TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
-oOo-
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI
VỚI THANH NIÊN DÂN TỘC KHMER Ở TỈNH TRÀ
VINH HIỆN NAY
Luận văn tốt nghiệp
Ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
SƠN RỐT
MSSV:6064681
LỚP: SP GDCD K32
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
Th.S. GVC. Trần Thị Tuyết Hà
CẦN THƠ – 2010
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài.
Tôn giáo là một vấn đề xã hội khách quan, luôn gắn liền với đời sống chính
trị, văn hóa, là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Từ khi tôn giáo ra đời đến nay,
nó đã tác động, chi phối đời sống con người trên nhiều lĩnh vực. Có lúc, có nơi tôn
giáo đã đóng vai trò chính trong một nước, một khu vực nhất định.
Ngày nay, vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo thu hẹp dần trong đời sống là
xu hướng tất yếu của sự phát triển xã hội. Nhưng cũng có tình trạng ngược lại ở một
số nơi trên thế giới tôn giáo có xu hướng phục hồi và phát triển mạnh mẽ hơn, trong
đó có Việt Nam.
Trà Vinh là một tỉnh nằm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi có
đông thanh niên dân tộc Khmer sinh sống, chịu ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông
từ nhiều thế kỷ qua đã cắm sâu vào trong tâm thức, sinh hoạt, đời sống xã hội của
mỗi thanh niên dân tộc Khmer và được xem đây là một truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc.
Phật giáo Nam Tông với thời gian tồn tại lâu đời, chung sống với thanh
niên dân tộc Khmer ở Trà Vinh, hẳn nhiên đã in dấu ấn rất sâu vào trong đời sống
của thanh niên dân tộc Khmer. Ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với thanh
niên dân tộc Khmer được nhìn nhận như một tác động kép vừa tích cực vừa tiêu
cực. Phật giáo Nam Tông đã làm cho đời sống tinh thần của thanh niên dân tộc
Khmer thêm phong phú, đa dạng với nhiều loại hình văn hóa – nghệ thuật đặc sắc
như múa, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc, hội họa…. Đặc biệt, nhiều lễ hội được tổ
chức hàng năm tại các điểm chùa là sân chơi bổ ích cho thanh niên dân tộc Khmer,
ngôi chùa Khmer còn được xem là tủ điểm văn hóa, là nơi tu học để nâng cao trình
độ dân trí cho thanh niên dân tộc Khmer. Ở gốc độ khác, Phật giáo Nam Tông chỉ
tập trung chăm lo vào việc phát triển tinh thần cho thanh niên dân tộc Khmer trong
các lễ hội nên đã lấy đi rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc của thanh niên và
đồng bào Khmer. Do đó, cuộc sống của họ lúc nào cũng gặp khó khăn, túng thiếu.
Việc khai thác, phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của tôn
giáo cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, như tinh thần Chỉ thị 37 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu: “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức lành
mạnh, hướng thiện của tôn giáo phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc và
đời sống xã hội, thực hiện tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết hòa hợp các tôn
giáo cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chính vì vậy, để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu
cực của Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer trong sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, phát huy tinh thần “sống tốt đời, đẹp đạo” là
một nhiệm vụ cấp bách hiện này. Do đó, tác giả đã chọn vấn đề “Ảnh hưởng của
Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay”
làm đề tài luận văn, hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer ở
tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
2.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích:
Đề tài đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông trên
một số lĩnh vực của đời sống xã hội đối với thanh niên dân tộc Khmer ở tỉnh Trà
Vinh giai đoạn hiện nay nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt
tiêu cực, góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với thanh
niên dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ:
Một là, nghiên cứu, khảo sát làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn những ảnh
hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh
hiện nay.
Hai là, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy và khắc phục ảnh hưởng
của Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện
nay.
3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer thì
có rất nhiều mặt, nhiều lĩnh vực ở những địa bàn, thời điểm và với các thời gian
khác nhau, ở đây luận văn chỉ tập trung làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông
đối với thanh niên dân tộc Khmer trên một số lĩnh vực chính ở tỉnh Trà Vinh trong
giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
4.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tôn giáo và
mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra xã hội học là chủ yếu, kết hợp với phương pháp thu
thập tài liệu. Đồng thời, kết hợp phương pháp logic và lịch sử, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích tổng hợp trong quá trình nghiên cứu.
5.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm
3 chương, 9 tiết.
Chương 1
PHẬT GIÁO NAM TÔNG VÀ THANH NIÊN DÂN TỘC
KHMER Ở TỈNH TRÀ VINH
1.1. Khái quát về thanh niên dân tộc Khmer.
1.1.1. Những đặc điểm chủ yếu của thanh niên dân tộc Khmer.
Tỉnh Trà Vinh được tái lập vào tháng 5/1992 là một tỉnh nằm ở phía Đông
Nam đồng bằng sông Cửu Long tiếp giáp với biển Đông có diện tích tự nhiên 2.225
km2. Dân số chung trên 1 triệu người, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 69%;
dân tộc Khmer chiếm khoảng 30% dân số; dân tộc Hoa chiếm khoảng 1%. Thanh
niên dân tộc Khmer chiếm một bộ phận khá lớn trong tổng số dân dân tộc Khmer
của tỉnh, là lực lượng lao động quan trọng đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, giữ gìn ổn định chính trị và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của đồng bào
Khmer trong tỉnh. Đồng bào Khmer nói chung và thanh niên dân tộc Khmer nói
riêng ở tỉnh Trà Vinh đều theo tín ngưỡng Phật giáo theo hệ phái Nam Tông.
Sau đây là những đặc điểm chủ yếu của thanh niên dân tộc Khmer:
Những hoạt động kinh tế:
Thanh niên dân tộc Khmer có độ tuổi từ 16 đến 35 tuổi. Họ thường xuất
thân trong những gia đình nông dân nghèo, có trình độ dân trí thấp, là lực lượng lao
động chính trong gia đình có đức tính thật thà, chất phát, chịu thương, chịu khó, cần
cù trong lao động. Trồng lúa nước là hình thức sản xuất nông nghiệp chính của
người dân Khmer, là nơi cung cấp sản phẩm chủ yếu và thường xuyên để nuôi sống
gia đình. Nhưng thông thường ruộng đất của người Khmer rất ít, đất đai phần lớn bị
nhiễm mặn, nhiễm phèn, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, giao thông không
thuận lợi nên năng suất lúa không cao, cuộc sống gia đình người Khmer luôn khó
khăn túng thiếu.
Ngày nay, với việc chuyển giao khoa học, kỹ thuật. Thanh niên dân tộc
Khmer được tạo điều kiện tham dự các lớp tập huấn về phát triển nông nghiệp, phá
thế độc canh cây lúa, thay vào đó là luân canh lúa hoa màu hoặc lúa và nuôi thủy
sản, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm. Qua việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vào sản xuất hiệu quả mang lại rất cao làm cho đời sống của thanh niên dân
tộc Khmer ngày càng được nâng cao. Trong các phum, sóc những ngôi nhà ngói,
tôn dần dần thay thế những ngôi nhà tre lá tạm bợ.
