Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Công tác chăm sóc,bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh cà mau trong giai đoạn hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.78 KB, 87 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chăm sóc,bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em là một công tác khá quan trọng
đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm, có nhiều tổ chức quốc tế đã được
thành lập nhằm góp phần nâng cao hơn nữa công tác chăm sóc sức khỏe cho giới
phụ nữ và trẻ em. Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chủ trương chính
sách nhằm phát huy hơn nữa công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em
để tạo ra một nguồn nhân lực quan trọng trong tương lai.
Hòa cùng với không khí phát triển chung của đất nước, thực hiện tốt các
chủ trương ,chính sách của Đảng và Nhà nước. Cà Mau, tỉnh tận cùng cực nam
của tổ quốc cũng có sự hưởng ứng mạnh mẽ những chủ trương cũng như những
chính sách mà Đảng và Nhà nước đề ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trong đó, có nhiều công tác mang tầm quốc gia nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống cho nhân dân về mọi mặt, và đặc biệt hơn cả đó là công tác Chăm
sóc,bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đã nhận được sự quan tâm khá sâu sắc từ
các cấp Ủy, chính quyền địa phương các cấp, sự tham gia tích cực của các ngành,
các giới, các đoàn thể xã hội, của cộng đồng cùng với sự chăm lo cho sức khỏe
bà mẹ và trẻ em của mỗi gia đình.Thực hiện nhiều chương trình, dự án hết sức
thiết thực nhằm đạt được một số những mục tiêu như: tiếp tục duy trì vững chắc
xu thế giảm sinh, cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em và trẻ sơ sinh, sức khỏe vị
thành niên…Đặc biệt chú ý đến các vùng và đối tượng có nhiều khó khăn, góp
phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược quốc gia về CSSKSS giai đoạn
2001 – 2010.
Trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án quốc gia nhằm đưa công
tác Chăm sóc,bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em có bước phát triển hiệu quả nhất,
cả nước nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng đã đạt được những kết quả khả
quan,tuy vậy cũng vấp phải không ít những khó khăn, vướn mắt cần phải có sự
hỗ trợ, quan tâm sâu sắc của các tổ chức quốc tế, của Đảng và Nhà nước, và cuả
cả cộng đồng xã hội quan tâm góp sức. Được vậy công tác Chăm sóc,bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện nay sẽ bước một
bước tiến cao hơn nữa trong công tác nâng cao sức khỏe nhân dân mà đặc biệt



1


hơn cả là bà mẹ và trẻ em, để họ có thể hưởng được những gì tốt đẹp nhất trong
đời sống xã hội hiện nay. Để có thêm nhiều hiểu biết hơn nữa về thực trạng cũng
như những giải pháp về công tác Chăm sóc,bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em của
tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện nay thì đề tài “Công tác Chăm sóc,bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng và
giải pháp”, sẽ cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này.
2. Mục đích và nhiệm vụ:
Đánh giá đúng thực trạng của công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và
trẻ em ở tỉnh Cà Mau.Tư đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh Cà Mau trong
giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đã tập trung tìm hiểu các vấn đề về
công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh Cà Mau,đánh giá
đúng thực trạng công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh nhà
và đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả hơn nữa công tác
chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em trong thời gian tới.
3. Đối tượng,phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến công tác chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em của tỉnh Cà Mau hiện nay,thực trạng và những
giải pháp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin,Tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam được thể
hiện trong các văn kiện.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:Thống kê,so
sánh,điều tra,phân tích và tổng hợp.

5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm có:Phần
mở đầu, phần nội dung (trong đó có 3 tiết và 10 tiểu tiết), phần kết luận.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I:QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC
KHỎE BÀ MẸ VÀ TRẺ EM.
1.1:Quan điểm của các tổ chức quốc tế về công tác chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em.
Trẻ em : “Trẻ em là một thuật ngữ chỉ một nhóm xã hội thuộc về độ tuổi
nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Tuổi trẻ em được quy
định như sau :theo công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em : “ Trẻ em có
nghĩa là người dưới 18 tuổi”. Theo luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em (2004) : “ Trẻ
em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Bà mẹ : chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản đó chính là bao gồm những
phụ nữ đang mang thai và có con nhỏ dưới 16 tuổi.
Về công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em luôn được các tổ
chức quốc tế đặc biệt quan tâm với nhiều quan điểm, cách thức tổ chức khác
nhau. Song, tất cả đều hướng tới mục tiêu dành những quyền lợi tốt nhất cho bà
mẹ và trẻ em, tương lai của nhân loại.
Để công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em đạt được những
thành tựu nhất định, đồng thời hạn chế bớt phần nào những kết quả không mong
muốn thì việc thực hiện các công tác liên quan đến vấn đề này càng được đặt biệt
quan tâm. Trong đó, công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức
khỏe sinh sản luôn được đề cập đến trong các chủ trương, chính sách của nhiều
nước trên thế giới và Việt Nam ta là một trong những quốc gia có sự ưu tiên đặt
biệt đối với các công tác này. Sau đây là thông điệp tuyên bố nhân ngày dân số

thế giới 11/7/2009 của quỹ dân số Liên Hiệp Quốc UNFPA:
Hôm nay, chúng ta kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới, cũng là lúc chúng ta tập
trung vào một can thiệp y tế quan trọng – KHHGĐ. Quyết định của chúng ta đưa
ra về việc sinh con là một trong những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời
mình. Lợi ích của KHHGĐ không chỉ bó gọn trong cuộc đời chúng ta nữa mà
còn cho cả gia đình và dân tộc. Hôm nay, chúng tôi muốn quý vị quan tâm tới 3
lý do cần thiết phải KHHGĐ.

3


Trước hết, KHHGĐ cứu được sinh mạng con người. Đây là một biện pháp
can thiệp có tác động lớn giúp nâng cao sức khoẻ phụ nữ và các bà mẹ. KHHGĐ
giúp phụ nữ và các cặp vợ chồng giãn khoảng cách giữa các lần sinh và tránh
mang thai ngoài ý muốn. Cùng với chăm sóc hộ sinh và cấp cứu sản khoa của các
cán bộ chuyên môn, KHHGĐ là một biện pháp đã chứng tỏ hiệu quả góp phần
đạt Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5 về nâng cao sức khoẻ bà mẹ và các
nhà lãnh đạo trên thế giới đã thông nhất về điều này.
Thứ hai, KHHGĐ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo quyền năng cho
phụ nữ và bình đẳng giới. Khi phụ nữ có thể KHHGĐ, họ có thể hoạch định cho
toàn bộ cuộc đời về sau của mình. Thông tin và dịch vụ KHHGĐ giúp các cá
nhân và các cặp vợ chồng thực hiện được quyền của mình trong việc quyết định
số con, thời điểm sinh và khoảng cách giữa các lần sinh. Quyền SKSS và Sức
khoẻ tình dục là mấu chốt trong việc tạo quyền năng và bình đẳng cho phụ nữ.
Thứ ba, KHHGĐ là một biện pháp hiệu quả trong cuộc chiến chống đói
nghèo. Cha mẹ có thể có kế hoạch sớm cho tương lai và dành nhiều nguồn lực
của mình hơn cho giáo dục và sức khoẻ của từng đứa con và điều đó có lợi cho
gia đình, cộng đồng quốc gia.
Hôm nay, nhân Ngày Dân số Thế giới, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc
UNFPA cam kết hỗ trợ đảm bảo sức khoẻ và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi

người.
Chúng tôi kêu gọi tất cả các chính phủ tái khẳng định cam kết của mình
đối với KHHGĐ và đảm bảo phổ cập tiếp cận tới SKSS vào năm 2015. Điều này
đòi hỏi cam kết chính trị và đầu tư tài chính. Đã đến lúc phải ưu tiên cho SKSS,
bao gồm cả KHHGĐ.
“Kế hoạch hoá gia đình là chìa khoá của hiện tại và tương lai”
THÔNG ĐIỆP TUYÊN TRUYỀN
Tháng hành động Vì Trẻ em Việt Nam (từ 15/5 đến 30/6)
-

Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai.

