Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

ĐẢNG bộ các TỈNH, THÀNH ĐỒNG BẰNG SÔNG cửu LONG vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH vào xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân TRONG sự NGHIỆP đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.3 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
-----------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐẢNG BỘ CÁC TỈNH, THÀNH ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG
TOÀN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: Sư Phạm Giáo Dục Công Dân
Mã ngành: 52140204

Giảng Viên Hướng Dẫn:
TS. Phạm Văn Búa

Sinh Viên Thực Hiện:
Trần Văn Linh
MSSV: 6096093
Lớp: SP.GDCD - K35

Cần Thơ, 11/2012

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, em đã gặp không ít những khó
khăn và trở ngại. Nhưng được sự giúp đỡ nhiệt tình của Thầy hướng dẫn cũng như sự
ủng hộ của bạn bè em đã hoàn chỉnh luận văn của mình một cách tốt nhất. Lời đầu tiên


em xin được gửi lời cám ơn chân thành đến quý thầy, cô trong Khoa Khoa Chính trị Trường Đại học Cần Thơ và các bạn trong lớp sư phạm Giáo Dục Công Dân khóa 35
đã luôn có sự quan tâm, động viên cũng như đã có những đóng góp quý báu để em
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Đặc biệt, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc và
chân thành nhất đến thầy Phạm Văn Búa là người đã trực tiếp hướng dẫn, đồng hành
và chỉ bảo tận tâm trong suốt quá trình làm luận văn.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, mặc dù em đã cố gắng
và nổ lực hết mình nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn chế.Vì vậy, em rất
mong được sự đóng góp ý kiến nhận xét và bổ sung của quý thầy, cô cùng các bạn để
đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện.

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN ...... 5
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân ........................... 5
1.2 Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân ................... 18
1.3 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân ..................................................................................................................... 30
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ CÁC TỈNH, THÀNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG XÂY DỰNG NỀN QUỐC TOÀN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH .................................................. 40
2.1 Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, con người và nhu cầu xây dựng nền
quốc phòng toàn dân ở Đồng Bằng Sông Cửu Long ................................................... 40
2.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân ....................................................................................................................... 50
2.3 Quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng bộ các tỉnh, thành Đồng
Bằng Sông Cửu Long trong sự nghiệp đổi mới giai đoạn 2001 – 2011 ....................... 57

2.4 Kết quả đạt được trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng bộ
các tỉnh, thành ở Đồng bằng sông Cửu Long trong sự nghiệp đổi mới ........................ 79
2.5 Những giải pháp nhằm thực hiện tốt việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long trong sự nghiệp đổi mới. ................................................ 89
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chiến sĩ xuất sắc
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người là nhà chiến lược thiên tài đã tìm
ra con đường cứu nước cho dân tộc và đã cùng Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân
dân ta giành thắng lợi rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Với những cống hiến to lớn và cao cả, Người là tấm gương sáng ngời về
khí phách anh hùng, tư duy sáng tạo và đạo đức cách mạng hiếm thấy trong lịch sử.
Người đã để lại cho nhân dân Việt Nam một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó quan điểm quốc phòng
toàn dân đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt để tập hợp toàn dân và các hình thức
mặt trận, phát huy cao độ khả năng của nhân dân trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, là nguồn gốc thắng lợi của cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh của
nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Hiện nay, tình hình chính trị thế giới và trong nước đang có những diễn biến phức
tạp. Trên thế giới, các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra
gay gắt và quyết liệt, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi nhưng những cuộc xung
đột vũ trang và nội chiến vẫn xảy ra và kéo dài ở nhiều nơi, những mâu thuẫn gay gắt
về dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ đang tiếp diễn.Trong bối cảnh đó, các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại tiếp tục phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa

phù hợp với đặc điểm từng nước. Việt Nam đã và đang nằm trong tầm ngắm của các
thế lực phản động và đế quốc, chúng lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo, sắc tộc để can thiệp vào công việc nội bộ của ta nhằm thực hiện diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ, gây bạo loạn chính trị, trước tình hình đó đã đặt ra những yêu cầu
mới cho nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mới, nhiệm vụ quốc không chỉ
của riêng Đảng và Nhà nước mà là của toàn thể nhân dân. Vì thế, cần thiết phải học
tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân trong bối cảnh hiện nay
để phát huy tổng hợp sức mạnh toàn dân, của hệ thống chính trị, từng bước nâng cao

4


tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước để bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa làm thất bại mọi âm mưu chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của
các thế lực thù địch. Mặt khác, đứng trước sự nghiệp đổi mới, quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp không thể
không giải quyết, đặt biệt trước sự biến đổi nhanh chóng, khó lường của cuộc khủng
hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, của hàng loạt vấn đề toàn cầu hóa, phát triển kinh
tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự tiếp thu thiếu chọn lọc các nền văn hóa trên
thế giới của một bộ phận nhân dân đã làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, một khi an
ninh văn hóa chưa vững chắc thì ý thức dân tộc cũng dần phai mờ đi, từ đó ảnh hưởng
đến ý thức bảo vệ Tổ quốc.
Đồng Bằng Sông Cửu Long là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về phát triển
kinh tế và quốc phòng - an ninh và có đường biên giới tiếp giáp với nước bạn
Campuchia đặc biệt là vùng đặc thù về dân tộc và tôn giáo nên việc bảo đảm an ninh
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là vô cùng quan trọng. Hơn nữa, việc học tập
tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành cuộc vận động lớn trong cả nước. Vì vậy, để vận
dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nói chung là vô

cùng cần thiết. Chính vì những lý do trên, nên tôi quyết định chọn đề tài: Đảng bộ các
tỉnh, thành Đồng Bằng sông Cửu Long vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây
dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp đổi mới, làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, quan điểm của Đảng và chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng
bộ các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long trong sự nghiệp đổi mới; làm rõ những
thành tựu, hạn chế trong việc xây dựng nên quốc phòng toàn dân, từ đó nêu lên một số
giải pháp nhằm góp phần củng cố và tăng cường an ninh – quốc phòng ở Đồng bằng
sông Cửu Long.

5


- Nhiệm vụ: Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân. Qua đó, phân tích, đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ
xây dựng quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp đổi mới nhằm rút ra một số giải pháp
để góp phần nâng cao sức mạnh quốc phòng toàn dân ở các tỉnh, thành Đồng bằng
sông Cửu Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luân văn tập trung nghiên cứu làm rõ:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
+ Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ các tỉnh
thành Đồng bằng sông Cửu Long về xây dựng nền quốc phòng toàn dân..
- Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề rất lớn, luận văn tập trung
làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất rộng lớn gồm 13 tỉnh, thành nên luận văn
chỉ tập trung một số tỉnh, thành đặc thù như: An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Trà Vinh.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở các tỉnh,
thành Đồng bằng sông Cửu Long trong sự nghiệp đổi mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, logic,
ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Điều tra, thu thập thông tin,
phân tích, tổng hợp và so sánh.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương 8 tiết.

