
Một là, đoàn kết các đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
của cách mạng Việt Nam. Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam thì việc nhận
thức và giải quyết vấn đề dân tộc luôn mang tính chiến lược và có ảnh hưởng sâu sắc
tới sự thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh coi sự đoàn kết đồng bào các dân tộc
thiểu số không chỉ là vấn đề được đặt ra trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn là
vấn đề cần được chú trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh đoàn kết đồng
bào các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc không những phát huy vai trò quan
trọng trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai giành độc lập
thống nhất đất nước mà vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng xã hội mới
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 20
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
hướng tới xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu và ngăn cách giữa các dân tộc, đồng thời mang lại
hạnh phúc mang lại ấm no, và sự tiến bộ văn minh cho tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh
nêu: “Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến thì nhiệm vụ tuyên huấn là
làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu được mấy việc: Một là, đoàn kết; Hai là,
làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập... Bây giờ mục đích tuyên truyền, huấn
luyện là: Một là, đoàn kết; Hai là, xây dựng chủ nghĩa xã hội; Ba là, đấu tranh thống
nhất nước nhà” [21; tr. 296, 297], thì điều này cũng có ý nghĩa: đoàn kết đồng bào các
dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam là yêu cầu xuyên suốt trong
cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, đoàn kết các dân tộc thiểu số phải xuất phát từ tình cảm yêu thương của
con người ruột thịt. Tình yêu thương ruột thịt là tình cảm đặc biệt mạnh mẽ và sâu
nặng của con người. Nó gắn kết con người một cách chặt chẽ và sâu đậm về tình cảm
và trách nhiệm trên cơ sở ý thức về sự chung một huyết thống. Trong quan niệm của
Hồ Chí Minh đồng bào các dân tộc Việt Nam đều là anh em một nhà và tình cảm giữa
đồng bào các dân tộc là tình yêu thương ruột thịt. Để xứng đáng với tình cảm cao quý
này, đồng thời để giữ gìn và phát huy cơ sở thuận lợi của việc thực hiện đoàn kết đồng
bào các dân tộc, theo Hồ Chí Minh, đồng bào “phải thương yêu nhau, phải kính trọng
nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu của chúng
ta [21; tr. 297].
Ba là, đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số phải được thực hiện trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các dân tộc. Khi coi đồng bào các dân tộc là
anh em một nhà, Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các dân tộc, Người coi sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ là chất men gắn kết
các đồng bào các dân tộc lại với nhau. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng và Chính phủ
ta luôn kêu gọi các dân tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng
nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [21; tr. 298].
Theo Người, quyền lợi lớn nhất mà đồng bào các dân tộc được hưởng là sau khi thoát
khỏi gông xiềng của thực dân đế quốc, được sống dưới chế độ dân chủ mới, “đồng bào
các dân tộc đều là người chủ nước nhà” [21; tr. 298]. Đồng thời đồng bào các dân tộc
cũng có nghĩa vụ: trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ đoàn kết và tích cực đấu
tranh để giành quyền độc lập và các quyền tự do dân chủ; trong thời kỳ cách mạng xã
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 21
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
hội chủ nghĩa đoàn kết và hăng hái tham gia xây dựng nước nhà, cùng nhau tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số phải được thực hiện rộng rãi với
những tầng nấc thích hợp. Tháng 3/1964 nói chuyện tại tại Hội nghị cán bộ phụ nữ
miền núi, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần
phải đoàn kết chặt chẽ thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn
kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi.
Tất cả các dân tộc miền núi và miền xuôi phải đoàn kết như anh em, chị em trong một
nhà” [21; tr. 299].
Người nhấn mạnh: “Phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
tự ti dân tộc. Người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kêu ngạo cán bộ địa phương, nhân dân
địa phương lại cho mình là dân tộc nhỏ bé, tự ti cái gì cũng cho là mình không làm
được, rồi không cố gắng” [21; tr. 299].
Đối với cán bộ, đảng viên tổ chức đảng và chính quyền các cấp, Hồ Chí Minh chỉ
ra rằng: “Trung ương Đảng và Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các ủy ban
địa phương làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc”
[21; tr. 299]. Đây là trách nhiệm của tổ chức đảng và chính quyền các cấp, xuất phát từ
phương châm: chế độ ta là chế độ dân chủ và cán bộ từ Trung ương cho đến tỉnh,
huyện, xã là đầy tớ của nhân dân, không phải là “quan cách mạng”. Có quan tâm,
chăm lo và mang lại lợi ích cho đồng bào các dân tộc thì mới thuyết phục và đoàn kết
được đồng bào.