-

Hãy mang lại nụ cười, tình thương yêu cho trẻ em nghèo.
4


-

Tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em.

-

Hãy chung tay góp sức vì trẻ em nghèo.

-

Hãy giúp đỡ trẻ em nghèo bằng những tấm lòng nhân ái.


-

Hãy dành những gì tốt đẹp cho mọi trẻ em.

-

Vì một tương lai tốt đẹp, trẻ em nghèo cần được đến trường.

-

Hãy giúp đỡ để mọi trẻ em không bị đói nghèo và thất học.

-

Đầu tư cho trẻ em hôm nay - bền vững tương lai.

Để nâng cao hơn nữa tiến trình hoạt động của công tác chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em cũng như nâng cao chất lượng con người Việt Nam, Nhà
nước ta đã thực hiện nhiều chương trình thí điểm và đã được các tổ chức quốc tế
đánh giá rất cao trong công tác này. Trong đó, phát triển trẻ thơ – chiến lược “ Vì
lợi ích trăm năm trồng người” là một trong những dự án tạo nền tảng góp phần
quyết định nâng cao chất lượng con người Việt Nam. Khoa học ngày nay đã
chứng minh, sự phát triển của trẻ em dưới 6 tuổi, đặc biệt từ khi còn là bào thai
đến 3 tuổi có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần
và xã hội của những công dân tương lai. Thế nhưng, trong khoảng 10 triệu trẻ em
dưới 6 tuổi ở nước ta hiện nay ( năm 2005), có đến 5 triệu trẻ thơ được sinh ra và
đang lớn lên trong các gia đình nghèo. Trước tình hình đó, Ủy ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em đã soạn thảo chiến lược “Phát triển trẻ thơ” (PTTT) giai đoạn
2006 – 2010 và tầm nhìn 2020 với mục tiêu giúp cho trẻ thơ phát triển toàn diện
trong một môi trường an toàn, lành mạnh và khuyến khích, để trở thành những

công dân đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc – UNICEF, PTTT là giai đoạn phát
triển trong cuộc đời của trẻ từ 0 đến 8 tuổi, nhưng do ý nghĩa quan trọng có tính
chất quyết định của việc chăm sóc, bảo vệ bà mẹ khi mang thai đối với tương lai
của đứa trẻ nên UNICEF đã quan tâm đến PTTT ngay từ khi còn là bào thai.

5


Ở Việt Nam, tuổi mầm non được qui định từ 0 đến 6 tuổi với 3 giai đoạn
chính: 0 – 18 tháng tuổi (gọi là tuổi sơ sinh và nhũ nhi), 18 – 36 tháng (tuổi nhà
trẻ) và 3 – 6 tuổi (tuổi mẫu giáo). Sự khác biệt nói trên thực ra chỉ là quy định
mang tính tương đối, giống như nhiều nước qui định trẻ em là công dân dưới 18
tuổi, còn ở Việt Nam theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em là công
dân dưới 16 tuổi (điều 1).
PTTT được hiểu là một quá trình biến đổi tổng thể, cải biến toàn vẹn các
mặt thể chất, tinh thần và xã hội, cũng như các năng lực của trẻ có tính đến các
lứa tuổi. PTTT về thể chất biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng,
cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợi các vận động. Sự phát triển về
tinh thần thể hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, xúc cảm, ý
chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách.
Sự phát triển về xã hội biểu hiện ở những biến đổi trong cách cư xử và sự
tham gia vào đời sống xã hội. Như vậy, khi nói đến PTTT là nói đến sự phát triển
toàn diện, hài hòa nhân cách của trẻ thơ, là quá trình trẻ học cáhc điều khiển như
thế nào với các mức độ ngày càng phức tạp trong hoạt động, suy nghĩ, cảm xúc
và sự giao tiếp với người cũng như đồ vật.
Theo Tổ chức Cứu trợ trẻ em Anh, “PTTT toàn diện thực ra là một khái
niệm đơn giản: Trẻ càng nhỏ và càng nhận được nhiều tác động hỗ trợ được phối
hợp từ nhiều khía cạnh thì càng hiệu quả. PTTT toàn diện bao gồm tất cả các lĩnh

vực phát triển của trẻ: Vận động, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, quan hệ xã hội
từ khi sinh ra cho tới 8 tuổi. Mục tiêu nhằm đảm bảo cho trẻ em tất cả các quyền:
Được sinh tồn sinh tồn,được bảo vệ,chăm sóc và phát triển tối đa.”
Trong nhiều năm qua, đầu tư từng lĩnh vực cho trẻ thơ phát triển đã được triển
khai ở Việt Nam, nhưng đầu tư một cách toàn diện theo một chiến lược, bằng các
chương trình lồng ghép hay dự án can thiệp là vấn đề còn mới. Chiến lược này
cần được xây dựng trên cơ sở tâm lý phát triển, quyền trẻ em và sự kết hợp của
các lĩnh vực sức khỏe, dinh dưỡng, phát triển cộng đồng, xã hội học và kinh tế.

6


Ngày nay, sự quan tâm của quốc tế về chăm sóc và giáo dục trẻ thơ ngày
càng tăng, xuất phát từ nhận thức rằng, sự phát triển về sức khỏe, thể chất, tri
thức, tình cảm, tinh thần và văn hóa có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong
cuộc sống của trẻ.
Do đó, theo các chuyên gia của ADB, PTTT bao gồm tất cả các hỗ trợ cần
thiết cho mỗi trẻ em để các em nhận thức được các quyền của mình: được sinh
tồn, bảo vệ và chăm sóc là đảm bảo sự phát triển tối ưư cho trẻ từ lúc sinh ra cho
đến khi đạt 8 tuổi.
Phát triển trẻ thơ – Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước.
Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng định: Trẻ em được gia
đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Đây là một chế định pháp
lý quan trọng về quyền trẻ em. Việt Nam là nước thứ 2 trên Thế giới và là nước
đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em (20.2.1990).
Báo cáo tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã chỉ rõ: “Chính
sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em tập trung vào việc thực hiện quyền trẻ em, tạo
điều kiện thuận lợi cho trẻ sống trong một môi trường lành mạnh và an toàn, đạt
sự phát triển thể chất, tâm thần, tinh thần và phẩm giá và trẻ tàn tật, mồ côi sống
trong điều kiện đặc biệt khó khăn được có cơ hội học hành và phát triển”.