6


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
1.1.1 Kế thừa và phát triển giá trị truyền thống quân sự Việt Nam
Từ ngàn xưa, ông cha ta đã sớm hình thành và phát triển một nền văn hóa dân tộc
bền vững. Những giá trị tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam, thể hiện ở lòng yêu nước
thương nòi, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, ở tình đoàn kết, thương yêu
đùm bọc, gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc, ở lòng nhân ái, khoan dung,
hòa hợp trong nghĩa tình, đạo lý ở đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, ở sự tế nhị
trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Hạt nhân của nền văn hóa ấy là chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần đấu tranh bất khuất làm chủ thiên nhiên, bảo vệ bờ cỏi, vừa dũng cảm
vừa thông minh. Chính nhờ sức mạnh khôn lường của nền văn hóa ấy mà trải qua một
nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, dân tộc ta đã không bị đồng hóa, cuối
cùng đã vùng lên giành lại quyền độc lập, mở ra một kỷ nguyên tự chủ sáng suốt, một

thiên niên kỷ, chỉ gián đoạn bằng 20 năm đô hộ của nhà Minh và gần 100 năm thống trị
của thực dân pháp. Di sản quân sự của tổ tiên để lại là một kho báu được Hồ Chí Minh
tiếp thu và vân dụng sáng tạo trong bối cảnh lịch sử mới.
Hồ Chí Minh quan tâm nghiên cứu, kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc.
Trong Chỉ thị tổ chức vũ trang Cao Bằng (1941), Hồ Chí Minh nhắc nhở: Không quên
là chúng ta còn có nền quân sự truyền thống quý giá của ông cha. Bằng những vần thơ
lục bát. Hồ Chí Minh viết Lịch sử nước ta một bài diễn ca ôn lại truyền thống chống
ngoại xâm của dân tộc để thức tỉnh đồng bào, chuẩn bị cho quần chúng cách mạng đi
vào cuộc chiến đấu giành tự do, độc lập. Lịch sử ghi nhận: Đất nước ta hình thành từ
rất sớm, ở vào khu vực ngã ba của Đông Nam Á và Thái Bình Dương, rất thuận lợi cho
việc giao lưu quốc tế từ Tây sang Đông, từ Nam lên Bắc. Do có vị trí chiến lược quan
trọng như vậy, nên Việt Nam luôn là mục tiêu dòm ngó của các thế lực xâm lược, từ
phong kiến đến đế quốc, thực dân. Cũng từ rất sớm, Việt Nam, đã trở thành một quốc

7


gia thống nhất, làm chủ một phương. Được như vậy là do trong khi ra công dựng nước,
ông cha ta luôn đề cao cảnh giác, chăm lo giữ nước chống ngoại xâm để tồn tại và phát
triển.
Dân tộc ta có hơn 2000 năm văn hiến. Từ thưở ban đầu lập quốc, các bộ tộc Lạc
Việt xưa đã cùng nhau chung sống trên lưu vực sông Hồng, xây dựng một nền văn hóa
dân tộc rạng rỡ và độc đáo. Cộng đồng người Việt phương Nam ngày càng cố kết bền
vững trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào, qua gian nan thử thách đã tạo dựng tinh thần
yêu nước thương nòi, độc lập tự chủ, quật cường bất khuất, nhân ái khoang dung.
Chính sức mạnh tiềm tàng của nền văn hóa ấy đã động viên toàn dân tộc đứng lên tiếng
hành hơn mười cuộc chiến tranh và mười cuộc khởi nghĩa vũ trang trong khoảng hơn
20 thế kỷ chống các thế lực ngoại xâm lớn mạnh gấp nhiều lần.
Từ thời lập quốc, ông cha ta đã xây thành đấp lũy, rèn luyện khí giới, tổ chức các
loại binh để giữ nước. Từ hai bà Trưng, Bà Triệu đến Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng

Hưng, Khúc Thừa Dụ,…các vị lãnh tụ dân tộc đều phất cao cờ khởi nghĩa, từ tay
không làm nên sự nghiệp. Lực lượng vũ trang từ không đến có, từng bước hình thành,
lớn mạnh. Nền văn hóa Việt và làng xã người Việt tạo nên sự cố kết vững bền trong
cộng đồng dân tộc, làm cơ sở cho các lực lượng vũ trang phát triển, bị dẹp nơi này lại
dấy lên nơi khác, quấy đảo, tiêu hao, tiêu diệt quân thù. Từ đời Lý, đời Trần, với sự
xuất hiện của An Nam hành quân pháp, Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tống bí truyền
thư, Hổ trướng khu cơ và các trang sử cổ, việc thao luyện kỹ thuật, chiến thuật quân sự
đã hình thành bài bản, kỷ luật quân sự được đề cao, việc cung cấp, hậu cần nuôi quân
được tổ chức với mục đích Thực túc binh cường. Hệ thống công trình phòng thủ đã có
phòng tuyến sông Như Nguyệt và các phòng tuyến khác chạy khắp chiều sâu đất nước.
Vũ khí cũng đã có các loại súng thần cơ. Xung lực đã có ngựa chiến, voi trận. Phương
tiện cơ động đường thủy đã có thuyền chiến cở lớn hai tầng có đóng đinh sắt. Tất cả đã
tạo nên sức mạnh vật chất to lớn đánh bại những đội quân xảo quyệt và tàn bạo.
Lịch sử Việt Nam ghi chép bằng những nét chữ vàng bao nhiêu chiến công hiển
hách của tổ tiên. Mở đầu là chiến công đại phá quân Tần vào thế kỷ thứ III trước Công

8


Nguyên. Khí phách anh hùng, trí thông minh sáng tạo của ông cha ta đã diệt hàng chục
vạn quân địch, buộc chúng phải bãi binh. Tiếp đó là những cuộc khởi nghĩa ở những
năm đầu của Công nguyên với đỉnh cao là khởi nghĩa đền nợ nước, trả thù nhà dưới cờ
nương tử của Hai Bà Trưng. Cuối năm 944, Ngô Quyền “lấy quân mới họp của nước
Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Thao”, “mở nước xưng
vương”, “mưu giỏi mà đánh cũng giỏi”, [42, tr. 204] chấm dứt ách đô hộ suốt một
nghìn năm của phong kiến phương bắc, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên phát triển
rực rỡ của nước Đại Việt.
Vào những năm 1075 – 1077, quân và dân Đại Việt lại tiến hành cuộc chiến tranh
giữ nước lần thứ hai chống quân xâm lược nhà Tống. Nhà chiến lược xuất sắc Lý
Thường Kiệt, trong thời bình giỏi kết hợp xây dựng nước với chuẩn bị quốc phòng,

trong chiến tranh chủ động đánh địch kết hợp với phương thiết ngoại giao, buộc nhà
Tống phải bãi binh, mở lại bàn giao, hòa hiếu, đã mang lại hòa bình cho đất nước hơn
200 năm từ 1077 đến 1284. Ở thế kỷ XIII, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn dân tộc ta lại ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên. Lần
đầu tiên, đội quân xâm lược khét tiếng hung bạo từng giày xéo dưới vó ngựa của chúng
bao quốc gia dân tộc từ Đông sang Tây, đã nếm mùi thất bại trên đất nước ta. Các
chiến công lịch sử ở Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng mãi mãi là
niềm tự hào của quân và dân Đại Việt, mở ra một thời hòa bình, hưng thịnh suốt gần
200 năm từ 1288 đến 1418.
Sau thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi –
Nguyễn Trãi phất cao cờ khởi nghĩa ở Lam sơn, tụ nghĩa, dấy binh, mười năm nếm mật
nằm gai, nêu cao khí phách anh hùng, tài trí, mưu lược, mở thêm những trang sử mới
vẻ vang của dân tộc, Tổ quốc Việt Nam lại được hưởng thái bình hơn 300 năm từ 1427
đến 1788. Bước sang thế kỷ XVIII, sau khi tạm thời rút lui chiến lược để bảo toàn lực
lượng, nghĩa quân Tây Sơn với sự chỉ huy của Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ thần tốc
tiến quân ra Bắc, tiêu diệt 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, quét sạch quân thù ra
khỏi đất nước mùa xuân năm Kỷ Dậu. Suốt chiều dài lịch sử, cùng với các cuộc kháng