Những hoạt động văn hóa – nghệ thuật:
Một nét đẹp văn hóa của người Khmer là hầu hết nam thanh niên đều biết
chữ của dân tộc mình. Theo phong tục của người Khmer, người con trai khi lớn lên
phải vào chùa tu. Đi tu là vừa học chữ, vừa học đạo, đi tu để trở thành người có
nhân cách, có văn hóa là một hình thức để báo hiếu. Nhà có con trai mà không đi tu
là mang tiếng xấu. Khi người con trai đã vào chùa tu là đã trở thành thành viên
trong Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng đều được gọi là “Lục”. Hằng ngày, cha mẹ, chị
em phải dâng cơm cho “Lục”. Gặp con, cha mẹ cũng phải sùng kính thi lễ quỳ lại
như gặp “Lục cả”. Thời gian tu được quy định là 3 năm nhưng cũng tùy theo cơ
duyên của mỗi người. Có người quá niên hạn mà vẫn được tôn sùng đạo pháp, tiếp
tục tu hành. Người con gái ngoài đời chờ ngày “Lục xuất” để làm lễ cưới.
Về trang phục, hằng ngày thanh niên nam nữ dân tộc Khmer cũng mặc Âu
phục và các loại giầy, vớ, mũ, nón chẳng khác người Kinh. Nhưng đến những ngày
lễ hội thì thanh niên dân tộc Khmer đều mặc những y phục truyền thống của mình.
Kể cả khi trình diễn văn nghệ, trên sàn diễn luôn xuất hiện những bộ Săm pốt
truyền thống sắc màu rực rỡ. Trang phục truyền thống hiện nay chỉ được sử dụng
trong các lễ cưới, lễ hội, sân khấu… đó là những chiếc Săm pốt thật xinh xắn và
những chiếc áo bó sát người màu sắc thật lộng lẫy. Săm pốt nguyên là một tắm vải
rộng được quấn người từ hông trở xuống, kéo mối vải thật khéo từ phía trước luồn
giữa. Nhìn chung phụ nữ Khmer nhất là các cô thiếu nữ rất khéo tay trong việc thiết
kế trang phục, họ đã dệt những chiệc xà rông của họ đạt đến trình độ khá cao. Một
chiếc xà rông sau khi dệt xong đều mang hình ống nhưng không có một đường nối
vải nào, y như một chiếc khăn tròn trịa liền trơn. Trang phục của thanh niên dân tộc
Khmer vừa kín đáo vừa trang trọng, vừa xinh đẹp biểu lộ được sắc thái đậm đà bản
sắc văn hóa của dân tộc mình. Ngày nay trong một số lễ cưới của người Khmer cô
dâu thật duyên dáng khi mặc săm pốt áo đỏ hoặc tím, đầu đội mũ cưới hình chóp, cổ
quàng khăn dài. Còn chú rễ mặc xà rông, áo màu đỏ, cổ cứng, vai trái vắt chiếc
khăn dài, lưng đeo dao cưới (kâm pách) theo tín ngưỡng dân gian để bảo vệ cô dâu.
Về phương diện nghệ thuật, đôi tay khỏe mạnh và khéo léo của nam thanh
niên dân tộc Khmer nhịp nhàng đưa chiếc ghe ngo dài trên 20m lướt sóng như tên
bay trong các cuộc đua thuyền. Trái lại, đôi tay của các cô thiếu nữ Khmer rất uyển
chuyển, dịu dàng, dẻo dai trong các nghệ thuật múa. Họ có những điệu múa rất đẹp,
nổi tiếng là điểu múa Nàm Vàng. Đến ngày rằm tháng Mười âm lịch trong cuộc lễ
Ok –Om –Bok (lễ tạ ơn mặt trăng, theo tục lệ, mặt trăng là vị thần điều động mùa
màng, thời tiết giúp cho được mùa) họ đi chùa làm lễ và tổ chức chơi suốt ngày với
nhiều hình thức văn hóa, văn nghệ độc đáo.
Về tổ chức xã hội:
Trước đây trong phum, sóc, chủ yếu hoạt động theo chế độ tự quản với một
ban điều hành gồm những người có hiểu biết, có kinh nghiệm và uy tín. Ban tự quản
phum, sóc kết hợp với các sư sãi trong các chùa động viên thanh niên trong phum,
sóc của mình tham gia lao động, tu học, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của
dân tộc mình, giữ vững ổn định trật tự xã hội, hình thành một chế độ xã hội truyền
thống mà Phật giáo Nam Tông có một vai trò đặc biệt trong xã hội.
Tôn giáo, tín ngưỡng:
Đời sống văn hóa tâm linh nói chung, tôn giáo và tín ngưỡng nói riêng là
những món ăn tinh thần rất quan trọng đối với thanh niên dân tộc Khmer ở Trà
Vinh. Ở đây Phật giáo Nam Tông đã có một vai trò rất lớn gần như chi phối mọi
sinh hoạt của người dân Khmer từ thành thị cho đến nông thôn. Từ nhiều thế kỷ qua
Phật giáo Nam Tông được xem là quốc giáo. Hình dáng đức Phật luôn là chỗ dựa
tinh thần vững chắc nhất, tồn tại trong ký ức của thanh niên dân tộc Khmer ở Trà
Vinh từ lâu đời, vì vậy các phong tục tập quán, lễ hội dân gian cho đến các sinh
hoạt tinh thần trong đời sống xã hội đều có ít nhiều mang màu sắc của Phật giáo
Nam Tông. Nhà chùa chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần
của thanh niên dân tộc Khmer. Hiện nay, đại đa số thanh niên dân tộc Khmer đi
theo Phật giáo Nam Tông và lấy ngôi chùa để thỏa mãn nhu cầu về tinh thần. Trong
nhiều năm qua chùa được xem là mái nhà chung của gia đình, là nơi sinh hoạt lý
tưởng nhất của thanh niên dân tộc Khmer trên nhiều phương diện. Chùa không chỉ
là nơi tôn nghiêm truyền bá giáo lý của đức Phật mà còn là địa điểm giáo dục văn
hóa, đào tạo trí thức cho cộng đồng. Nam thanh niên dân tộc Khmer phải vào chùa
tu một thời gian để tiếp thu văn hóa và trau dồi đạo đức.
Mỗi dân tộc đều có những đặc trưng và những phong cách riêng được thể
hiện trong đời sống xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ
thuật… những yếu tố đó đều là sản phẩm trí tuệ rất quý báu của các dân tộc đã sáng
tạo ra và được bổ sung qua nhiều thế hệ nhiều thời kỳ lịch sử. Thanh niên dân tộc
Khmer ở tỉnh Trà Vinh thời gian qua đã có nhiều thành tích nổi bật trong viêc giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đã hòa nhập vào xu hướng phát
triển đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Tôn giáo, tín ngưỡng
là những món ăn tinh thần rất quan trọng đối với thanh niên dân tộc Khmer ở tỉnh
Trà Vinh.