Trong những năm qua, đặc biệt là trong gần 20 năm đổi mới, Đảng và
Chính phủ đã thể chế hóa các quan điểm về sự cam kết và chính sách bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em bằng cách ban hành các văn bản luật và dưới luật:
Quyết định số 973/QĐ- TTg năm 1997 về việc trợ cấp cho giáo viên, bao gồm
giáo viên của hệ thống giáo dục ban đầu trong khu vực công; Luật giáo dục (quy
định giáo dục trẻ thơ là một phần của hệ thống giáo dục quốc gia); Luật phổ cập
giáo dục tiểu học, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ Luật dân sự, Luật bảo vệ sức
khỏe nhân dân, Bộ Luật lao động, Bộ Luật hình sự, Bộ Luật Quốc tịch, Luật bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em; Chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình
1993 – 2000; Chiến lược dân số giai đoạn 2001 – 2010; Chiến lược chăm sóc sức

7


khỏe sinh sản; Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001 – 2010;
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010; Kế
hoạch hành động quốc gia phổ cập giáo dục 2003 – 2010; Quyết định
161/2001/QĐ – TTg của thủ tướng chính phủ về giáo dục tiền học đường, chủ
yếu là giáo dục và chăm sóc ở các vùng đặc biệt khó khăn. Đặc biệt từ ngày
1.6.2005 đã tiến hành cấp thẻ khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi
tại các cơ sở y tế công lập.
Để triển khai thực hiện các mục tiêu của các chiến lược và chương trình
hành động nêu trên, bằng nguồn vốn đầu tư của nhà nước và sự viện trợ của các
tổ chức quốc tế (WB, ADB, UNICEF, Tổ chức Plan quốc tế, Liên minh các tổ
chức cứu trợ trẻ em Anh, Úc, Thụy Điển, Mỹ…) cũng như các tổ chức từ thiện
và các cá nhân, nhiều chương trình, dự án hay hoạt động đã được các Bộ ban
ngành, các đoàn thể triển khai thực hiện nhằm phát triển trẻ mầm non và đã đạt
được những thành tựu quan trọng.
Như vây, mặc dù trong từng lĩnh vực riêng lẻ đã có những chính sách, chiến
lược hay chương trình hành động, nhưng cho đến nay, nhìn một cách tổng thể,

nước ta chưa có một chiến lược PTTT toàn diện, mà lý do chính là trong nhiều
năm trước đây chưa có một cơ quan của Chính phủ làm đầu mối thực hiện chức
năng quản lý nhà nước, có trách nhiệm điều phối và tổ chức các hoạt động đa
ngành, đa lĩnh vực liên quan đến PTTT.
Những cơ hội và thách thức trong công tác PTTT
- Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và trẻ thơ nói riêng ngày càng
được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước. Mặc dù bộ máy còn một số bất
cập nhưng đã có cơ quan chuyên trách về lĩnh vực dân số, gia đình và trẻ em.
Mặt khác, trên bình diện quốc tế, công tác trẻ em ngày càng được coi trọng và
nhiều tổ chức quốc tế đã và đang hỗ trợ nước ta thực hiện mục tiêu xây dựng một
thế giới phù hợp để trẻ me luôn được sống trong một môi trường an toàn, lành
mạnh và có đầy đủ cơ hội phát triển.

8


- Chúng ta đã tích lũy nhiều kinh nghiệm trong PTTT thuộc từng lĩnh vực riêng
lẻ, nhưng bên cạnh đội ngũ cán bộ không chuyên trách và cộng tác viên tại cơ sở,
còn thiếu đội ngũ làm công tác xã hội chuyên nghiệp hay tự nguyện về bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em như nhiều nước hiện nay.
- Tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe và việc tiếp cận với các dịch vụ PTTT của trẻ
thơ trong các gia đình nghèo còn ở mức thấp và khoảng cách của nhóm trẻ thơ
nghèo so với trẻ thơ trong gia đình giàu và khá giả ngày càng tăng, đặc biệt là ở
vùng nông thôn, vùng sâu và vùng xa. Số liệu thống kê cho thấy, các chỉ báo về
giáo dục, sức khỏe và trẻ em nghèo tăng không đáng kể trong 10 năm qua trong
khi các chỉ báo tương tự đối với trẻ em không thuộc nhóm nghèo tăng đáng kể.
Thực tế cho thấy, mặc dù kinh tế tăng trưởng nhanh, phúc lợi xã hội và thu nhập
nình quân đầu ngươi tăng đáng kể, tỷ lệ đói nghèo giảm nhưng nhóm người
nghèo vẫn có nguy cơ bị tụt hậu xa và ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ thơ.
- Chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ, nhất là nhóm trẻ 0 – 3 tuổi tại hộ gia đình

chưa cao do kiến thức, kĩ năng của các bậc cha mẹ và những người chăm sóc trực
tiếp trẻ còn hạn chế. Tỷ lệ nhập học màm non của trẻ trong các gia đình nghèo rất
thấp. Hiện có 1/3 số trẻ trong độ tuổi mầm non (chủ yếu 3-5 tuổi) được nhập học
tại các cơ sở mầm non. Theo điều tra nhân khẩu học và sức khỏe năm 2002, có
40% số phụ nữ đang làm việc có con dưới 6 tuổi, 23% trong đó được các cô giáo
mầm non chăm sóc. Số trẻ đi nhà trẻ, mẫu giáo ở thành thị là 40,9% và ở nông
thôn chỉ có 19,9%. Đang lưu ý là, tỷ lệ nhập học của trẻ 0-3 tuổi thuộc gia đình
nghèo có xu hướng giảm trong các năm 1993 – 1998, từ 6% xuống còn dưới 1%.
Đến năm 2000, tỷ lệ trẻ 3-4 tuổi thuộc nhóm nghèo nhập học là 14,7% so với
39,4 của nhóm không nghèo. Tỷ lệ trẻ 0-3 tuổi thuộc nhóm nghèo nhập học màm
non là 0,5% so với 3,2% nhóm không nghèo.
- Khái niệm về PTTT, đặc biệt là khái niệm lồng ghép PTTT chưa được nhận
thức đầy đủ ở các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Do vậy, giữa các bộ
ngành vẫn tồn tại phương thức làm việc đơn lẻ, cục bộ, ít chú ý đến việc lồng

9


ghép, phối hợp để xây dựng kế hoạch hỗ trợ nhau trong việc cung cấp các dịch
vụ cho trẻ em.
- Thiếu cơ chế phối hợp rõ ràng trong hỗ trợ PTTT- một lĩnh vực cần sự điều
phối, kết hợp chặt chẽ giữa nhiều ngành nghề, khu vực khác nhau như y tế, giáo
dục, lao động – thương binh – xã hội, thể dục thể thao, văn hóa thông tin, tư
pháp, công an, các hoạt động chăm sóc tại gia đình và cộng đồng, giáo dục trong
và ngoài nhà trường.
- Các chương trình giáo dục cha mẹ ngay tại cộng đồng nhằm hỗ trợ trẻ thơ lớn
khỏe mạnh và phát triển trong những năm đầu đời bao gồm: Học làm cha làm
mẹ, các dịch vụ y tế cơ bản đối với trẻ, chương trình dinh dưỡng, tiêm chủng mở
rộng…còn chưa được xây dựng và phát triển lồng ghép với các chương trình
khác như vay vốn để sản xuất, tăng thu nhập, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến

ngư…
- Đầu tư của nhà nước cho Phát triển trẻ thơ còn hạn chế so với nhiều nước trong
khu vực. Hỗ trợ của nhà nước, đặc biệt cho trẻ em nghèo bị nhiều thiệt thòi ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn thiếu và chưa đáp ứng nhu cầu tiếp cận
các dịch vụ cơ bản cho người nghèo như: chăm sóc trước và sau khi sinh, xây
dựng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, khám chữa bệnh, điểm sinh hoạt, vui chơi cho
trẻ…
Một số đề xuất
Căn cứ luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, với tiếp cận dựa trên các
quyền của trẻ em, để các hoạt động PTTT đạt hiệu quả, xin đề xuất một số quan
điểm và định hướng trong giai đoạn tới như sau:
Một là, PTTT là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển con người
của Đảng và Nhà nước, là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và của các cấp
chính quyền. Nhiệm vụ này đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho đất nước trong tương lai.