1.3. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc
Trước hết, trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II (1951) thông qua, tại Đại hội Đảng đã đưa ra chính sách,
quan điểm về đoàn kết dân tộc thông qua Mặt trận Dân tộc thống nhất:
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam đoàn kết tất cả mọi đảng phái, mọi đoàn
thể và mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc tôn giáo, nam nữ để
cùng nhau kháng chiến kiến quốc. Nó ủng hộ chính quyền bằng cách động viên và
giáo dục nhân dân thi hành mệnh lệnh chính quyền cũng như bằng cách đề đạt ý kiến,
nguyện vọng của nhân dân lên chính quyền. Mặt trận Dân tộc thống nhất lấy liên minh
công nông và lao động trí thức làm nòng cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 22
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Kế thừa Cương lĩnh của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (6/1986), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: “Đảng cần tiếp tục phát huy truyền
thống đoàn kết và đấu tranh cách mạng kiên cường, dũng cảm của các dân tộc thiểu số
ở nước ta nhằm củng cố và nâng cao thêm một bước khối đoàn kết các dân tộc, hướng
vào việc xây dựng miền núi giàu mạnh, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và mục tiêu cách
mạng do Đại hội đề ra. Tăng cường việc giáo dục chính sách dân tộc trong cán bộ,
đảng viên, trong quân đội và đồng bào cả nước, nâng cao cảnh giác, kịp thời vạch trần
và làm thất bại âm mưu, hành động của kẻ thù chia rẽ dân tộc. Có quy hoạch và kế
hoạch tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nhất là các cán bộ dân tộc
thiểu số ở vùng cao, biên giới và một số vùng ở miền Nam [12; tr.12].
Đảng và Nhà nước trước sau như một, thực hành chính sách tôn trọng tự do tín
ngưỡng. Lãnh đạo và giúp đỡ đồng bào theo tôn giáo đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc. Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại
âm mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và phản động chia rẽ đồng bào có đạo với không
có đạo, giữa đồng bào theo đạo này với đồng bào theo đạo khác.
Người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đang hình thành một cộng đồng vừa hòa
nhập vào xã hội sở tại vừa gắn bó với quê hương. Đảng và Nhà nước ta thông cảm và
đánh giá cao lòng yêu nước của đồng bào, sẽ tạo thêm những điều kiện thuận lợi để
đồng bào xây dựng khối đoàn kết cộng đồng, tiếp xúc bà con trong nước, đóng góp
ngày càng nhiều hơn vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Để tăng cường, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới,
Nghị quyết 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ tám (khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng, Hội nghị đã nêu lên
nguyên tắc chỉ đạo: “Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Chúng ta cần
tiếp tục phát huy khả năng to lớn của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức
mạnh cộng đồng dân tộc, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh vì hạnh phúc của nhân dân. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và trí thức xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân” [35; tr. 476].
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 23
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), tại Đại hội này Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thông qua. Đại
hội đã khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng
cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Cương lĩnh nêu ra quan niệm về chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, có sáu đặc trưng:
“Do nhân dân lao động làm chủ; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân tất cả các nước trên thế giới” [33; tr. 392].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), trong Báo cáo Chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương (khoá VI), ngày 27/6/1991 đã đưa những phương hướng chủ
yếu trong năm năm 1991 – 1995:
Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc
là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Cần có chính sách hỗ trợ các dân
tộc thiểu số phát triển kinh tế hàng hoá phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng,
từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa
phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Tôn trọng tiếng nói và chữ viết của các dân tộc.
Bảo đảm cho người Hoa hưởng mọi quyền và nghĩa vụ công dân, tôn trọng văn
hoá, chữ viết, tạo điều kiện để bà con người Hoa yên tâm làm ăn, góp phần xây dựng
đất nước Việt Nam và vun đắp quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt – Trung.
Tôn trọng văn hoá, tôn giáo của đồng bào Khmer, có chính sách giúp đỡ bà con
người Khmer về đời sống, nhất là ở những vùng đồng bào có nhiều khó khăn.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của đông đảo nhân dân. Đạo đức tôn
giáo có một số điểm phù hợp nhất định với công cuộc xây dựng xã hội mới. Đảng và
Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn
kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân
biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng;
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 24
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: ThS. GVC. Hồ Thị Quốc Hồng
đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và
đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân.
Hơn hai triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài có mối quan hệ gắn bó với
nhân thân, quê hương, đất nước. Đảng và Nhà nước ta hoan nghênh bà con giữ gìn bản
sắc, truyền thống và giá trị văn hoá dân tộc, tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước,
nâng cao tính cộng đồng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, xây dựng quan
hệ tốt đẹp với nhân dân sở tại, đồng thời quan tâm theo dõi, ủng hộ và đóng góp vào
công cuộc xây dựng đất nước. Cần tổ chức tốt việc thông tin tình hình trong nước và
tạo điều kiện dễ dàng để bà con người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương đất nước.
Phát triển tư tưởng đại đoàn kết đã nêu ra trong Đại hội Đảng và các Hội nghị
Trung ương, ngày 17/11/1993 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về đại
đoàn kết và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất. Nghị quyết đã đưa ra quan điểm:
“Đất nước ta đang đứng trước thời cơ mới và những thách thức mới. Để tranh thủ
thời cơ, vượt qua thách thức, làm thất bại âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế
lực thù địch, chúng ta phải ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
củng cố, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất” và phải “thực hiện đại đoàn kết toàn
dân ở tầm cao mới và chiều sâu mới, tạo ra động lực mạnh mẽ trong sự phát triển lịch
sử của dân tộc” [12; tr. 34].
Nhiệm vụ chung của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay là:
“Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết
mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực
hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” góp phần tích cực vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ trên thế giới” [12; tr. 36].
Để hoàn thành nhiệm vụ trên cần quán triệt các chủ trương lớn sau đây:
Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam bao gồm các giai cấp các tầng lớp, các dân tộc các tôn giáo trong nước và
ngoài nước định cư ở nước ngoài, vì mục tiêu chung nêu trên. Đại đoàn kết chủ yếu
phải lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác
SVTH: Nguyễn Duy Khánh
Trang 25