9


chiến chống xâm lượcnhững cuộc khởi nghĩa và chiến tranh khác như khởi nghĩa của
Lý Bí, Phùng Hưng, Mai Thúc Loan, chiến tranh thống nhất đất nước của Đinh tiên
Hoàng, các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trương Định,
Nguyễn Trung Trực… đã làm rạng rỡ thêm truyền thống quân sự của tổ tiên.
1.1.2 Tiếp thu nghệ thuật quân sự của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không chỉ tìm
ra đường lối cách mạng Việt Nam, mà còn tìm ra phương pháp cách mạng để đánh
đuổi kẻ thù xâm lược. Vượt lên các nhà cách mạng đương thời, Hồ Chí Minh là người
cách mạng đầu tiên nghiên cứu học thuyết quân sự vô sản phục vụ sự nghiệp giải

phóng dân tộc ở Việt Nam, ngay khi các quan điểm quân sự tư sản, phong kiến đang
thịnh hành.
Những năm tháng Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng, nghiên cứu học tập ở nước
ngoài, nhất là ở Liên bang Xôviết, cũng là những năm thế giới sôi động trong khói lửa
cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và trong không khí nóng bỏng chuẩn bị cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai. Nước Nga sau cách mạng Tháng Mười cũng vừa chiến đấu, vừa
xây dựng nền quốc phòng theo quan điểm vô sản. Học thuyết quân sự Mác – Lênin
hình thành, là nội dung giảng dạy ở các trường chính trị và quân sự. Cuộc chiến tranh
Trung – Nhật nổ ra ở Châu Á, lại thêm một lò lửa thu hút sự quan tâm của thế giới.
Năm 1940, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Khoa học quân sự Mác – Lênin bắt
đầu được thử thách và thể nghiệm trong chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, tỏ rõ tính
ưu việt qua các chiến công hiển hách của quân đội Xôviết và nhân dân Liên Xô trước
đây. Trong bối cảnh lịch sử ấy, với quyết tâm giải phóng đất nước bằng bạo lực cách
mạng, Nguyễn Ái Quốc theo dõi các vấn đề quân sự đặt ra trong chiến tranh, nghiên
cứu những nguyên lý của học thuyết quân sự Mác – Lênin về quan điểm bạo lực cách
mạng, về vũ trang quần chúng và xây dựng quân đội thường trực kiểu mới, về hậu
phương, căn cứ địa. Những giáo huấn của các lãnh tụ của giai cấp vô sản làm sáng tỏ
thêm con đường giải phóng mà Người hằng ấp ủ từ lâu.

10


Phơriđơrích Ăngghen, vị đại tướng của chúng ta chỉ rõ: Một dân tộc muốn giành
được độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành
chiến tranh thông thường. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du
kích ở khắp mọi nơi – đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể
đánh thắng được một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đương đầu với
một quân đội mạnh hơn và có tổ chức tốt hơn. Lênin tiên đoán về chiến tranh giải
phóng dân tộc: Mặc dù họ còn yếu, mặc dù bọn người Châu Âu bị áp bức có vẻ bất khả
chiến thắng khi chúng đem dùng vào cuộc chiến tranh mọi cái kỳ diệu về kỹ thuật và

nghệ thuật quân sự, nhưng cuộc chiến tranh cách mạng do các dân tộc bị áp bức đang
tiến hành, nếu thật sự thức tỉnh được hàng triệu người lao động và bị bóc lột thì cuộc
chiến tranh đó sẽ đưa lại nhiều khả năng, nhiều cái kỳ lạ đến mức là sự giải phóng các
dân tộc phương Đông ngày nay hoàn toàn có thể thực hiện được trong thực tiễn. Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ: Khởi nghĩa vũ trang là một hình thức đặc biệt của đấu tranh chính
trị…nó phục tùng những quy luật đặc biệt mà chúng ta cần chú tâm suy nghĩ. Xtalin
khái quát các quy luật ấy là “chọn cho thật đúng thời cơ để đánh đòn quyết định. Thời
cơ để bắt đầu khởi nghĩa tức là lúc mà cuộc khủng hoảng đã phát triển đến cực độ, lúc
mà đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng, lúc mà những lực lượng hậu bị đã
sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong, và lúc mà hàng ngũ địch đã hỗn loạn nhất” [51, tr.71].
Lênin nêu rõ bản chất của chiến tranh: “Chiến tranh là tiếp tục của chính trị bằng
những thủ đoạn khác. Mọi cuộc chiến tranh đều gắn liền với chế độ chính trị sinh ra
nó” [40, tr. 32]. Để bảo đảm thắng lợi, sự hiểu biết của quần chúng về mục đích và
nguyên nhân chiến tranh có tầm quan trọng lớn lao.
Học thuyết quân sự Mác – Lênin chủ trương động viên toàn bộ mọi lực lượng
trong nhân dân để tiến hành chiến tranh. Phải biến cả nước thành một dinh cách mạng.
Tất cả hãy chi viện cho chiến tranh. Tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước
đều phải giành cho công cuộc bảo vệ cách mạng. “Mỗi một thành phố và hầu như mỗi
một thôn xóm đều biến thành một pháo đài, mỗi một nông dân và mỗi một người dân
thành phố thành một chiến sĩ” [1, tr. 155].