Về tôn giáo, trước đây đồng bào dân tộc Khmer nói chung, thanh niên dân
tộc Khmer nói riêng theo đạo Bàlamôn, nhưng có lẽ do giáo lý gò bó và cách phân
chia đẳng cấp quá khắc khe của đạo Bàlamôn không phù hợp với tính phóng
khoáng, bình dị và dễ dãi của người Khmer nên dần dần vị trí của tôn giáo này bị
Phật giáo Nam Tông thay thế. Giáo lý của Phật giáo Nam Tông đã hòa nhập vào
cuộc sống của người Khmer, lâu dần trở thành một thứ đạo lý, ý thức xã hội gắn
liền với mọi thành viên trong cộng đồng phum, sóc. Chùa là mái nhà chung cho mọi
gia đình, thanh niên dân tộc Khmer phải đi tu mới được cộng đồng chấp nhận thì
mới đủ điều kiện tham gia xã hội, xây dựng gia đình. Thanh niên dân tộc Khmer
không coi việc tu hành là bổn phận hay nhiệm vụ bắt buộc mà là một điều vinh dự,
vinh dự được vào ngôi nhà của Phật để nhận những hạt giống lành và những phúc
duyên thật tốt để sau đó trở lại thế tục trở thành một con người đầy đủ các điều kiện
về nhân cách, phẩm chất, trí tuệ…có người thì có duyên với Phật thì tiếp tục tu
niệm để tìm sự giải thoát. Trong xã hội của người Khmer, việc thanh niên được tu
trong chùa không chỉ để học kinh Phật mà còn được đào tạo văn hóa, nghề nghiệp,
người nào không xuất gia thì bị mọi người khinh rẻ, khó hòa nhập vào cộng đồng,
cả việc cưới vợ cũng bị trở ngại, người con gái Khmer luôn xem đó là những người
chưa đủ phước làm chồng, chưa đủ điều kiện để tiến đến hôn nhân. Việc “xuất tu”
cũng là điều dễ dàng, phum, sóc luôn mừng rỡ đón về gia đình như đón tiếp những
đứa con “đỗ đạt” trở về.
Đối với thanh niên dân tộc Khmer, Phật là chỗ dựa tinh thần vững chắc
nhất – là đấng thiêng liêng nhất, thanh niên khi vào chùa tu trở thành sư sãi là
những người đắp y mang bát, thay đức Phật để hoằng hóa nội sinh, vì vậy rất được
mọi người kính trọng và tôn quý. Bất kỳ người Khmer nào nếu được các sư nhận đồ
cúng đều cảm thấy vui mừng như được ban phúc lớn. Đối với Phật giáo Nam Tông
thì chỉ nam giới mới được xuất gia làm sư trong chùa, còn phụ nữ không được xuất
gia làm ni cô như các phái của Phật giáo Bắc Tông mà chỉ được các sư dạy bảo tu
tâm tại gia. Trừ người xuất gia, số người còn lại không kể nam, nữ đều phải đi chùa
tụng kinh, nghe giảng Phật pháp tại nhà giảng (salateam) ít nhất là sáu lần trong một
tháng vào các ngày 5, 8, 15, 23, 28 và 30 âm lịch. Nội dung của bài giảng chủ yếu
nói về ý nghĩa của việc bố thí, làm phước, giúp đỡ mọi người. Đa số thanh niên dân
tộc Khmer có lòng tin về việc bố thí để làm phước, trong những hình thức để làm
phước thì làm phước lớn nhất là cúng dâng thức ăn cho sư sãi và dâng cúng tiền của
để xây dựng, tu sửa chùa hoặc làm công việc phúc lợi xã hội của Phật giáo. Bởi có
lòng tin làm phước được phước cho nên trong những phum, sóc nghèo của người
Khmer lại có những ngôi chùa đầy nguy nga lộng lẫy.
Ngoài lòng tin vào đức Phật thanh niên dân tộc Khmer còn có những tín
ngưỡng dân gian rất đa dạng và phong phú, phổ biến nhất là tín ngưỡng vè Arăk và
Neakta .
Arăk có nghĩa là thần, không có hình dạng rõ rệt, Arăk có bổn phận bảo vệ
và giữ gìn sự bình yên cho dòng họ hoặc thân chủ nào đó, có thể xem đây là vị thần
thiện. Tín ngưỡng Arăk của người Khmer còn rất rõ nét, họ luôn tin tưởng Arăk của
dòng họ (Arăk chua bua), các Arăk có tên gọi riêng, lời ca riêng để nhập đồng.
Arăk thường là bà tổ của dòng họ, hay người sau khi chết có những hiện
tượng kỳ lạ hoặc là người nào đó trong dòng họ rất nổi tiếng. Khi cúng Arăk thường
có một phụ nữ để nhập đồng (rub Arăk) – người Kinh ở Nam Bộ gọi là xác cô, xác
cậu. Người được chọn thường là những người không được bình thường, nói năng
khó hiểu hoặc có thói quen kỳ lạ, tuy nhiên trong phum, sóc đôi khi cũng có người
nhập đồng chuyên nghiệp.
Trong khoảng thời gian hai hoặc ba năm vào khoảng tháng 3, tháng 4 âm
lịch, các dòng họ của người Khmer đều có tổ chức cúng Arăk chua bua, thường gọi
là cúng tổ (lờn rub) để cầu cho Arăk phù hộ cho con cháu được mạnh giỏi và bình
yên.
Ngoài ra, thanh niên dân tộc Khmer còn có tín ngưỡng Neakta. Neakta là
một vị nam thần đứng tuổi, có trách nhiệm bảo hộ con người và đất đai trong một
khu vực, Neakta thường xuất xứ khác nhau: một vị thần ở trong rừng thẳm hoặc
một vị thần ở nơi đồng ruộng được chỉ định để trông coi một địa phương hoặc một
khu vực nào đó. Người dân Khmer thường thờ Neakta ở các miếu nhỏ làm bằng lá
cây, thường được đặt ở ngã ba sông, bìa rừng, mé ruộng hoặc dưới gốc cây trong
một khuôn viên nào đó, trên bệ thờ ở mỗi miếu thường là những viên đá cội bóng
láng, người ta tin rằng đó là hóa thân của Neakta. Tên gọi Neakta rất đa dạng, chia
ra làm nhiều loại: loại tên một vật trong thiên nhiên, hoặc dùng địa danh để đặt tên,
hoặc mang tên một nhân vật trong truyền thuyết; có loại có nguồn gốc từ đạo
Bàlamôn như Neakta Day Khmau, Neakta Kôchom, Neakta Buôn MuK,…
Do vậy, ta có thể thấy rằng tín ngưỡng Arăk và Neakta đã ảnh hưởng sâu
đậm vào cuộc sống của đồng bào Khmer nói chung và thanh niên dân tộc Khmer
nói riêng trong nhiều thế kỷ qua, nhất là ở những phum, sóc vùng sâu vùng xa,
người ta tìm chỗ dựa tinh thần vào tổ tiên của dòng họ, vào những vị thần bảo hộ
phum, sóc để xin được cứu giúp trong những khi bị thiên tai, dịch bệnh, mất mùa,
tai nạn,… Nhưng dưới sự truyền bá sâu rộng của Phật giáo Nam Tông, các loại tín
ngưỡng dân gian của người Khmer ngày càng bị biến đổi hình dạng. Thế hệ thanh
niên dân tộc Khmer ngày nay trình độ dân trí được nâng cao, nên một số lớn tín
ngưỡng Arăk và Neakta cũng dần dần bị mai một.
1.1.2. Thanh niên và Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh.
Đôi nét về sự phân chia hệ phái Phật giáo:
Giáo lý Phật giáo vốn không có sự phân chia hệ phái Nam Tông hay Bắc
Tông. Giáo lý Phật giáo được trình bày từ thấp đến cao để phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử cụ thể và để phù hợp với từng đối tượng tiếp thu. Do đó, trong toàn bộ
giáo lý Phật giáo chỉ có Kinh tạng được chia ra nhiều bộ khác nhau theo từng thang
bậc.