10


Hai là, trẻ thơ là giai đoạn phát triển quan trọng nhất về thể chất, trí tuệ, tình
cảm, nhận thức và các kỹ năng xã hội đối với mỗi con người. Trẻ thơ là đối
tượng đặc biệt nhất có quyền được hưởng thụ đầy đủ các dịch vụ về chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục để được phát triển toàn diện, phát huy hết tiềm năng.
Ba là, mọi trẻ thơ trong các gia đình nghèo, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn cần được Nhà nước trợ cấp, được hưởng một chế độ ưu đãi về chăm sóc y
tế, dinh dưỡng, giáo dục, vui chơi miễn phí và có chất lượng để phát triển tối đa
tiềm năng của mình, xóa bỏ sự bất bình đẳng ngay từ lúc mới được sinh ra.
Bốn là, ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo trog chăm sóc và giáo dục
trẻ thơ, đòng thời cần đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ chăm sóc và giáo dục trẻ
thơ để huy động các nguồn lực cho PTTT ở các khu vực kinh tế phát triển, tập

trung nguồn lực cho nhóm trẻ thơ nghèp, vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn.
Năm là, PTTT có tính đa ngành, đa lĩnh vực và mang tầm chiến lược cho
nên việc xây dựng và sớm ban hành chiến lược PTTT cho từng giai đoạn là hết
sức cần thiết.
1.2:Quan điểm của Đảng ta về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Chăm sóc,bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em được các cấp lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Trong đó,có thể nói rằng
hiếm có nhà lãnh đạo nào trên thế giới lại quan tâm đến trẻ em một cách đặc
biệt, sâu sắc và cụ thể như Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Điều đó được chứng minh
qua nhiều sự việc.Tuy nhiên, chỉ trong khía cạnh là trong tổng số các di sản
của Người có tới 128 bài viết đề cập đến trẻ em và việc bảo vệ, chăm sóc,giáo
dục trẻ em;trong đó có tới 60 bài là các bức thư, bài thơ,bài nói chuyện của
Người gửi trực tiếp đến thiếu niên,nhi đồng chứng tỏ rằng trong cả cuộc đời
của Người,Bác Hồ đã giành cho trẻ em những tình cảm yêu thương vô bờ
bến.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn ngủ,biết học hành là ngoan”.

11


Trong một bài nói chuyện nhân dịp về thăm khu mỏ Quảng Ninh năm
1957,Bác lại đề cập và phân tích rõ hơn điều này “Nói đến các cháu nhi đồng
thì bất cứ nước nào, nơi nào cũng rất ngoan, vì các chú còn non trẻ, thật thà,
ngay thẳng,rất tốt nhưng chính vì cái tốt của các cháu, cho nên “gần mực thì
đen, gần đèn thì sáng”.Từ đó,Bác khẳng định : trẻ em hư là do “khuyết điểm
ở các cô các chú, tất cả những người lớn,của xã hội là chính”.
Như vậy có thể nói rằng, quan niệm của Hồ Chí Minh về trẻ em là một
quan niệm đậm đà tính nhân văn. Nó đã khái quát một cách hình tượng bản
chất đích thực của Trẻ em,là những thực thể xã hội còn yếu ớt cả về thể chất

và chưa hoàn thiện về mặt tinh thần; từ đó khẳng định trách nhiệm và vai trò
quan trọng của những người là cha, mẹ, người lớn và toàn thể xã hội đối với
trẻ em.Điều này làm chúng ta liên hệ đến quan niệm mang tính chất triết học
về bản chất của con người mà Bác Hồ từng đề cập trong tác phẩm Nhậtt ký
trong tù:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tĩnh vậy phân ra kẻ dữ ,hiền;
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Cũng đề cập đến quan niệm về trẻ em, Bác Hồ còn nêu ra khía cạnh xã hội
của trẻ em một cách hết sức chính xác bằng việc khẳng định : Trẻ em là mầm
non của dân tộc, là người chủ tương lai của đất nước. Những quan niệm
đúng đắn đó của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã và vẫn đóng vai trò là kim chỉ
nam trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của chúng ta trong
giai đoạn hiện nay.
Tình yêu thương của Bác Hồ dành cho trẻ em là thứ tình cảm bắt nguồn từ
lý tưởng cao cả mà người theo đuổi; suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng loài người, suốt đời với “ham muốn tột bậc”là
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.Đó chính là những tình cảm xuất phát từ
đáy lòng giúp cho không những trẻ em mà bất cứ người nào cũng cảm thấy vô
cùng cảm động. Từ năm 1945 đến năm 1969,gần như Trung Thu và ngày 1/6
nào (những ngày tết của trẻ em), Bác Hồ đều viết thư cho thiếu niên nhi

12


đồng.Không những thế, trong di sản của Người, còn có rất nhiều những bức
thư Bác viết gửi cho một hoặc một nhóm trẻ em, nhân việc những trẻ em đó
có những thành tích đặc biệt hoặc có những hoàn cảnh đặc biệt. Không những
gửi thư cho thiếu niên, nhi đồng trong nước,Bác còn gửi nhiều bức thư cho

thiếu niên, nhi đồng các nước xã hội chủ nghĩa. Tất cả những bức thư như vậy
đều dạt dào tình cảm, đều chứa đựng những yêu thương, tin tưởng cùng
những lời căn dặn dễ hiểu nhưng sâu sắc. Trong một bức thư như vậy, Bác
Hồ từng viết: “Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh” và lời thư( cũng
là lời thơ) đó đã in sâu vào đáy lòng không chỉ với thế hệ trẻ mà còn với tất cả
các thế hệ người Việt Nam chúng ta trong mấy chục năm qua. Năm 1946, khi
cuộc kháng chiến chống pháp của dân tộc mới bắt đầu,chính Bác Hồ, với
lòng yêu trẻ em vô bờ bến, đã ra thông báo cho các cơ quan hành chính cách
mạng khắp các địa phương thu thập danh sách những thiếu niên, nhi đồng là
con các liệt sĩ gửi về văn phòng chính phủ ở Hà Nội để chứng nhận đó là
nhữngcon nuôi của Bác.Cho đến tận trước lúc ra đi, Chủ Tịch Hồ Chí Minh
vẫn không quên nhớ đến trẻ em, vẫn còn “để lại muôn vàn tình thân yêu cho
toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi
đồng”.
Trong kho tàng di sản của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể thấy
nhiều lời căn dặn thể hiện những quan điểm cụ thể của người về vấn đề bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Người chỉ ra rằng, trẻ em cần được bảo vệ
và chăm sóc về tất cả mọi mặt, từ sức khỏe, học tập, vui chơi giải trí đến việc
bài tỏ ý kiến và tham gia những hoạt động đoàn thể.
Bên cạnh việc coi trẻ em là những chủ thể còn non nớt về thể chất và trí
tuệ, cần phải quan tâm, chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, Người đã đặt niềm tin
yêu mạnh mẽ vào trí tuệ và phẩm cách của thế hệ trẻ.Trong bức thư gửi các
cháu học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước việt Nam độc lập, Bác
Hồ khẳng định: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc
Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
em”.Câu nói đó đã trở thành một lời nhắn nhủ và động viên tuổi trẻ Việt Nam