11


Nghệ thuật quân sự theo học thuyết quân sự vô sản hết sức phong phú, đa dạng từ
các chiến thuật của chiến tranh du kích như, tập kích, phục kích, phá hoại, quấy rối,
đánh giao thông, đánh căn cứ hậu cần…đến các chiến lược, chiến thuật tiến công, phản
công, phòng ngự quy mô lớn và cực lớn của chiến tranh hiện đại, tập trung tuyệt đối ưu
thế binh lực gồm nhiều tập đoàn quân tác chiến hiệp đồng quân binh chủng trên một
trận tuyến dài rộng hàng nghìn cây số. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do sự phát triển

vượt bậc của khoa học – kỹ thuật quân sự hiện đại, cùng với các quan điểm, tư tưởng
quân sự truyền thống, học thuyết quân sự Xôviết còn chủ trương tập hợp cần thiết đánh
đòn quyết định bằng tên lửa vượt đại châu và vũ khí hạt nhân. Trùm lên tất cả là tư
tưởng chiến lược tích cực tiến công phản ánh bản chất cách mạng triệt để của giai cấp
công nhân của một nước công nghiệp.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, học thuyết quân sự Mác – Lênin chỉ rõ giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nhất thiết phải có lực lượng vũ trang của mình để đập
tan quân đội của giai cấp thống trị phản động, giành và giữ chính quyền cách mạng.
Mác và Ăngghen đề ra khẩu hiệu Vũ trang cho giai cấp công nhân. Công nhân cần phải
được vũ trang và tổ chức lại, cần phải lập tức trang bị súng trường, các bin, đại bác và
đạn dược cho toàn thể giai cấp vô sản. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ,
trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, quân đội thường trực của giai cấp tư sản
phải được thay thế bằng nhân dân vũ trang, bằng lực lượng dân cảnh xã hội chủ nghĩa.
Phát triển luận điểm của Mác và Ăngghen, sau cách mạng Tháng Mười thành công,
trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, Lênin chủ trương không dừng lại ở tổ
chức dân cảnh mà phải tiến lên một hình thức cao hơn: hình thức quân đội thường trực
chính quy, hình thức một “quân đội kiểu mới” của Nhà nước Xôviết.
Hồ Chí Minh nghiên cứu Hồng quân xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở vũ trang
toàn dân, một quân đội mà mọi người xã hội chủ nghĩa đều chờ mong thành lập. Bản
chất của Hồng quân là bản chất của giai cấp công nhân. Hồng quân được giáo dục, giác
ngộ, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồng quân phải
“xây dựng kỹ luật nghiêm minh chưa từng thấy, không phải bằng roi vọt mà trên cơ sở

12


của sự giác ngộ, lòng trung thành, tinh thần hi sinh quên mình của bản thân những
công nhân và nông dân” [41, tr. 9]. Hồng quân phải được trang bị tốt và có khả năng
chiến đấu cao, vì theo Lênin, một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất với
sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ

trang, tiếp tế lương thực và huấn luyến một cách đầy đủ. Coi hậu phương là nhân tố
thường xuyên bảo đảm thắng lợi trong chiến tranh, học thuyết quân sự vô sản luôn chủ
trương phát huy tiềm lực của hậu phương về kinh tế, văn hóa trên cơ sở tăng cường xây
dựng cơ sở chính trị. Ăngghen chỉ ra rằng: “Thắng lợi và thất bại rõ ràng là phụ thuộc
vào điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, nhân lực và vũ khí, nghĩa là vào chất
lượng và số lượng của dân cư và của cả kỹ thuật nữa” [2, tr. 290]. Lênin cũng dạy:
Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực lượng hơn,
ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người ấy sẽ giành được thắng lợi.
Điều đặc biệt ưu việt của học thuyết quân sự vô sản mà Hồ Chí Minh tâm đắc
nhất là phương pháp luận quân sự, dựa trên phép biện chứng duy vật. Cách mạng khởi
nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng là sáng tạo, luôn luôn phát triển trong thực
tiễn trên cơ sở những quy luật khách quan nhất định. Quan điểm duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, quan điểm phát triển, quan điểm toàn cục, quan điểm nhân dân giúp Hồ
Chí Minh lãnh đạo điều hành khởi nghĩa và chiến tranh một cách khoa học, xem xét sự
vật trong bối cảnh lịch sử, toàn diện và phát triển, đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu
trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa quân sự
với chính trị, kinh tế, xã hội, giữa vật chất và tinh thần, giữa con người và vũ khí, giữa
bản chất và hiện tượng, giữa quy luật cách mạng với quy luật chiến tranh, phát hiện
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, giải quyết cụ thể vấn đề đặt ra trên thực tế. Trong
vận dụng hình thức, phương thức đấu tranh, chiến lược, chiến thuật, người chỉ huy thao
lược phải căn cứ vào tình hình thực tiễn mà đoán định, xử trí một cách sáng tạo, linh
hoạt, không cứng nhắc, máy móc, giáo điều, nhằm giành thắng lợi cao nhất trong điều
kiện có lợi nhất.

13


1.1.3 Tiếp thu nghệ thuật quân sự của các nước phương Đông và phương
Tây
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cho cách mạng Việt Nam không chỉ

có nguồn gốc từ học thuyết quân sự Mác – Lênin và kết tinh những giá trị truyền thống
tốt đẹp về xây dựng lực lượng quân sự của dân tộc, mà còn là yếu tố tinh hoa quân sự
thế giới. Bởi vì, trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn có thái độ
đúng đắn về phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu lịch sử quân sự từ nhiều
ngọn nguồn khác nhau, khảo sát kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang của nhiều
nước và phù hợp để mục đích xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc mình. Ngay từ
còn nhỏ, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận nền học vấn Nho học. Tuổi thiếu niên, Hồ Chí
Minh tiếp cận với những yếu tố văn hóa phương Tây qua trường học Việt – Pháp.
Nguồn văn hóa phương Tây tác động tới Hồ Chí Minh, trước hết là tư tưởng “tự do,
bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản thời đang lên đã nêu cao để tập hợp lực lượng
nhằm lật đỗ chế độ phong kiến.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đi khắp các châu lục, sinh
sống và hoạt động, ở những trung tâm văn minh đương thời phương Tây. Tại Pari, thủ
đô nước Pháp, Hồ Chí Minh nghiên cứu nhiều vấn đề quân sự cách mạng tư sản Pháp,
của công xã Pari và quân đội nước Pháp lúc đó. Đối với vấn đề quân sự trong cách
mạng tư sản Pháp, Người ca ngợi tấm gương anh dũng chiến đấu của quần chúng lao
động. Về sau, trong tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết rằng,
dân Pháp tuy lực lượng ít, súng ống thiếu, nhưng chỉ nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp
nội loạn, ngoài phá cường quyền. Hồi ấy lính cách mệnh gọi là “lính không quần”,
người không có nón, kẻ không có giày, áo rách, quần tua, mặt gầy bụng đói. Thế mà
lính ấy đi đến đâu, thì lính ngoại quốc thua đến đấy, vì họ gan liều hi sinh quá, không
ai chống nổi. Nghiên cứu quân sự của đế quốc Pháp, Hồ Chí Minh nhận thấy quận đội
đó có cơ cấu “non một nữa” là những người bản xứ. Hồ Chí Minh đưa ra số liệu chứng
minh rằng: Trong số 150 trung đoàn của quân đội Pháp, có 10 trung đoàn là da trắng ở
các thuộc địa, nghĩa là những người nữa bản xứ; 30 trung đoàn người Châu Phi và 39

14


trung đoàn người bản xứ các thuộc địa khác. Không chỉ đề cập đến vấn đề cơ cấu, qua