Sau khi Phật Thích Ca nhập niết bàn khoảng 100 năm, trong hàng đệ tử
Phật (hàng tân tiến) có tư tưởng muốn thay đổi một số điều trong giới luật mà Phật
Thích Ca chế định từ buổi đầu khi có “giới luật” cho phù hợp với trào lưu tiến hóa
của lịch sử và phù hợp với điều kiện hiện tại. Tư tưởng này được đưa ra bàn luận tại
cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất. Cuối cùng, các vị tỳ khiêu già trong hàng trưởng
lão đã không tán thành với ý nghĩ sửa đổi của phái tân tiến. Những phái tân tiến lại
chiếm số đông và đều là tỳ khiêu trẻ.
Sau khi không thống nhất được ý kiến, các vị tỳ khiêu trẻ tự động tách ra
thành một hệ tư tưởng được gọi là “đại chúng bộ” (hệ phái của số đông), còn các vị
tỳ khiêu già (trưởng lão) giữ nguyên những điều luật như thời kỳ đầu Phật Thích Ca
chế định. Những vị này thuộc hàng tôn thức thường ngồi trên để chủ tọa pháp hội
nên được gọi là “thượng tọa độ”. Từ đó hàng đệ tử xuất gia của Phật Thích Ca tách
thành hai phái được các nhà kinh điển gọi là “hai hệ tư tưởng”. Sau này hệ đại
chúng truyền lên Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên được gọi
là Phật giáo Bắc Tông với hệ tư tưởng phóng khoáng với nhiều học giả uyên bác đã
căn cứ vào lời dạy của Phật Thích Ca và các đại đệ tử của Phật thuyết giảng được
ghi vào các bộ kinh lớn và vận dụng phát triển, truyền bá trong tăng chúng Phật
giáo với mục đích tối thượng là giác ngộ và giải thoát, không câu nệ, chấp tước. Tư
tưởng đó được biên soạn thành các cuốn sách lớn để lưu truyền. Vì thế, trong kinh
sách của Phật giáo Bắc Tông rất nhiều. Phật giáo Bắc Tông mang tư tưởng tự giác,
giác tha, tự độ, tự tha nên cũng gọi là Phật giáo Đại thừa. Phái thượng tọa phát triển
xuống Xirilanca, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và Lào nên gọi là Phật giáo
Nam Tông, Phật giáo Nam Tông giữ nguyên giáo luật nguyên thủy và đọc tụng chủ
yếu
năm
bộ
kinh
khởi
đầu.
Giáo lý “tứ diệu đế” (giáo lý thực hành) là giáo lý khởi đầu của đạo Phật, nên Phật
giáo Nam Tông cũng được gọi là Phật giáo nguyên thủy theo hệ tư tưởng thực tu,
thực chứng. Nên hệ phái Nam Tông theo truyền thống ai tu ấy chứng quả. Vì thế,
cũng gọi theo từ Hán Việt là Phật giáo Tiểu thừa.
Ở Trà Vinh, có hai hệ phái Phật giáo truyền đến, một phái do Bắc truyền và
một phái do Nam truyền. Phật giáo Nam Tông ở Trà Vinh có một bộ phận là
của
người Kinh, còn đại đa số là người Khmer.
Sự tiếp nhận Phật giáo Nam Tông của thanh niên Khmer ở tỉnh Trà Vinh
Theo lịch sử Phật giáo ở Campuchia, thời kỳ đất nước Campuchia còn
thuộc vương quốc Phù Nam, nơi đây là một trung tâm giao lưu buôn bán đường
biển giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam Á. Do đó, vương quốc Phù Nam đã chịu
ảnh hưởng rất lớn của nền văn hóa Ấn Độ. Trước khi Phật giáo du nhập vào đây,
đạo Bàlamôn đã được truyền đến Phù Nam. Sau vương triều Phù Nam là vương
triều Chân Lạp, Phật giáo Bắc Tông đi theo các thương gia Ấn Độ đến xứ sở này
với tư tưởng phóng khoáng, đầy trí tuệ đã không phù hợp với một sắc dân có bản
sắc mộc mạc, thụ động. Do đó, Phật giáo Bắc Tông đã nhường chổ cho Phật giáo
Nam Tông từ phía Xrilanca truyền xuống với giáo lý chặt chẽ và những bộ kinh
nguyên thủy chứa đựng trong giáo lý thực hành phù hợp với người bản xứ hơn. Khu
vực Nam Bộ thời xa xưa thuộc vương triều Phù Nam rồi vương triều Chân Lạp.
Vùng đất Trà Vinh ngày nay là một trong những vùng có người Khmer sinh sống
đông nhất và một trong hai trung tâm lớn của thời tiền Ăngco, nhiều pho tượng Phật
cổ ở đây cho thấy Phật giáo du nhập vào Trà Vinh bằng đường biển qua các cửa
sông Cửu Long. Đồng thời, cũng nói lên Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam
Tông đã cùng tồn tại ở nơi đây, vì trong 13 pho tượng Phật cổ được tìm thấy, có 4
pho tượng liên quan đến bồ tát của Phật giáo Bắc Tông. Đến thế kỷ XIII, Chân Đạt
Quang đã mô tả trong cuốn “du ký” rõ ràng là Phật giáo Nam Tông có nguồn gốc từ
Xrilanca du nhập vào Trà Vinh [5,tr.12].
Như vậy, Phật giáo Nam Tông có mặt ở Trà Vinh từ rất sớm, có ngôi chùa
đã được xây dựng từ cuối thế kỷ thứ IV sau công nguyên như chùa Tro-Pang-Veng
ở xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, chùa Saom-Bua-Răng-Sây ở xã Châu Điền,
huyện Cầu Kè. Đến thế kỷ thứ XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX hầu như các phum,
sóc của người Khmer ở Trà Vinh đều có chùa thờ Phật.
Việc tiếp nhận Phật giáo Nam Tông đối với thanh niên dân tộc Khmer ở
Trà Vinh là một khách quan vì nó phù hợp với đức tính của họ là sống mộc mạc,
thụ động, dễ dãi và đã qua sàn lọc, thử thách. Vì trong thực tế cho thấy từ những thế
kỷ đầu công nguyên Phật giáo Bắc Tông đã đến với thanh niên dân tộc Khmer và
cuối cùng họ đã ra đi để nhường chỗ cho Phật giáo Nam Tông. Đến thế kỷ XVII,
XVIII, XIX các nhà sư Việt Nam và nhà sư người Hoa cũng đã đến mảnh đất này
hoằng pháp, nhưng hệ phái Bắc Tông chỉ vào được khu vực của người Việt và
người Hoa, nhiều khu vực có người Khmer sinh sống có nhiều chùa thờ Phật theo
hệ phái Bắc Tông nhưng thanh niên dân tộc Khmer vẫn không lui tới lễ phật.
Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng vì muốn thống nhất việc tu hành trong
Phật giáo đã bắt buộc sư sãi Khmer mặc áo cổ vuông và ăn chay theo các sư sãi
phái Bắc Tông. Nhưng chính sách này đã bị sư sãi và thanh niên phật tử Khmer
phản ứng chống lại, từ đó diễn ra phong trào chống đồng hóa ở huyện Trà Cú.