13



phấn đấu trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trong học tập trong suốt những
năm chiến tranh giải phóng và vẫn còn giá trị thời sự quý báo trong thời điểm
hiện nay. Nhiều trẻ em Việt Nam đã mang trong tâm khảm câu nói này của
Bác Hồ và đã phấn đấu không mệt mỏi trong học tập, rèn luyện, trở thành
những nhân tài mang lại niềm vinh quang cho đất nước trong các kỳ thi quốc
tế.
Hết lòng,hết sức chăm lo đến trẻ em và việc bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ
em, Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đây là một sự nghiệp vô cùng lớn lao và
hệ trọng. Nó không chỉ đòi hỏi sự cố gắng của các bật cha mẹ, các thầy cô
giáo, các anh chị phụ trách mà còn là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội, Người chỉ rõ: chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, trước hết gia đình(tức là ông bà cha mẹ,anh chị) phải
làm thật tốt công việc ấy, sau đó, các đảng ủy…Ủy ban thiếu niên nhi đồng,
Đoàn Thanh niên, ngành giáo dục và các ngành, các đoàn thể phải có kế
hoạch thật cụ thể chăm sóc các cháu ngày càng khỏe mạnh và tiến bộ. Các
tỉnh ủy, thành ủy cần phải phụ trách đôn đốc việc này có kết quả tốt. Bác
khẳng định: “giáo dục thiếu niên, nhi đồng là trách nhiệm của các cô, các chị,
của gia đình, của nhà trường, của đoàn thể, của xã hội. Muốn giáo dục các
cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp
chặt chẽ với nhau”.Trong bài phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc họp ở
Hà Nội, ngày 24-11-1946, Bác Hồ còn kêu gọi: “ các nhà văn hóa Việt Nam
hãy chú ý đặc biệt đến nhi đồng”.
Quan điểm này của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một quan điểm hết sức sáng
suốt. Nó chứng tỏ tầm nhìn xa, trông rộng và sự quan tâm sâu sắc của Người
đối với trẻ em. Thực tế đã chứng tỏ rằng, với những vấn đề rộng lớn và hết
sức quan trọng như việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, muốn thực hiện
có hiệu quả thì không thể thiếu sự kết hợp, huy động sức mạnh tổng hợp của
toàn xã hội. Những kết quả tốt đẹp mà chúng ta đạt được trên lĩnh vực này
trong những năm qua chính là đã hành động theo hướng đó. Sau này, công

ước về quyền trẻ em cũng khẳng định và kêu gọi các quốc gia thành viên huy
động sự quan tâm, đóng góp của toàn xã hội vào vấn đề này.

14


Nghiên cứu kho tàng di sản của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể
thấy rằng, mặt dù không đề cập trực tiếp đến khái niệm “quyền trẻ em”,
nhưng Chủ Tịch Hồ Chí Minh chính là một nhà lãnh đạo luôn tôn trọng, quan
tâm đến các quyền lợi của trẻ em,Bác Hồ chính là người đã mang lại cho trẻ
em Việt Nam những quyền cơ bản mà một trong những quyền đầu tiên và
quan trọng nhất là quyền được làm một người công dân của một nước độc
lập.
Không ai có thể phủ nhận rằng, dưới sự lãnh đạo của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh, vị trí cụa trẻ em Việt Nam đã tiến một bước nhảy vọt, từ việc bị coi là
“những vật sở hữu của các bậc cha mẹ” dưới chế độ cũ lên địa vị là những
người chủ tương lai của đất nước, được nhà nước và toàn xã hội hết sức quan
tâm, luôn ưu tiên dành cho nhữn điều kiện tốt đẹp nhất cả về vật chất và tinh
thần.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn dành cho trẻ
em những sự quan tâm ngày một lớn hơn với tinh thần “Dành cho trẻ em
những gì tốt đẹp nhất mà mình có”, “Tất cà vì tương lai con em chúng ta”.
Nhờ vậy, việc bảo đảm các quyền của trẻ em ở Việt Nam ngày càng có những
chuyển biến đáng khích lệ, được cộng đồng quốc tế ca ngợi.Đánh giá cao kết
quả mà nước ta đã đạt được trong việc bảo đảm các quyền trẻ em, cộng đồng
quốc tế đã bầu Việt Nam là thành viên của Ban chấp Hành tổ chức Quỹ nhi
đồng quốc tế (UNICEF) trong nhiệm kỳ 1996-1998.
Tất cả những thành tích đó được xuất phát từ việc thấm nhuần những quan
điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong vấn đề này.[Trang 442-445]
Quan điểm của Đảng ta về công tác chăm sóc,sức khỏe bà mẹ và trẻ em

mà đặt biệt là đối với trẻ em, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
thế hệ tương lai của dân tộc ngày càng được quan tâm đúng mực.
Trong những năm qua, trẻ em của chúng ta đã được cải thiện đáng kể về
thể chất và trí tuệ, được tiếp tục tạo điều kiện tốt hơn để hưởng các quyền cơ
bản của mình. Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em đã góp phần bổ sung
nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước và đóng góp vào sự thành công
của công cuộc đổi mới.

15


Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã hội. Người Việt
Nam vốn có truyền thống yêu thương gắn bó với con cháu, con cháu không chỉ là
nguồn hạnh phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm
tin và sự hãnh diện. Vì vậy, ngay từ thời xa xưa, các nhà nước phong kiến đã đề
ra những quy định bằng pháp luật để bảo vệ trẻ em; nhân dân cũng tự hình thành
các quan hệ đạo đức nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà
nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em. Nhiều chủ trương, chính
sách ra đời hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về
thể chất, tinh thần và đạo đức của trẻ em. Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực
hiện nhiều chính sách tầm chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng và đã đào
tạo được những lớp người giàu lòng yêu nước, có sức khỏe, có văn hóa, hết lòng,
hết sức phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội
được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em
(ngày 20-2-1990), là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận thức và hành động
đối với trẻ em và thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. Chúng ta đã ban hành luật,

chính sách, văn bản hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy chuẩn, chương trình hành
động, chương trình mục tiêu, các dự án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và đào
tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan
đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nhờ đó công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em đã có những chuyển biến tích cực.
Một là, hệ thống giáo dục quốc dân khá hoàn chỉnh được phát triển, bao
gồm đủ các cấp học, bậc học dưới nhiều hình thức theo hướng xã hội hóa như
công lập, dân lập và tư thục; cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục được tăng
cường. Việc xây dựng môi trường học tập an toàn, thân thiện được đẩy mạnh. Tỷ
lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học, trung học cơ sở đều tăng. Phổ cập