đó lên án chủ nghĩa thực dân Pháp trong việc bắt người bản xứ bổ sung cho quân đội
pháp, mà quan trọng hơn, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề mà nhiều chiến sĩ cách mạng
quốc tế ít biết đến, tức là sử dụng binh lính thuộc địa để đàn áp cách mạng ở cả “chính
quốc” lẫn cách mạng thuộc địa một cách mù quán, điều mà những người lính Pháp “có
giác ngộ hơn” có thể từ chối không chịu tiến hành. Bài báo cáo đề cấp đến nội dung
trên được viết từ năm 1923 với nhan đề Quân đội chống cách mạng, là kết quả nghiên
cứu của Hồ Chí Minh về một loại hình tổ chức quân đội – quân đội của chủ nghĩa đế
quốc, thực dân góp phần làm phong phú vốn hiểu biết của Hồ Chí Minh, đặt cơ sở cho
việc tuyên truyền địch vận về sau, nhất là đối với binh lính người bản xứ trong quân
đội Pháp thời đó.
Hồ Chí Minh còn nghiên cứu tìm hiểu về nhiều danh tướng của nước Pháp, nước
Anh. Về danh tướng Napôlêông của Pháp, từ năm 1923, Hồ Chí Minh đã viết: “Năm
1812, Nã Phá Luân vừa là người thắng trận, vừa là kẻ bại trận. Thắng trận vì Nã Phá
Luân đã chiếm được nhiều thành phố, bại trận vì nhân dân Mạc Tư Khoa đã quyết tâm
hi sinh tất cả, tự tay đốt cháy thành phố, lửa đã đuổi Phá Luân, rét, đói và quân du kích
đã tiêu diệt đại quân Nã Phá Luân” [50, tr. 14-15]. Về sau, Người còn nhắc lại điều đó
trên báo Cứu quốc rằng, khi Nã Phá Luân đem quân tiến vào nước Nga bị thua liểng
xiểng. Tuy nhiên, Napôlêông là danh tướng có nét riêng với đặc điểm đánh mạnh như
vũ bão nhanh như chóp nhoáng. Người nói trong chiến lược của Nã Phá Luân có nói:
“Rút một ngày tức mười hai giờ, thành mười giờ để mà tiến quân và tác chiến rồi sau
sẽ nghỉ ngơi” [40, tr. 231]. Khi đề cập tới yếu tố này, Hồ Chí Minh đồng thời nhắc tới
chiến lược của Thủy sư đô đốc người Anh, một nhà danh tướng về hải quân là Nensông
(Nelson) cũng nói: “Giờ phút là đồng chí yêu quý của ta. Ta nên quý trọng mười đồng
chí ấy hơn những đồng chí khác” [40, tr. 231-232]. Từ đó, Người lưu ý quân ta về yếu
tố thời gian trong tác chiến, mối quan hệ giữa hai yếu tố đó với cơ mưu, phải vừa
nhanh vừa có mưu mới giành được thắng lợi.

15



Hoạt động nhiều năm trên quê hương Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh có
điều kiện nghiên cứu về Hồng quân Xôviết. Vốn hiểu biết đó về sau được Hồ Chí Minh
sử dụng vào điểm thích hợp, là lúc chúng ta đương tổ chức quân đội. Hồ Chí Minh chỉ
ra rằng, trải qua 15 năm kiến thiết trước chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Xôviết
đã là một đội quân có tổ chức chặt chẽ, huấn luyện chu đáo, vũ khí tối tân. Đội quân đó
trong những năm 1938 – 1939, đã đánh quân phát xít phương Đông ở Châu Âu phải
hoảng vía, rồi đến bị chôn sống không là Nhật Bản ở Trương Cao Phong, tiếp đó đánh
phát xít Đức đã từng xưng hùng, xưng ngốc đầu lên được. Lập được chiến công huy
hoàng đó là do Hồng quân Xôviết có nhiều ưu điểm. Hồ Chí Minh rút ra bốn ưu điểm
của Hồng quân Xôviết mà quân ta cần học tập:
Thứ nhất, Hồng quân Xôviết biết phép chiến đấu. Hồ Chí Minh phân tích: Đây là
một ưu điểm rất quan trọng. Vì rằng, nếu chỉ dựa vào vũ khí tối tân và binh lực mà
không biết phép chiến đấu thì không thắng nổi đối phương. Như phát xít Đức có cả
một ngành công nghiệp quân sự khổng lồ, có vũ khí tốt, đã huy động hàng triệu binh sĩ
và đã chinh phục được nhiều nước lớn, nhỏ ở Châu Âu để làm tay sai cho mình mà vẫn
không thắng nổi Hồng quân Xôviết. Còn Hồng quân Xôviết thì biết dùng “ tất cả cái
hay của phép đánh trận”, biết phát huy cao độ tinh thần yêu nước của binh sĩ và biết sử
dụng tốt vũ khí nên giành được thắng lợi. Không những thế Hồng quân Xôviết vừa
đánh vừa rút kinh nghiệm để tạo ra những phép đánh mới, nên là quân đội vô địch.
Thứ hai, Hồng quân Xôviết được hưởng một nền văn hóa giáo dục tốt đẹp. Nhờ
đó các binh sĩ Xôviết, từ các chiến sĩ bộ binh đến các chiến sĩ ở các binh chủng kỹ
thuật như pháo thủ, xe tăng, láy máy bay đều am hiểu kỹ thuật, chiến thuật, làm chủ vũ
khí, phương tiện chiến đấu. Khi còn ở hậu phương, Hồng quân đã được huấn luyện,
giáo dục, hiểu biết được quân sự tinh vi. Khi ra trận còn được hưởng “một đời sống
văn hóa hoàn bị”. Bên cạnh đời sống vật chất được chăm lo, mà đến như sách báo, diễn
giải, chóp bóng, ca kịch, nghĩa là tất cả mọi thứ mua vui, Hồng quân cũng được hưởng
đầy đủ. Các công việc giáo dục đều nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ khiến cho họ phát
huy được tài năng, do đó mà lập được chiến công oanh liệt. Sau khi phân tích ưu điểm

16



đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Một đội quân đã được huấn luyện theo lối mới, lại có
trình độ giác ngộ chính trị cao, tất nhiên được làm tròn nhiệm vụ.
Thứ ba, Hồng quân Xôviết là một đội quân có mối quan hệ đặc biệt giữa quân và
dân, quân, dân nhất trí. Trong Hồng quân, tướng lĩnh và binh sĩ là những con em của
thợ thuyền, dân cày, tri thức. Nếu như trước cách mạng Tháng Mười, 87 phần trăm
tướng lĩnh trong quân đội của Nga Hoàng là con cái của những nhà quý tộc và những
phần tử tư sản, thì sau cách mạng thành công, đội ngũ tướng lĩnh và binh sĩ là con em
của nhân dân lao động. Do nền tảng giai cấp trong xã hội Liên Xô biến đổi nên quân
đội với nhân dân “cũng như anh em một nhà”, có tinh thần đoàn kết cao. Nhân dân
Liên Xô chẳng những hăng hái tham gia quân đội, mà còn tích cực ủng hộ, giúp đỡ
quân đội. Hồ Chí Minh nêu rõ: Quân và dân hợp tác triệt để là một đặc điểm nổi bật
trong quân đội Xôviết.
Thứ tư, Hồng quân Xôviết có những vị chỉ huy tối cao sáng suốt, đủ đức, đủ tài.
Nhờ đó, Hồng quân Xôviết lập nhiều chiến công, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hồ
Chí Minh nhận xét, đó là những kinh nghiệm quý báu. Tinh thần của những kinh
nghiệm đó được Hồ Chí Minh đề cập trong nhiều tác phẩm cũng như trong chỉ đạo
thực tiễn, nhất là thời kỳ đầu xây dựng quân đội cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh không chỉ nghiên cứu và rút ra những ưu điểm của Hồng quân
Xôviết mà còn nghiên cứu Hồng quân Trung Quốc, kể cả quân đội Quốc dân Đảng, bởi
vì như Hồ Chí Minh đã nói “Văn hóa của dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện,
chỉ có trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho chính mình” [42, tr.
517]. Trong cuốn sổ chép bài thơ Nhật ký trong tù khi Hồ Chí Minh bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt giam trái phép từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, những trang
cuối là mục đọc sách và mục đọc báo. Trong mục đọc sách Hồ Chí Minh ghi Những
hiểu biết cơ bản về quân sự, bao gồm các vấn đề xây dựng quân đội chính quy như: Tổ
chức biến chế, chỉ huy, kỷ luật, sinh hoạt, huấn luyện quân sự, giáo dục tư tưởng.
Bản ghi chép nếu quân đội chính quy có tổ chức từ tiểu đội đến sư đoàn; có kỷ
luật nghiêm minh, được chuẩn bị về lương thực vũ khí, thông tin liên lạc và về thể lực.