Khi thực dân Pháp chiếm được miền Nam, với thủ đoạn xảo quyệt chúng
thực hiện chính sách đồng hóa tôn giáo, bằng mọi cách ép buộc thanh niên dân tộc
Khmer bỏ Phật giáo đi theo Công giáo, toàn quyền Pháp ký với vương quốc
Campuchia một hiệp định phân ranh giới và từ đó chúng đưa ra những quy định qua
lại biên giới rất chặt chẽ, nhằm ngăn cấm sư sãi, thanh niên dân tộc Khmer sang
Campuchia tu học, thụ giới và khi không có thầy tề độ truyền theo giới luật quy
định, không có lớp học chữ Pali cho thanh niên và sư sãi Khmer thì mặc nhiên Phật
giáo Nam Tông của người Khmer ở Nam Bộ nói chung và ở Trà Vinh nói riêng sẽ
bị mai một và mất đi. Với chính sách kỳ thị và đồng hóa Phật giáo Nam Tông của
thực dân Pháp đã khơi dậy phong trào đấu tranh của thanh niên dân tộc Khmer ở
Trà Vinh chống thực dân xâm lược, để bảo vệ đạo, bảo vệ dân tộc mình.
Tuy nhiên, trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ khó
khăn của Phật giáo nói chung và Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh nói riêng,
nhưng trong sự thoái trào bề ngoài lại có sức sống mãnh liệt bên trong, để trong
kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc, thanh niên Khmer theo Phật giáo
Nam Tông ở Trà Vinh đã cùng với nhân dân cả nước vùng lên đánh đuổi thực dân
Pháp, giành lại độc lập cho đất nước.
Sau năm 1954, đế quốc Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam, với chính sách
của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, lại một lần nữa Mỹ và chính quyền tay sai thực
hiện chính sách đồng hóa tôn giáo (công giáo hóa). Đặc biệt đối với thanh niên dân
tộc Khmer ở Trà Vinh chúng đã dựng mâu thuẫn kích động tư tưởng hẹp hòi, chia
rẽ dân tộc, phủ nhận sự tồn tại của người Khmer, bài xích Phật giáo Nam Tông
Khmer, cấm dạy chữ Pali. Với âm mưu đồng hóa dân tộc, tình báo Mỹ đã lập ra tổ
chức phản động để chi phối, kích động người Khmer như tổ chức “Khmersrci”,
“Đảng khăn trắng”. Những tổ chức này hoạt động bí mật hay công khai trên khắp
tỉnh Trà Vinh và Nam Bộ dưới sự chỉ đạo của lực lượng đặc biệt Mỹ. Vừa đàn áp
cấm đoán, vừa dụ dỗ mua chuộc bằng tiền bạc để cách ly sư sãi với Phật kể cả
những thủ đoạn xảo quyệt dã man. Nhưng với ý thức duy trì giống nòi, bảo vệ đạo
pháp, sư sãi, thanh niên và phật tử Khmer ở Trà Vinh đã nghe theo tiếng gọi của
Đảng cộng sản Việt Nam, trân trọng đoán nhận sự lãnh đạo của Đảng, của cách
mạng, sát cánh cùng nhân dân cả nước tích cực tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Đồng thời, thanh niên và đồng bào Khmer ở Trà Vinh vẫn giữ được tôn giáo
truyền thống là Phật giáo Nam Tông của mình cho đến ngày nay và ngày càng tỏ rõ
sự gắn bó với cộng đồng các dân tộc anh em trong đại gia đình 54 dân tộc ở Việt
Nam.
1.2. Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh.
1.2.1. Khái quát những đặc điểm chủ yếu của Phật giáo Nam Tông ở
tỉnh Trà Vinh.
Phật giáo Nam Tông du nhập vào tỉnh Trà Vinh đã trải qua nhiều thăng
trầm trong hàng nghìn năm lịch sử và đã phát triển thành một tôn giáo ở Trà Vinh.
Trải qua các thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là phải nói đến
Phật giáo Nam Tông Khmer, là một tôn giáo có giới luật nghiêm ngặt, có đông số
lượng phật tử, thanh niên và tu sĩ đông nhất, nhiều chùa nhất so với các tôn giáo
khác trong tỉnh. Do Phật giáo Nam Tông có giáo lý, giáo luật phù hợp với phong
tục tập quán, bản sắc văn hóa của dân tộc.
Thanh niên, sư sãi Phật giáo Nam Tông Khmer là con em của đông đảo lao
động nghèo, gắn bó với vận mệnh của dân tộc, giai cấp và Tổ quốc. Từ xưa đến
nay, thanh niên và chư tăng Khmer có vai trò quan trọng trong lao động sản xuất,
gắn liền với truyền thống yêu nước, đoàn kết với dân tộc anh em.
Người dân Khmer gắn bó với quá trình phát triển của đồng bằng sông Cửu
Long, cư trú thành cụm phum, sóc bao quanh chùa chiền, sống xen kẻ với người
Kinh, Hoa. Phần lớn người Khmer ở Trà Vinh sống tập trung trên vùng giồng cát,
vùng nhiễm mặn, nhiễm phèn, ven biển, vùng sâu. Nhưng tập trung chủ yếu ở 5
huyện: Trà Cú, Châu Thành, Cầu Ngang, Cầu Kè và Tiểu Cần. Họ là cư dân chủ
yếu sống bằng nghề nông nghiệp, làm thuê, cần cù chịu khó, họ đã cùng nông dân
Kinh, Hoa khai phá đất lao động sản xuất và đấu tranh chống áp bức, bóc lột để bảo
vệ cuộc sống của mình. Họ thích một cuộc sống hiền lành không đua chen. Nếu
dành dụm được tiền sẽ nghĩ ngay đến việc làm phước như: xây dựng chùa và nuôi
sư sãi…
Đồng bào Khmer nói chung và thanh thiếu niên dân tộc Khmer ở tỉnh Trà
Vinh nói riêng từ xưa đến nay chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ và
Campuchia cùng chung ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết và phong tục tập quán với
đồng bào Khmer ở Campuchia. Người dân tộc Khmer ngoài theo Phật giáo Nam
Tông còn tin ma tà cúng vái thần linh, thổ địa, thủy thần. Còn Phật giáo Nam Tông
có giáo lý, giới luật phù hợp với phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của dân tộc.
Những nét đặc trưng đó giúp thanh niên dân tộc Khmer xem Phật giáo Nam Tông
như một tôn giáo duy nhất và chính thống của dân tộc mình. Họ quan niệm rằng
chùa không phải chỉ là nơi thờ tự, sùng bái niệm phật mà còn là trung tâm, tụ điểm
văn hóa của dân tộc, là nơi đào tạo nhân tài, đạo đức, nhân cách, phẩm hạnh của
người Khmer. Từ đó, họ lấy chùa chiền, chư tăng làm cột trụ, làm niền tin tinh thần
vững chắc của cả dân tộc. Đó là đặc trưng, là điểm tương đồng của Phật giáo Nam
Tông đối với thanh niên và cả dân tộc Khmer. Người Khmer có câu “Phật giáo suy
tàn dân tộc tiêu vong, Phật giáo thịnh vượng dân tộc vinh quang” [13, tr.5].
Từ truyền thống lâu đời của dân tộc Khmer, nam thanh niên phải vào chùa
tu để được hưởng ân đức ở kiếp sau, cùng nhằm báo hiếu đối với công ơn sinh
thành của cha mẹ và đồng thời để được mọi người trong phum, sóc kính trọng.
Lễ xuất gia nhập tu được tiến hành rất cẩn thận, người nhập tu phải nhờ
một vị sư chọn ngày để cử hành lễ xuất gia. Lễ được tổ chức tại gia đình, sau đó
mới tổ chức thành đoàn đi vào chùa, đi lên thẳng chính điện nơi có vị sư cả, vị sư
Ốphakchia và 21 vị sư trong chùa chứng kiến buổi lễ.