16


trung học cơ sở đang được triển khai đến hơn một nửa số tỉnh, thành phố trên cả
nước. Tỷ lệ trẻ em đi học có xu hướng tăng ở các cấp học từ mầm non đến trung
học cơ sở. Điều này cho thấy quyền đi học của trẻ em ngày càng được bảo đảm.
Năm học 2007 - 2008, tỷ lệ trẻ em đến nhà trẻ tăng bình quân 3,8%/năm,
mẫu giáo tăng 2,4%/năm; trẻ từ 3tuổi đến 5 tuổi đi học đạt 66,6% số trẻ trong độ
tuổi; học sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi đạt 96,06%; học sinh trung học cơ sở
đi học đúng độ tuổi đạt 82,69%; tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm dần. Đến
tháng 9-2008, có 42/63 tỉnh, thành phố (chiếm 66,7%) đạt chuẩn phổ cập tiểu học
đúng độ tuổi và được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính đến tháng 6-2008,
toàn quốc có 6.217 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó mầm non chiếm khoảng
13%, tiểu học là 30%, trung học cơ sở là 8% và trung học phổ thông là 5%.
Hai là, công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em ngày càng được cải thiện. Mạng
lưới y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp. Hầu hết các xã, phường đều có trạm y
tế. Trẻ em nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở
y tế công lập trên toàn quốc. Các chỉ số về tỷ lệ suy dinh dưỡng, trẻ em tử vong,
bà mẹ tử vong đều giảm. Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, trẻ em bị tai nạn

thương tích ngày càng được quan tâm. Công tác khám, chữa bệnh miễn phí cho
trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện có hiệu quả. Tính đến cuối năm
2008, khoảng 10 triệu trẻ em đã được cấp phát thẻ khám chữa bệnh, đạt trên 99%
tổng số trẻ em dưới 6 tuổi trên toàn quốc; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
chỉ còn 22,7%. Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản có liên
quan về phòng, chống tai nạn giao thông, trong đó có phòng, chống tai nạn
thương tích tại cộng đồng cho trẻ em. Các mô hình "ngôi nhà an toàn", "cộng
đồng an toàn", "trường học an toàn", phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em
đang được triển khai và nhân rộng trên toàn quốc. Hàng trăm xã triển khai mô
hình "ngôi nhà an toàn"; gần một trăm trường học thí điểm mô hình "trường học
an toàn".
Ba là, nhận thức của trẻ em và người chưa thành niên đã từng bước được
nâng cao. Các em được cung cấp các kiến thức, kỹ năng để tự chăm sóc và bảo

17


vệ mình; cơ hội và hoạt động tăng cường sự tham gia của trẻ em đang dần được
mở rộng. Các em ngày càng có điều kiện bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động
có liên quan đến mình dưới nhiều hình thức và ở các cấp độ như: ở trường học, ở
địa phương, ở cấp quốc gia và quốc tế. Tính đến cuối năm 2008, cả nước có trên
220 nhà văn hóa thiếu nhi, nhà thiếu nhi; 3.673/8.895 xã có nhà văn hóa;
37.124/73.793 thôn có nhà văn hóa; 7.854 xã và 34.303 thôn có sân thể thao; 148
điểm vui chơi dành cho trẻ em cấp tỉnh và tương đương; 773 điểm vui chơi cấp
huyện và tương đương; 8.654 điểm vui chơi cấp xã, phường.
Đến nay, đã có gần 20 tờ báo dành cho trẻ em như: Hoa học trò, Mực tím,
Thiếu niên Tiền phong, Nhi đồng và có trên 10 tờ báo, tạp chí với những chuyên
trang phục vụ trẻ em như: Gia đình và Xã hội, Gia đình và Trẻ em, Kế hoạch hóa
gia đình, Thanh niên, Tiền phong, Tạp chí Thanh niên, Tạp chí Người phụ trách,
Tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa, v.v.. Trung bình hằng năm có 15% số xuất

bản phẩm phục vụ trẻ em. Hệ thống thư viện, trong đó có phòng đọc, sách báo
dành riêng cho trẻ em được hình thành và phát triển nhằm thu hút đông đảo trẻ
em. Đến nay, 100% số thư viện cấp tỉnh và 30% số thư viện cấp huyện, xã và
nhiều khu dân cư đã có các đầu sách, túi sách lưu động dành cho trẻ em.
Sự tham gia hoạt động của trẻ em cũng được quan tâm và đẩy mạnh. Tính
đến cuối năm 2008, có 18 triệu trẻ em tham gia Đội Thiếu niên Tiền phong, Sao
Nhi đồng, 17.000 câu lạc bộ quyền trẻ em, 44 câu lạc bộ Phóng viên nhỏ với
2.500 thành viên chính thức đang hoạt động ở 22/63 tỉnh, thành phố và hàng chục
ngàn trẻ em tham gia, đối thoại, diễn đàn ở cấp tỉnh, thành phố, cấp quốc gia và
quốc tế về nhiều chủ đề và lĩnh vực trẻ em quan tâm.
Bốn là, trong những năm qua, gia đình, cộng đồng và Nhà nước luôn luôn
quan tâm, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện cho các em phát
triển đầy đủ thể chất và tinh thần. Nhiều em đã được hưởng các chính sách, chế
độ và nhận nuôi dưỡng. Tính đến cuối năm 2008, có 75% số trẻ em mồ côi không
nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc, dưới nhiều hình thức.

18


Trẻ khuyết tật được chăm sóc dưới các hình thức khác nhau tại các mô hình
dựa vào gia đình và cộng đồng, các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước. Nhiều
chương trình được triển khai hiệu quả, nhằm trợ giúp trẻ em khuyết tật như phẫu
thuật mắt, phẫu thuật tim bẩm sinh, hỗ trợ trẻ em nạn nhân của chất độc hóa học.
69.750 em đã được chăm sóc, phục hồi chức năng và phẫu thuật chỉnh hình.
Thực hiện Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong
điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010, ngành dân số, gia đình và trẻ
em trước đây và nay là ngành lao động, thương binh và xã hội đã phối hợp với
chính quyền địa phương, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và cộng đồng trong việc
bảo đảm để trẻ em và gia đình các em đi lang thang hoặc có nguy cơ đi lang

thang được học văn hóa, học nghề, tìm việc làm, giúp các em hồi gia và hòa nhập
cộng đồng, gia đình các em được vay vốn dưới dạng ưu đãi. Có 6.429 trẻ em lang
thang hồi gia được hỗ trợ giải quyết khó khăn; 4.673 trẻ em lang thang trở về gia
đình được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; 5.967 trẻ em lang thang được hỗ trợ đi
học. Theo báo cáo của các địa phương năm 2008, cả nước có 26.027 trẻ em lao
động trong điều kiện nặng nhọc độc hại, nguy hiểm, 17.927 trẻ em lang thang và
3.436 em làm việc xa gia đình được chăm sóc.
Bên cạnh những thành tựu trên, công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em vẫn còn
nhiều hạn chế và thách thức, đặc biệt là đối với trẻ em trong các gia đình nghèo,
vùng nghèo.
Thứ nhất, về chăm sóc sức khỏe.Tình trạng trẻ em dưới 5 tuổi tại các tỉnh
Tây Nguyên và miền núi phía Bắc bị suy dinh dưỡng vẫn còn cao, trung bình gần
30%. Số trẻ nhiễm HIV/AIDS, tính đến tháng 12-2007, trẻ dưới 13 tuổi chiếm
1,7% (khoảng 2.700 em); trẻ từ 13 - 19 tuổi chiếm 4,5% (khoảng 7.000 em);
khoảng 22.000 trẻ mồ côi do bố, mẹ chết bởi HIV/AIDS. Tai nạn thương tích trẻ
em xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, đặc biệt là tai nạn giao thông (27%), chết
đuối (23%) và ngộ độc. Trong khi đó, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho
trẻ em tại tuyến cơ sở chưa đáp ứng nhu cầu. Một số loại bệnh tật của trẻ em ở