17


Quân đội phải có tác động nhanh, mệnh lệnh đơn giản, rõ ràng, thiết thực, hành động
nhất trí, chính xác, sinh hoạt chỉnh tề, sạch sẽ giản dị; thời chiến bình tĩnh như thời
bình, khẩn trương và chịu đựng gian khổ như thời chiến. Quân đội phải xây dựng toàn
diện, có phẩm chất trong sạch đáng kính, có khả năng cơ động tích cực, bí mật nội bộ
đoàn kết, thân ái, cán bộ trung thực, thi đua hỗ trợ nhau, cùng nhau phê bình, thảo luận,
nghiên cứu. Trong quân đội người chỉ huy phải đích thân làm đến cùng mọi việc, phải
nỗ lực phấn đấu hoàn thành chức trách, đồng thời nhanh chóng khắc phục các thiếu sót
trong công việc; đầu nghĩ miệng nói, mắt nhìn tay làm, chân đến; thực tế, không sợ khó
sợ khổ, càng vất vả càng hăng hái, quyết tâm. Quân đội phải có hậu phương vững chắc,
ở đó một người làm việc bằng cả hai người, một ngày làm công bằng cả hai ngày, một
vật dùng bằng hai vật. Quân đôi liên hiệp sự đồng tình lâu dài với quốc gia dân tộc, đấu
tranh cho hòa bình và chính nghĩa chung cho thế giới. Những hiểu biết cơ bản ấy là
những ý kiến ghi chép của Hồ Chí Minh qua đọc một số tài liệu quân sự Trung Quốc
đương thời, bổ sung cho vốn hiểu biết của Người về xây dựng quân đội, giúp ích cho
việc tổ chức xây dựng quân đội sau đó.
Cùng với việc nghiên cứu xây dựng quận đội thời hiện đại của nhiều nước, Hồ
Chí Minh còn quan tâm nghiên cứu, chắt lọc những giá trị trong di sản quân sự phương
Đông cổ đại theo phương pháp của Lênin. Nếu như trong toàn tập Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh nhắc khoảng 100 lần các luận điểm, cách ngôn của Khổng Mạnh và có luận
điểm như “Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc” “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”,
nhắc tới 14 lần ở trong những thời điểm khác nhau, với những cách diễn đạt khác nhau,
thì chỉ trong tập 3, tập 4 đã thấy trong khoảng thời gian không dài lắm, Hồ Chí Minh
đã hai lần giới thiệu nhiều luận điểm trong binh pháp Tôn Tử với các bộ, chiến sĩ và
nhân dân ta. Lần thứ nhất, năm 1943, Hồ Chí Minh dịch xong phép dùng binh của ông
Tôn Tử. Tài liệu đó Bộ tuyên truyền Việt Minh xuất bản tháng 2 – 1945. Lần thư hai
trong hoàn cảnh thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ và lăm le cướp nước ta một lần nữa,

từ nữa, từ ngày 17 – 5 đến ngày 8 – 11 – 1946, Hồ Chí Minh viết một loạt với bút danh

18


Q.T và Q.TH lược thuật binh pháp Tôn Tử đăng trên báo Cứu quốc.Viết về tác giả và
giá trị của bộ binh pháp cổ đó, Hồ Chí Minh nêu rõ rằng:
“ Ông Tôn Tử là một người quân sư có tiếng nhất Trung Quốc. Ông sinh hơn 200
năm trước. Ngày nay, chẳng những trường học Trung Quốc mà còn nhiều trường
học quân sự các nước khác cũng lấy phép dùng binh của Tôn Tử làm gốc và ra
sức nghiên cứu. Vì phép dùng binh của ông Tôn Tử tuy đã lâu đời nhưng những
nguyên tắc đến nay vẫn là đúng. Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng về
quân sự mà đem dùng về chính trị cũng rất hay” [45, tr. 2].
Binh pháp Tôn Tử một mặt đã nêu được những quy luật tổng quát của chiến tranh
“xưng bá, đồ vương” thời Xuân thu – Chiến quốc. Chính nội dung thứ nhất làm cho tác
phẩm sống mãi với thời gian; nhiều câu nói của Tôn Tử có giá trị lớn trong chỉ đạo
chiến lược cũng như chiến thuật quân sự. Đối với bộ binh pháp này, Hồ Chí Minh có
thái độ tiếp thu rất khoa học, không đơn giản sao chép và vận dụng một cách giáo điều.
Trong các bài viết, bài nói về quân sự, Hồ Chí Minh thường sử dụng các mệnh đề:
“Biết mình, biết người”, “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, “Thế, lực, thời”,v.v.; các
nguyên lý: “Tiên tri, kế hoạch, chủ động..”, sao cho phù hợp với truyền thống quân sự
của dân tộc và điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng trong từng thời điểm lịch sử. Hồ
Chí Minh đã gần chục lần nhắc đến mệnh đề “Biết mình, biết giặc, trăm trận không
nguy” vốn là mệnh đề nổi tiếng nằm trong nguyên lý phải biết xét đoán trước của binh
pháp Tôn Tử. Chương nguyên tắc của cách đánh du kích trong tác phẩm Cách đánh du
kích năm 1944, Hồ Chí Minh đã nêu nhiều vấn đề cơ bản về nghệ thuật quân sự của
chiến tranh giải phóng dân tộc như: Bốn nguyên tắc chính là giữ quyền chủ động; hết
sức nhanh chóng; bao giờ cũng giữ thế công; phải có kế hoạch thích hợp và chu đáo, và
“bốn mưu mẹo lớn” là tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía đông, đánh phía tây;
tránh trận gay go, không sống chết giữ đất; hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh; mình

yếu đánh quân thụ động, mình khỏe đánh quân thù mệt. Những nguyên tắc chỉ đạo đó
thể hiện sự vận dụng tài tình những nguyên tắc tác chiến mà Tôn Tử luận trong các
thiên Phép chiến tranh, Đánh bằng mưu, quân hình. Trong năm 1942, trước nhu cầu