Về giáo lý đối với Phật giáo Nam Tông Khmer ở Trà Vinh nói một cách
thuần túy tôn giáo là tất cả các kinh văn có tác dụng định tâm, tịnh trí, vun bồi, phúc
đức, tăng trưởng tịnh tâm nhưng chủ yếu là năm bộ kinh khởi đầu của Phật giáo.
Phần lớn các bài kinh có thể sử dụng trong mọi nghi thức nhật hành, cầu an, cầu
siêu tùy theo duyên sự. Trong phần này có thể xếp đặt dựa theo các bài kinh chứ
không theo khóa lễ. Người tụng có thể mở đầu bằng kinh Lễ Tam Bảo giảng lược
tùy theo thời giới, tiếp theo là tụng các kinh văn thích hợp, sau cùng là phần hoàn
kinh gồm: niệm từ bi, hồi hương, phúc nguyện áp dụng cho tất cả các thời khóa.
1.2.2. Tình hình Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.
Phật giáo Nam Tông Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh hiện nay có 141
chùa, với 3.780 sư sãi, tín đồ chiếm 30 % dân số của tỉnh [20, tr.2]. Là một tôn giáo
có đông chùa, phật tử và tu sĩ nhiều nhất so với các tôn giáo khác trong tỉnh. Có
ngôi chùa sự tích gắn liền với địa danh của Trà Vinh như chùa “Ông Mẹt”, tục
truyền từ khi xưa có một trận lụt, một tượng Phật gỗ to lớn được tìm gặp tại một cái
ao. Tượng Phật được người Khmer dự tính đem lên khỏi ao, song không sao khiên
lên nổi, một nhà sư tên Lục Kru Mẹt đã dùng một sợi chỉ màu cột một đầu tứ chi
Phật gỗ, đầu kia cho bảy nhà sư cầm kéo, tượng Phật được xê dịch nhưng đến nền
chùa “Ông Mẹt” hiện giờ thì trụ lại vì thế một ngôi chùa được dựng nơi đây với
kiến trúc thật lộng lẫy, hiện cách thị xã Trà Vinh khoảng 500 mét.
Trước năm 1975 do chế độ củ, thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới,
nhằm âm mưu đồng hóa dân tộc, muốn nắm được Phật giáo Nam Tông để quản lý
người dân tộc Khmer, nhất là lực lượng thanh niên dân tộc Khmer để không đi theo
lực lượng cách mạng. Chúng dựng lên chiêu bài kích động dẫn đến Phật giáo Nam
Tông hệ phái Mahanika ở tỉnh Trà Vinh bị phân chia thành hai hệ phái là:
Theravada và Khêmaranikai, để thực hiện ý đồ của chúng là nắm Phật giáo Nam
Tông, đã chọn và đưa đại đức Thạch Ngos, sinh ngày 03 tháng 11 năm 1908 tại xã
hòa lợi, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh làm trụ trì chùa Selacho lathi giữ chức vụ
tăng thống.
Về tổ chức: trong hệ thống được tổ chức theo mô típ chung thống nhất là
theo 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã; cấp trung ương là : Giáo Phật giáo trung
ương, đứng đầu là tăng thống; cấp tỉnh là: hội đồng kỷ luật sư sãi Salakon do
Meken tỉnh đứng đầu; cấp huyện là: Ốpachia do AnuKon đứng đầu; cấp xã có các
chùa đứng đầu là sư cả.
Các sư trong chùa được phân giữ các vị trí khác nhau nhưng phổ biến nhất
là: sư cả trụ trì, sư cả phó thường là có hai vị, Achar vị chuyên dạy giáo lý và dạy
chữ Pali và cuối cùng là các sư tu học.
Sau năm 1975 thống nhất đất nước, đã tạo cơ duyên rất thuận lợi cho Phật
giáo Nam Tông thực hiện một phận sự lớn được đặt ra từ lâu. Đó là, việc thống nhất
hệ phái Mahanikai đã bị phân chia thành hai hệ phái Theravada và Khêmaranikai,
Phật giáo Nam Tông Khmer ở tỉnh Trà Vinh cũng như tôn phái khác của đạo Phật
đều xem ban trị sự tỉnh Hội Phật giáo là ngôi nhà chung Phật giáo tỉnh nhà dưới sự
lãnh đạo của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo phương châm “Đạo
pháp, dân tộc – chủ nghĩa xã hội”.
Do đặc thù của tỉnh, Phật giáo Nam Tông vẫn duy trì và tồn tại hai tổ chức
song song đó là: Mekon và Hội đoàn kết sư sãi yêu nước cấp tỉnh, huyện, xã. Hội
đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh có hệ thống tổ chức tương đối chặt chẽ: cấp
tỉnh có tỉnh Hội; cấp huyện có Hội; cấp xã có chi Hội; ở từng chùa có sư cả (tổ hội).
Có tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được quy định cụ thể rõ
ràng chi phối mọi hoạt động của sư sãi và Phật tử trong tỉnh.
Hệ thống Mekon của tỉnh gồm có: Hội trưởng Mekon, phó hội đồng giới
luật (Winei Thokne), phó hội trưởng phụ trách hành chính (Samuhakon), phó hội
trưởng phụ trách thanh kiểm tra (Pala Thkon), phó hội trưởng phụ trách giáo dục sư
sãi (Samanathikakon).
Cho đến nay tỉnh đã có 141 chùa Phật giáo Nam Tông Khmer, có đến
22/141 chùa được công nhận là cơ sở tính ngưỡng tôn giáo văn minh; 107/141 chùa
được trang bị dàn âm thanh; 39/141 chùa có phòng đọc sách; 141/141 chùa có dàn
nhạc ngũ âm; 132/141 chùa đã nhập kinh tam tạng từ Campuchia về; 141/141 chùa
được trạng bị ti vi;141/141 chùa có điện thắp sáng; 01 chùa được công nhận là di
tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; 96/141 chùa có dạy chữ Pali trong đó có 69 lớp sơ
cấp và 17 lớp trung cấp [17, tr.12].
Nhiều ngôi chùa trước đây là căn cứ cách mạng đã góp phần cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, nhiều sư sãi tham gia kháng chiến đã hi sinh và được cộng nhận
là liệt sĩ, nhưng việc xem xét để công nhận chùa là di tích lịch sử chùa được làm
đúng mức, có những ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá nay đã xuống cấp nghiêm
trọng nhưng sự đầu tư, giúp đỡ từ phía Nhà nước còn hạn chế nên chưa được sửa
chữa lại như chùa Ô Mịch, xã Châu Điền, huyện Cầu Kè.
Các chùa của Phật giáo Nam Tông Khmer ở đây không chẳng những là nơi
sinh hoạt tôn giáo, mà còn là nơi sinh hoạt chính trị- văn hóa- xã hội, tổ chức tu
hành của sư sãi con em người Khmer, dạy chữ Pali và đặc biệt hơn là nơi rèn luyện
đạo đức trau dồi phẩm hạnh của người dân tộc Khmer; nơi đào tạo đội ngũ tri thức,
cán bộ người dân tộc của tỉnh.