19


lứa tuổi học đường như cận thị, cong vẹo cột sống, rối nhiễu tâm trí... chưa được
kiểm soát. Công tác y tế học đường mặc dù có chỉ đạo nhưng chưa thực hiện
được nhiều. Phần lớn các trường học còn thiếu các công trình cấp nước sạch và
công trình vệ sinh hoặc có nhưng không đáp ứng được nhu cầu của trẻ em.
Thứ hai, về chất lượng giáo dục. Tỷ lệ lưu ban đã có xu hướng giảm ở cả
hai bậc tiểu học và trung học cơ sở, nhưng tỷ lệ bỏ học vẫn chưa có xu hướng
giảm rõ rệt. Năm học 2007 - 2008 số trẻ em bỏ học khoảng 137.000 em. Nguyên
nhân bỏ học là do lực học kém, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, điều kiện trường lớp

ở xa nơi cư trú. Vẫn còn khoảng cách về giáo dục giữa thành thị và nông thôn,
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ nhập học và hoàn thành bậc học của một
số nhóm đối tượng (như trẻ em tàn tật, trẻ em vùng dân tộc thiểu số...) còn thấp
hơn nhiều so với tỷ lệ chung. Trẻ em là người dân tộc thiểu số vẫn còn gặp rào
cản ngôn ngữ khi mới bắt đầu tới trường ở bậc tiểu học; tỷ lệ huy động trẻ mầm
non đến lớp không đồng đều giữa các vùng, miền và còn thấp.
Thứ ba, về công tác bảo vệ trẻ em. Một số nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt
chưa được đưa vào Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, như trẻ em bị lạm dụng, bạo
lực, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các vụ ly hôn, con nuôi,
trẻ em di cư, bị buôn bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo... Thiếu các số liệu
đáng tin cậy liên quan đến trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Thiếu các quy trình
tư pháp thân thiện với trẻ em. Vấn đề truyền thông giáo dục, việc phổ biến kỹ
năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em còn thiếu chiều sâu, đặc biệt là ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa. Trẻ em chưa có nhiều kỹ năng để tự bảo vệ mình, đặc biệt các
khuyến cáo của Nhà nước chậm đến từng gia đình, trẻ em. Kỹ năng làm việc với
trẻ em của đội ngũ cán bộ làm việc liên quan tới trẻ em, đặc biệt trẻ em vi phạm
pháp luật còn hạn chế.
Thứ tư, về điều kiện vui chơi, giải trí.
Trẻ em ở vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn chưa
được tiếp cận nhiều với các hoạt động vui chơi, giải trí. Thiết chế văn hóa, thông
tin tại cơ sở còn thiếu các điểm vui chơi cho trẻ em, các điều kiện về an toàn
20


chưa được bảo đảm. Việc quản lý các xuất bản phẩm chưa thật hiệu quả, nên trẻ
em dễ bị lạm dụng; quản lý thiếu chặt chẽ việc sử dụng In-tơ-nét và những trò
chơi điện tử, trang điện tử không lành mạnh cũng ảnh hưởng không tốt tới sự
phát triển của trẻ em. Sự tham gia của trẻ em trên các diễn đàn chưa được tổ chức
rộng rãi trên phạm vi toàn quốc, các câu lạc bộ của trẻ em (chủ yếu tại trường
học, các câu lạc bộ tại cộng đồng) rất ít và chưa phổ biến.

Trước tình hình mới, định hướng bảo vệ chăm sóc trẻ em đến năm 2010
và tầm nhìn đến 2015 là: Phấn đấu thực hiện đạt cơ bản các mục tiêu liên quan
đến trẻ em, đặc biệt là trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ổn định cuộc sống,
hòa nhập cộng đồng, tạo cơ hội để thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em; giảm
thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, lang thang, lao động trong điều
kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Tạo cơ hội cho mọi trẻ em đều được bảo vệ,
chăm sóc dưới các hình thức khác nhau và thực hiện các quyền cơ bản của trẻ
em. Tạo sự chuyển biến cơ bản về cung cấp dịch vụ có chất lượng và công bằng
cho mọi trẻ em. Từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt với trẻ em bình thường tại nơi cư trú; trẻ em dân tộc thiểu số với
các nhóm trẻ em khác; trẻ em gái với trẻ em trai. Theo đó, chúng ta tiếp tục tập
trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ
em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em lao động trong điều kiện nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm. Các bộ, ngành giám sát và thực hiện Chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2006 - 2010. Triển khai Chương trình
hành động phòng, chống HIV/AIDS cho trẻ em, khi Chương trình này được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em ngay sau khi văn bản
được ban hành. Tiếp tục duy trì việc cấp thẻ khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em
dưới 6 tuổi; giám sát việc khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Phát
triển mạng lưới bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và các mô hình bảo vệ, chăm
sóc trẻ em có hiệu quả, trên cơ sở có thử nghiệm, đánh giá, tổng kết, rút ra bài
21


học kinh nghiệm từ thực tiễn. Phát triển các mô hình tư vấn cho trẻ em và từng
bước hình thành các trung tâm công tác xã hội với trẻ em.
-


Đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông, trên cơ sở hình thành chiến lược

truyền thông với sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn
thể, các tổ chức quốc tế và trẻ em để tạo dư luận xã hội quan tâm hơn nữa đến
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và đặc biệt là lên án các hành vi xâm hại,
ngược đãi và bạo lực đối với trẻ em. Chủ động huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực có thể được cho nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. (Chẳng hạn,
tỉnh Quảng Ninh hằng năm dành 1% ngân sách của tỉnh cho công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em).
-

Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em từ

trung ương đến xã, phường, trên cơ sở kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ, xây
dựng mạng lưới cộng tác viên và hoàn thiện chương trình tập huấn/đào tạo theo
các modul, đào tạo theo chứng chỉ và tiến tới cấp chứng chỉ nghề.
-

Rà soát, bổ sung thực trạng hệ thống pháp luật, chính sách, nhất là kiểm điểm

việc thực hiện luật pháp, chính sách có liên quan đến trẻ em và việc thực hiện các
chương trình, đề án đến năm 2010 có liên quan đến trẻ em. Nghiên cứu hoàn
thiện luật pháp, chính sách liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em; xây dựng
chính sách đối với cán bộ công tác xã hội với trẻ em. Nghiên cứu, xây dựng
chương trình, mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em giai đoạn 2010 - 2015 và chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2011 - 2020.
-

Chủ động hợp tác với các tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật và


có thêm nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày
càng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế về vấn đề này, với quan
điểm cởi mở, phong phú và mang tính chiến lược.
Trong năm qua, Đảng ta đã tiến những bước tiến quan trọng trong vấn đề nâng
cao chất lượng cuộc sống cho trẻ em, nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được
thì cũng có những vướn mắt cần được tháo gỡ trong những giai đoạn tiếp theo.