19


đào tạo cán bộ quân sự, Hồ Chí Minh đã biên dịch cuốn Phép thuật làm tướng của gia
các Khổng Minh và đặt đầu đề mới là cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng
Minh.
Hồ Chí Minh nêu năm điều hay, bốn điều phải của người làm tướng. Năm điều
hay là: 1. Phải biết rõ tình hình địch; 2. Phải biết rõ cách tiến thoái; 3. Phải biết rõ tình
hình trong nước; 4. Phải biết rõ khí hậu của trời và tâm lý của người; 5. Phải biết rõ núi
sông. Bốn điều phải là: a. Đánh khôn khéo; b. Mưu phải mật; c. Quân đội phải chấn
chỉnh; d. Lòng người phải nhất trí. Về cách ăn ở, người tướng phải làm gương; khi Bộ
đội chưa có nước thì tướng chưa uống. Bộ đội chưa có cơm ăn thì tướng chưa ăn. Bộ
đội chưa có lửa thì tướng chưa phàn nàn rét. Nắng chớ che quạt, mưa chớ che dù để
đồng cam cộng khổ với bộ đội.
Có thể nói, trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và
chắt lọc những yếu tố phù hợp của tinh hoa quân sự của thế giới từ cổ chí kim, từ
phương Đông đến phương Tây, vận dụng nó để phục vụ cho việc xây dựng quân đội
cho cách mạng Việt Nam. Người dạy quân đội rằng tinh hoa quân đội là tài sản chung,
ta cần phải biết quý trọng tinh hoa quân sự đó và tiếp thu những yếu tố phù hợp để xây
dựng nền nghệ thuật quân sự cách mạng. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân cho cách mạng Việt Nam là kết quả của việc vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết quân sự Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam
kết hợp với kế thừa, phát triển những giá trị tốt đẹp của truyền thống quân sự dân tộc
và chắc lọc những yếu tố tích cực của tinh hoa quân sự thế giới.
1.2 Qúa trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
1.2.1 Giai đoạn 1945 – 1946: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và bảo vệ

Chính quyền cách mạng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền công nông được thành
lập, vấn đề xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc với tính cách là Tổ quốc
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam mới được đặt ra một cách trực
tiếp và cụ thể. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân ta đã phải chuẩn bị và tiến

20


hành hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm suốt 30 năm ròng, nên Hồ Chí Minh
không bàn đến vấn đề quốc phòng nói chung, mà những tư tưởng của Người trực tiếp
hướng vào phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và kế tiếp là chống đế
quốc Mỹ thắng lợi. Vì vậy, những tư tưởng của Người về quốc phòng toàn dân vừa là
sự đúc rút, tổng kết từ thực tiễn các cuộc kháng chiến, thể hiện trong chiến tranh nhân
dân; vừa quay trở lại chỉ đạo và được chính ngay thực tiễn kháng chiến chống xâm
lược kinh nghiệm, làm tăng thêm sức sống và giá trị những tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Thắm nhuần sâu sắc luận điểm mácxít – Lênin: Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi
biết tự bảo vệ, căn cứ vào tình hình thực tiễn đất nước ngay sau khi giành được chính
quyền mới, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở nhân dân và quân đội ta phải luôn
nêu cao cảnh giác, ra sức củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, coi đó
là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách của chính quyền mới. Sự nghiệp xây dựng và
củng cố quốc phòng là đòi hỏi khách quan để bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc,
hạnh phúc và cuộc sống lao động hòa bình của nhân dân, bảo vệ chế độ mới, chống thù
trong giặc ngoài. Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp ấy cần phải được luôn tăng cường và
củng cố không được sao nhãng, buông lỏng. Mọi sự buông lỏng, lơ là, mất cảnh giác
đều dẫn đến hậu quả nguy hại cho cách mạng, liên quan đến nền độc lập dân tộc và sự
tồn vong của Tổ quốc. Chính sự nhòm ngó, lăm le xâm lược, phá hoại thành quả cách
mạng mà các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài ráo riết tiến hành đã buộc nhân
dân ta phải đề cao cảnh giác, phải chú trọng đến xây dựng, củng cố quốc phòng. Vì
vậy, trong khi động viên mọi tầng lớp nhân dân ra sức sản xuất, phát triển kinh tế, diệt

giặc đói, giặc dốt, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở toàn dân, toàn quân ta phải
luôn luôn sẵn sàng đập tan âm mưu địch phá hoại thành quả lao động của chúng ta.
Quân đội, công an, dân quân cần tiếp tục phát huy truyền thống chiến đấu dũng cảm,
củng cố quốc phòng, trật tự an ninh.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn Độc Lập lịch sử, tuyên bố với
nhân dân ta và toàn thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời; chấm dứt gần

21


một trăm năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời lật đổ chế độ quân chủ
nhiều thế kỷ qua, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Từ đây, vấn đề xây dựng củng cố quốc phòng, bảo vệ chính quyền công
nông, bảo vệ Tổ quốc với tính cách là Tổ quốc của giai cấp công nông và nhân dân lao
động Việt Nam được đặt ra một cách trực tiếp, cụ thể và là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu đối với cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Cách mạng tháng Tám thành
công, chính quyền trong cả nước đã về tay nhân dân lao động, nhưng đó chỉ là mới
bước đầu thắng lợi. Vì giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền để tổ chức
xây dựng và cai quản xã hội, tiếp tục thực hiện của cách mạng còn khó hơn nhiều. Ở
miền Bắc cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo theo
bọn phản động Việt quốc, Việt cách lũ lược kéo vào chiếm đóng Thủ đô Hà Nội và hầu
hết các thành phố, thị xã, từ biên giới Việt – Trung đến vĩ tuyến 16. Ở miền Nam, quân
pháp được quân Anh, quân Nhật tiếp tay đã thực hiện âm mưu tái xâm lược nước ta.
Trước tiên là chiếm lại Miền Nam. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp đã nổ
súng đánh chiếm trụ sở Uy ban nhân dân Nam Bộ từ Sài Gòn và sau đó đánh rộng ra
các tỉnh Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Thực dân Pháp đánh chiếm đến đâu đều
được phản động trong nước nhân cơ hội này ra làm tay sai cho chúng. Trong khi đó,
chính quyền nhân dân chúng ta còn non trẻ, thiếu thốn và khó khăn chồng chất. Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đến lúc này, chưa được nhiều nước trên thế giới biết đến.