Chùa Phật giáo Nam Tông Khmer chỉ thờ đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni,
không thờ các vị Phật khác như: Quan Thế Âm Bồ Tát, Đường Lai Hạ Sanh, Di Lặt
Tôn Phật, các vị Kim Cương, La Hán hay các Bồ Tát khác. Mỗi ngôi chùa đều có
một giá trị mỹ thuật Phật giáo. Ngôi chùa là sự tổng hợp hài hòa về những yếu tố
tạo hình, tạo dáng, điêu khắc, kiến trúc, hội họa. Ngôi chùa thường được kiến lập
trên một khu đất khá rộng rãi, quang cảnh chung quanh ngôi chùa thường trồng
nhiều loại cây đặc sản miền Nam. Ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer thường có
nhiều khu vực kiến trúc khác nhau như: khu chính điện, tăng xá, nhà tu thiền định
và những tháp để cốt… trước chùa thường là cổng tam quan trang trí hoa văn theo
kiểu kiến trúc đền tháp ở Campuchia. Vì là nơi cúng bái, hành lễ và cầu siêu cho
nên chánh điện thường đặt ở giữa trung tâm vị trí của toàn bộ quần thể. Nền chùa
thường được xây cất cao và được chia thành ba cấp bậc có bố cục hoàn toàn khác
nhau. Mỗi khu vục này được phân chia thành bốn phần được quay hẳn ra bốn hướng
ra vào khác nhau, mỗi hướng giành riêng cho hạng người khác nhau khi vào chùa,
từ vị trụ trì đến chư tăng và thiền nam tín nữ. Đặt biệt nhất là những hình tượng
“Krut” là tượng thần hình người đầu chim một biểu tượng về “vật nhân nhất thể”.
Trong chính điện thông thường bài trí rất đơn giản nhưng không kém phần nghiêm
trang, trên bệ chính cao nhất có nhiều tầng đặt pho tượng. Những tượng Phật của
Phật giáo Nam Tông thường quay về hướng Đông, giải thích về chọn hướng này,
kinh điển Khmer cho rằng: Phật Tổ ở hướng Tây thì bao giờ cũng quay về hướng
Đông để phổ độ chúng sinh. Phần bệ tượng chính thượng khắc họa, trang trí một tòa
sen rộng lớn, chia nhiều bậc và mỗi bậc đều có hoa văn trang trí mỹ thuật. Trên bệ
gồm tượng Phật chính được bố trí ở chính giữa; nhiều tượng nhỏ chung quanh.
Khác với chùa Phật giáo Bắc Tông và chùa của dân tộc Hoa.
Đội ngũ sư sãi Khmer ở tỉnh Trà Vinh khá đông với 3.212 chức sắc (trong
đó có 983 chức sắc là thanh niên). Mọi hoạt động và sinh hoạt tôn giáo của các sư
sãi theo phương châm “Đạo pháp, dân tộc – chủ nghĩa xã hội”. Sư sãi Khmer ở Trà
Vinh hầu hết là con em của đồng bào lao động nghèo. Đại đa số sư sãi nơi đây rất
giàu lòng yêu nước và gắn bó với chủ nghĩa xã hội, gắn chặt với vận mệnh của dân
tộc và giai cấp. Trong số các vị sư sãi trong toàn tỉnh có 14 vị là thành viên của Ban
trị sự tỉnh Hội (trong đó 5 vị là thanh niên), 34 vị là ban đại diện Phật giáo của
huyện, thị (trong đó 17 vị là thanh niên). Ngoài ra có có 02 vị phó pháp chủ trong
Hội đồng chứng minh và 06 vị thành viên của Hội đồng trị sự Trung ương giáo Hội
Phật giáo Việt Nam [5, tr.21].
Kế thừa truyền thống gắn bó dân tộc của Phật giáo, phát huy truyền thống
của Hội đoàn kết sư sãi của tỉnh Trà Vinh, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống đế quốc Mỹ. Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có
nhiều vị cao tăng Phật giáo Nam Tông Khmer ở tỉnh Trà Vinh được nhân dân tính
nhiệm của nhân dân được bầu vào cơ quan quyền lực Nhà nước và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong đó: đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh 02 vị, đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp huyện 07 vị và Hội đồng nhân dân cấp xã 26 vị; ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam các cấp: 01 vị là ủy viên Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, 04
vị là ủy viên mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, 13 vị là thành viên mặt trận tổ
quốc cấp huyện và 34 vị là thành viên mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp xã.
Tính đồ theo Phật giáo Nam Tông có 319.000 người, chiếm tỉ lệ 30% dân
số chung của tỉnh. Qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đồng bào dân tộc
Khmer đã tích cực tham gia cách mạng, đoàn kết với các dân tộc anh em đấu tranh
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Toàn tỉnh có 1.247 gia đình liệt sĩ là
người dân tộc Khmer, 40 bà mẹ Việt Nam anh hùng, có 02 anh hùng quân đội nhân
dân Việt Nam [20, tr.28].
Trải qua các thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm, các chùa, sư sãi của
Phật giáo Nam Tông Khmer không chỉ là nơi nuôi chứa, đùm bọc cán bộ cách
mạng, mà nhiều chùa còn là nơi tụ hợp, hội nghị triển khai các chỉ thị, nghị quyết và
kế hoạch quan trọng của Đảng, nhiều sư sãi đã giác ngộ lần lượt đi tham gia cách
mạng. Thành tích đóng góp của các chùa và sư sãi trong công cuộc sự nghiệp giải
phóng dân tộc rất xứng đáng với tám chữ vàng “toàn dân nổi dậy, đoàn kết lập
công” và nhiều huân chương, huy chương mà Đảng và nhà nước trao tặng.
Tuy nhiên Phật giáo Nam Tông cũng còn bộc lộ nhiều khe hở như: không
chấp nhận người nữ đi tu, các lễ hội còn rườm rà, kéo dài nhiều ngày, tốn kém, biết
vận động đồng bào phật tử cống hiến cho đạo để xây dựng chùa, lo cuộc sống cho
sư sãi mà ít làm từ thiện cho phật tử.
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI THANH
NIÊN DÂN TỘC KHMER TRÊN MỘT SỐ
LĨNH VỰC CHÍNH
2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với đời sống kinh tế
Trước khi Phật giáo Nam Tông du nhập vào Trà Vinh thì thanh niên
Khmer ở đây theo đạo Bàlamôn. Trong cuộc sống của họ dường như thần linh có ở
khắp mọi nơi, chi phối tất cả các hành vi của con người, trước khi làm việc gì điều
phải có lễ vật cúng dân thần để được phù hộ hoặc tránh sự trừng phạt. Do vậy, từ
khi bắt đầu vào mùa sản xuất cho đến khi thu hoạch là cả một chuỗi dài các nghi lễ
phiền toái (như lễ cúng thần sông, thần đất, Arăk, Neakta, lễ thu hoạch…), vừa
chiếm mất nhiều thời gian, vừa tốn kém về vật chất của người dân. Khi Phật giáo
Nam Tông du nhập vào nó vừa phù hợp với phong tục tập quán của đồng bào và
thanh niên Khmer nơi đây vừa lấy đi những tập tục lạc hậu vì người dân chỉ tin duy
nhất vào đức Phật, cố gắn làm việc tạo ra của cải để làm phước sẽ được đức Phật
phù hộ và sẽ có nhiều phúc đức ở kiếp sau. Phật giáo Nam Tông là chỗ dựa tinh
thần vững chắc cho thanh niên Khmer an tâm phát triển sản xuất, ổn định kinh tế
gia đình, góp phần cho sự phát triển kinh tế của xã hội.