22


Sự chênh lệch cản trở bước tiến của Việt Nam trên con đường bảo vệ sự
sống còn của trẻ em
Báo cáo của UNICEF về Tình hình Trẻ em Thế giới 2008 kêu gọi hành động để
tiếp cận với hàng triệu trẻ em hiện chưa được hưởng các dịch vụ và các hoạt
động chăm sóc cơ bản
Hà Nội, ngày 25 tháng 1 năm 2008 - Theo con số thống kê do Quỹ Nhi đồng
LHQ (UNICEF) công bố, mặc dù đã đạt được những kết quả hết sức to lớn trong
việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi, song trung bình mỗi giờ trôi qua lại
có 3 trẻ em Việt Nam bị tử vong, nhất là ở các vùng dân tộc ít người và miền núi.
Tổng cộng, mỗi năm tại Việt Nam, ước tính có khoảng 28.000 trẻ em bị tử vong
trước khi tròn 5 tuổi, hầu hết do các nguyên nhân có thể phòng ngừa được.
Hôm nay, UNICEF, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Mỹ phối hợp công bố Báo
cáo Tình hình Trẻ em Thế giới 2008. Báo cáo đánh giá những kết quả to lớn mà
nhiều nước trên thế giới đã đạt được trong việc bảo vệ sự sống còn của trẻ em và
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em, đồng thời kêu gọi sự
phối hợp hành động để tiếp cận với hàng triệu trẻ em hiện vẫn chưa được cung
cấp các biện pháp can thiệp đơn giản và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chi
phí phù hợp để tránh khỏi bị tử vong.
Tại lễ công bố, các đại biểu đã chúc mừng Việt Nam vì đã giảm hơn một nửa tỉ lệ

tử vong ở trẻ em kể từ năm 1990 đến nay. Đây là con số hết sức có ý nghĩa vì tử
vong trẻ em là một chỉ số mang tính nhạy cảm đối với sự phát triển của một quốc
gia và cũng là minh chứng có sức thuyết phục về những ưu tiên và những giá trị
mà quốc gia đó theo đuổi.
Ông John Hendra, Điều phối viên Thường trú LHQ tại Việt Nam, nói: “Việt Nam
đã đạt được những kết quả đầy ấn tượng trong việc nâng cao tỷ lệ sống và cải
thiện sức khỏe cho trẻ em trong hai thập kỷ qua, và vì vậy có đang trên đà đạt
được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 4 là giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ em

23


dưới 5 tuổi vào năm 2015. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những sự chênh lệch khá lớn
trong nội bộ quốc gia, và để tiếp tục đạt được những kết quả tiếp theo Việt Nam
cần cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho tất cả phụ nữ mang thai và các
bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đặc biệt là người nghèo và người dân ở vùng sâu
vùng xa”.
TS. Trần Chí Liêm, Thứ trưởng Bộ Y tế, cho biết Chính phủ đang giải quyết
những thách thức này thông qua việc tiếp tục và mở rộng các biện pháp can thiệp
đã thực hiện thành công trong những năm qua. Các biện pháp này bao gồm tiêm
chủng và bổ sung Vitamin A cho bà mẹ và trẻ em cũng như sử dụng liệu pháp bù
nước qua đường miệng và các biện pháp khác.
TS. Trần Chí Liêm nói: “Những biện pháp can thiệp này đã góp phần giảm tỷ lệ
tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 53 xuống còn 17 trẻ trong 1000 trẻ đẻ sống năm
trong khoảng thời gian 1990-2006, theo báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới năm
nay. Việt Nam đã duy trì tỷ lệ tiêm chủng trẻ em ở mức cao và thực hiện các biện
pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu tình trạng thiếu các vi chất dinh dưỡng trên phạm
vi toàn quốc”.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc bảo vệ sự
sống còn của trẻ em. Việt Nam sẽ không thể tiếp tục đạt được những kết quả như

hiện nay nếu không giải quyết những thách thức này. “Các cơ quan chức năng
cần quan tâm đến chính sách cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ
trong thời kỳ mang thai và chăm sóc trẻ sau sinh cũng như các chính sách và dịch
vụ đảm bảo cho mọi trẻ em được chăm sóc và phát triển thể chât, trí tuệ một cách
toàn diện ngày trong thời kỳ đầu tiên của cuộc đời”, ông Đàm Hữu Đắc, Thứ
trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Tiến độ giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, tức là số trẻ em bị chết trong vòng 1
tháng tuổi, hiện nay ở Việt Nam đã bị chậm lại. Số trẻ sơ sinh hiện chiếm hơn
một nửa trong tổng số trường hợp tử vong ở trẻ em. Chỉ có thể giải quyết vấn đề
này bằng cách cải thiện tốt hơn các dịch vụ chăm sóc thai sản cũng như các dịch
vụ chăm sóc cơ bản cho trẻ sơ sinh. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những kết quả
24


to lớn, song đã nảy sinh một vấn đề nghiêm trọng, đó là sự chênh lệch, cụ thể là
tỷ lệ tử vong trẻ em ở miền núi, nông thôn và trong các gia đình nghèo vẫn cao
hơn 3 đến 4 lần so với miền xuôi và các gia đình khá giả hơn (Nguồn: Bộ Y tế).
Bên cạnh sự quan tâm chăm sóc đối với trẻ em thì những người phụ nữ nói
chung, và những bà mẹ nói riêng, luôn nhận được sự chăm lo chu đáo về mọi mặt
trong đời sống xã hội từ phía Đảng và Nhà nước.
Tham luận tại hội thảo khoa học “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” do viện văn hóa
tổ chức tại Hà Nội ngày 8/3/1991,đã có sự nhìn nhận tích cực đối với vai trò của
người phụ nữ ngày nay từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Từ năm 1986 đến nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường, diện mạo đất nước và gia đình có thêm sinh khí,
biến đổi trên con đường dân giàu-nước mạnh. Trong bối cảnh đó, vai trò người
phụ nữ từ trong gia đình và ngoài xã hội càng sáng tỏ và thực sự là động lực thúc
đẩy sụ tiến bộ gia đình và xã hội. Trong số 72 triệu dân nước ta, phụ nữ chiếm
51% và chiếm 59% lực lượng lao động cả nước.
Trong gia đình, phụ nữ đóng vai trò trụ cột, là trung tâm thiết kế và điều

chỉnh các mối quan hệ của các thành viên trong gia đình, nuôi dưỡng con cái,
chăm sóc chồng, gây dựng kinh tế, quản lý thu chi và chăm lo nội trợ. Ngoài ra,
phụ nữ còn tranh thủ thời gian lao động chân tay và trí óc để tăng thêm thu nhập
cho gia đình. Phụ nữ ta vốn có truyền thống đảm đang, bước vào cơ chế thị
trường, thời đất nước đổi mới, sự đảm đang đó được thúc đẩy mạnh mẽ, tăng về
chất lượng và tốc độ. Dù bận rộn đến đâu, do quĩ thời gian lao động sử dụng quá
nhiều, thời gian rỗi quá ít, chị em vẫn dành thời gian lo toan việc nhà, chăm chút
cho chồng, nuôi dưỡng con cái “cha sinh không bằng mẹ dưỡng”, người phụ nữ
tìm thấy niềm vui, hạnh phúc trong việc dưỡng dục con cái mình bằng vô vàn
công việc cụ thể. Từ việc lo cho con ăn uống, khâu vá, vệ sinh cá nhân, bếp núc,
cũng như sắp xếp, dọn dẹp trong gia đình, làm việc, học tập, đến việc ứng xử,
giao tiếp cũng phải làm gương cho con cái… Rõ ràng, người phụ nữ đã đóng vai
trò gương mẫu của một nhà giáo dục, mà như Macarennco- nhà giáo dục Xô Viết
25


×