Lực lượng vũ trang chưa nhiều, tổ chức và trang bị còn rất thiếu, kinh nghiệm chiến
đấu còn ít. Nền kinh tế của đất nước vốn nghèo nàn lạc hậu lại bị Pháp, Nhật vơ vét
xác xơ và bị chiến tranh và thiên tai tàn phá, hạn hán, lụt lội triền miên, ruộng đất bỏ
hoang quá nhiều, nạn đói năm 1945 chưa qua thì nạn đói đầu năm 1946 lại đe dọa
hoành hành; ngân khố quốc gia gần như trống rỗng; 95% dân số không biết chữ. Có thể
nói, nước Việt Nam vừa giành được độc lập phải đương đầu với tình thế cực kỳ khó
khăn, có lúc tưởng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi trực tiếp, cấp
bách đối với chúng ta là phải nêu cao cảnh giác, xây dựng củng cố quốc phòng để bảo
vệ chính quyền cách mạng của nhân dân; bảo về nền độc lập thống nhất của Tổ quốc;

22


chuẩn bị tiềm lực mọi mặt của đất nước cho cuộc kháng chiến trường kỳ mà theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh là không thể tránh khỏi. Nhiệm vụ xây dựng quốc phòng ở nước ta là
nhiệm vụ hết sức mới mẻ và đầy thách thức đối với chính quyền cách mạng non trẻ. Và
từ đó những định hướng cơ bản về xây dựng nền quốc phòng ở nước ta đã được thể
hiện tương đối rõ ràng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có thể nói, trong khoảng thời gian này Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng rất
quan trọng về xây dựng nền quốc phòng, một nền quốc phòng của chính quyền công
nông, nền quốc phòng toàn dân, toàn diện của nhân dân, do dân, vì dân. Có nghĩa là,
những đặc điểm cơ bản của nền quốc phòng của chế độ mới, xây dựng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, đã được hình thành ngày càng rõ rệt.
1.2.2 Giai đoạn 1946 – 1954: Bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Trong giai đoạn 1946 – 1954, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ,
toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp. Tư tưởng quốc phòng toàn dân của Hồ Chí
Minh tiếp tục phát triển, trực tiếp hướng dẫn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược; đồng thời chính thực tiễn của cuộc
kháng chiến chống Pháp là sự kiểm nghiệm và làm phát triển tư tưởng của Hồ Chí

Minh về quốc phòng toàn dân. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc
phòng toàn dân thời kỳ này chính là thông qua việc nghiên cứu tư tưởng về chiến tranh
nhân dân cũng như sự lãnh đạo và chỉ đạo kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược
của Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Không thể hiểu được tư tưởng về quốc phòng toàn
dân nếu không nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân; thông
qua nghiên cứu về chiến tranh nhân dân để hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn tư tưởng của Hồ
Chí Minh về quốc phòng toàn dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân trong thời kỳ này là nhằm chỉ đạo
trực tiếp cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ Chính phủ kháng
chiến, bảo vệ chính quyền công nông non trẻ, thành quả mà nhân dân ta vừa mới giành
được. Điều đó diễn ra trong khi đất nước có rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật

23


chất, kỹ thuật, kinh tế nghèo nàn và kiệt quệ, do chính sách bóc lột hà khắc gần một thế
kỷ của thực dân Pháp, sự xâu xé của phát xít Nhật và các thế lực thù địch khác. Lực
lượng vũ trang mới thành lập, còn nhỏ bé, vũ khí trang bị vừa thô sơ, thiếu thốn, trình
độ quân sự của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân còn nhiều hạn chế. Trong khi đó sự giúp
đỡ của nước ngoài đối với nước ta chưa nhiều, thực dân Pháp lại có tiềm lực kinh tế,
tiềm lực quân sự mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần. Trong bối cảnh đó, sự nghiệp củng
cố quốc phòng, kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta đứng trước những khó
khăn vô cùng to lớn.
Với ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu
tranh không nản lòng, quyết giành được độc lập hoàn toàn. Trong lời hiệu triệu, ngày
27 tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Còn một tất đất, còn một người dân thì còn
tranh đấu, lúc nào cũng sẵn sàng và không bao giờ do dự hoang mang. Với truyền
thống nhân ái, yêu chuộng hòa bình, sự thiết tha mong muốn có được nền hòa bình
thực sự để xây dựng đời sống mới ấm no, hạnh phúc cho nhân dân ta hằng mong mỏi.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới. Vì vậy, toàn thể dân tộc

Việt Nam đã vâng theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhất tề đứng lên đánh giặc giữ nước, kiên quyết bảo vệ nền độc lập còn non trẻ, bảo vệ
chính quyền công nông, bảo vệ chế độ mới.
Những ngày đầu tiên của công cuộc củng cố, xây dựng chế độ mới, mặc dù còn
rất nhiều hạn chế, nhưng đã tạo ra cho đất nước ta những cơ sở nhất định để có thể
đương đầu với thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, những cơ sở đó cần phải được tiếp
tục xây dựng, củng cố và phát triển trong kháng chiến; quá trình kháng chiến cũng là
quá trình xây dựng và củng cố sức mạnh quốc gia; và đồng thời quá trình củng cố, phát
triển sức mạnh toàn diện đất nước chính là quá trình đưa sức mạnh đó trực tiếp phục vụ
thắng lợi cuộc kháng chiến của dân tộc. Ở đây, tư tưởng kháng chiến đi với kiến quốc,
vừa chiến đấu vừa xây dựng của Hồ Chí Minh được thể hiện rất sâu sắc, phản ánh rõ tư
tưởng kinh tế hợp với quốc phòng của Người trong xây dựng quốc phòng.

24


Xây dựng quốc phòng trong thời kỳ này cũng chính là một biểu hiện cụ thể phản
ánh tư tưởng trên. Điều đó có nghĩa là, chúng ta xây dựng tiềm lực quốc phòng ngay
trong quá trình chiến tranh, phục vụ trực tiếp cho chiến tranh, vừa xây dựng vừa chiến
đấu, vừa chiến đấu vừa sản xuất, phát triển lực lượng, sức mạnh quốc phòng toàn dân
chuyển thành sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức mạnh chiến tranh nhân dân được tạo
nên trực tiếp từ sức mạnh quốc phòng và làm phát triển sức mạnh quốc phòng của đất
nước. Quá trình vận động biện chứng đó gắn bó chặt chẽ với từng bước, từng giai đoạn
phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19 tháng 12 năm 1946 của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đáng thực
dân Pháp để cứu Tổ quốc. Lời kêu gọi trên cho thấy lực lượng của nền quốc phòng là
toàn dân, những ai “máu đỏ, da vàng” thì trước sự sinh tồn của Tổ quốc đều có nghĩa
vụ “đứng lên” đánh thực dân, đế quốc bằng mọi thứ vũ khí và phương tiện có trong tay

để bảo vệ sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Điều đó tạo nên hợp lực vô cùng to lớn và mạnh mẽ của dân tộc ta, của chiến
tranh nhân dân Việt Nam, của cuộc kháng chiến chống xâm lược. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Ai có súng đung súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy, gộc. Ai cũng ra sức chống thực dân Pháp cứu nước” [40, tr.480]. Lực
lượng của nền quốc phòng của chế độ mới khi bước vào chiến tranh là lực lượng của
cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân Pháp, và mọi thứ vũ khí phương tiện có
trong tay đều trở thành vũ khí đánh thực dân Pháp cứu nước, giữ nước. Củng cố quốc
phòng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc vừa mới
giành được lúc này đặt ra rất gay gắt đối với Đảng và nhân dân ta. Để tạo sức mạnh to
lớn cho chiến tranh nhân dân, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân thắng lợi, Hồ Chí
Minh cho rằng, việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước trong mỗi con người Việt
Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Người cho rằng, lòng yêu nước và sự đoàn kết của
nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, là chất kết dính toàn thể dân tộc Việt Nam ,

25


×