Ngày nay, tuy thanh niên Khmer ở tỉnh Trà Vinh đa số thuộc thành phần
lao động sản xuất nông nghiệp, mặt bằng dân trí thấp. Trong 39 xã, phường có
62.086 ha đất nông nghiệp, chiếm 55,78% diện tích đất nông nghiệp của toàn tỉnh,
điều kiện phát triển kinh tế không thuận lợi như: phần lớn đất đai bị nhiễm mặn,
nhiễm phèn, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, giao thông không thuận tiện, đa số
dân cư sống tập trung trong những phum, sóc. Trong những năm qua, sự kết hợp
giữa nhà chùa, đăc biệt là sự động viên, khích lệ của các vị sư cả, các vị Mekon đối
với thanh niên Khmer trong việc phát triển kinh tế cùng với sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sơ hạ tầng, đầu tư các nguồn vốn tạo
điều kiện thuận lợi để thanh niên Khmer phát triển sản xuất, làm cho cuộc sống gia
đình nông dân Khmer trong các phum, sóc ngày càng nâng lên rõ rệt.
Việc tu học của thanh niên Khmer trong các chùa ngoài việc để có được
phẩm chất, đạo đức còn được trang bị tri thức về khoa học – kỹ thuật để sau khi
hoàn tục có thể phục vụ tốt trong sản xuất nâng cao sự phát triển kinh tế của gia
đình. Với đức tính cần cù lao động, thật thà, giàu tình thương, có tinh thần đoàn kết
tương trợ, ham học hỏi thời gian qua thanh niên Khmer đã đóng góp rất lớn cho sự
phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
Mô hình kết hợp giữa năm nhà “Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp, nhà nông, nhà chùa” trong đó Nhà nước đầu tư vốn thông qua chương trình
cho vốn vay ưu đãi đối với thanh niên Khmer, nhà khoa học thực hiện chuyển giao
khoa học – kỹ thuật thông qua các buổi tập huấn cho thanh niên Khmer, nhà doanh
nghiệp ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm nông nghiệp làm ra, nhà nông thì giúp đỡ và
trao đổi kinh nghiệm sản xuất còn nhà chùa thì cho thanh niên Khmer mượn đất sản
xuất đã bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực trong sự phát triển kinh tế.
Nhận thức được đặc điểm của thanh niên dân tộc Khmer, tỉnh đã chủ
trương thực hiện nhiều chương trình lồng ghép với chùa Phật giáo Nam Tông nhằm
đem lại hiệu quả phát triển kinh tế trong đồng bào Khmer. Đặc biệt là thực hiện kế
hoạch 01 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “giải quyết đất đai, củng cố và phát triển kinh
tế hợp tác, góp phần xóa đói giảm nghèo”, đã vận động trên 1.000 hộ có nhiều đất
cho trên 1.400 hộ ít đất và không có đất mượn trên 600 ha đất để sản xuất; hỗ trợ
886 triệu đồng cho bà con chuộc lại 109 ha đất đã cầm cố. Thực hiện phương án hỗ
trợ về nhà ở đối với hộ cực nghèo trong vùng đồng bào Khmer, hoàn thành và bàn
giao được 7.179 căn nhà cho các hộ sử dụng với tổng kinh phí chung là 35.898 triệu
đồng. Từ chương trình lồng ghép trên số hộ Khmer khá giàu tăng lên, số hộ nghèo
giảm đáng kể, từ trên 40% (năm 1992) giảm xuống còn 19% (năm 2002), không có
hộ thiếu đói phải cứu tế lúc giáp hạt. Nhìn chung, bộ mặt nông thôn trong vùng có
đông thanh niên dân tộc Khmer sinh sống ngày càng đổi mới, có 40% ấp, khóm có
đông thanh niên dân tộc Khmer được công nhận ấp, khóm văn hóa, hệ thống giao
thông phát triển, xe ô tô đến được trung tâm các xã, hầu hết các xã có đông thanh
niên dân tộc Khmer đều có điện lưới quốc gia, nước sạch sinh hoạt, trạm y tế hoặc
phòng khám đa khoa khu vực phục vụ kịp thời việc khám chữa bệnh cho nhân dân,
riêng các bệnh nhân thuộc hộ nghèo được miễn, giảm viện phí.
Các huyện có đông thanh niên dân tộc Khmer đều có trường phổ thông dân
tộc nội trú, số học sinh Khmer theo học ngày càng tăng, nếu năm 1992 hơn 09
người mới có 01 người đi học thì nay chưa đến 05 người thì đã có 01 người đi học.
Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, xét tuyển đối với học sinh, sinh viên là thanh
niên con em đồng bào Khmer, số học sinh là người Khmer thi đậu vào các trường
đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp mỗi năm đều tăng, phong trào học hai
thứ chữ phổ thông và Khmer có nhiều tiến bộ, việc dạy và học bổ túc văn hóa, Pali,
ngữ văn Khmer trong sư sãi ngày càng phát triển.
Như vậy, dưới sự tác động của Phật giáo Nam Tông Khmer, ở một phương
diện nào đó đã có những đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế của thanh niên dân
tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất cũ lạc hậu,
năng suất thấp, góp phần nâng cao trình độ của thanh niên Khmer để ứng dụng khoa
học – kỹ thuật vào sản xuất nâng cao đời sống của người dân Khmer trong các
phum, sóc. Nhưng ở phương diện khác, Phật giáo Nam Tông Khmer cũng đem lại
những yếu tố bất lợi kìm hãm quá trình phát triển kinh tế, là nguyên nhân của sự trì
trệ, nghèo đói. Có thể thấy qua các biểu hiện sau đây:
Sự cản trở lớn nhất trong phát triển kinh tế là vấn đề tăng dân số nhanh
trong vùng đồng bào Khmer theo Phật giáo Nam Tông. Việc thực hiện kế hoạch hóa
gia đình trong thanh niên Khmer lập gia đình gặp rất nhiều khó khăn vì họ cho rằng
như vậy là phạm vào giáo lý của Phật giáo, cho nên việc vận động triển khai
chương trình hạn chế sinh đẻ ít mang lại hiệu quả, tỷ lệ sinh trong vùng đồng bào
Khmer bao giờ cũng cao hơn các nới khác. Mỗi gia đình có từ 5 – 10 con là phổ
biến. Do dân số tăng nhanh, diện tích đất canh tác bình quân đầu người ngày càng
thu hẹp dần, thiếu đất sản xuất làm cho cuộc sống của thanh niên dân tộc Khmer
thêm khó khăn hơn.
Hàng năm, Phật giáo tổ chức rất nhiều lễ hội, có nhiều lễ hội kéo dài 2-3
ngày, hàng tháng phật tử phải đến chùa ít nhất sáu lần vào các ngày 5, 8, 15, 23, 28,
30 để nghe sư cả thuyết giảng Phật pháp. Những việc này tốn rất nhiều thời gian của
phật tử ảnh hưởng đến thời gian sản xuất nhất là trong những tháng mùa vụ. Thanh
niên dân tộc Khmer đến tuổi phải vào chùa để tu học, không tham gia sản xuất, mà
đây lại là lực lượng lao động chính của gia đình nên ảnh hưởng rất nhiều đến sự
phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tư tưởng trong giáo lý và giáo luật của Phật giáo Nam Tông
Khmer vốn không khuyến khích sự phát triển kinh tế như một số tôn giáo khác,
Phật giáo Nam Tông Khmer có khuynh hướng lý tưởng hóa cuộc sống thanh bần.
Điều này đã đem đến cho phật tử Khmer tư tưởng thụ động, chờ đợi và an bài với
cuộc sống hiện tại.
Là một tỉnh nghèo, điều kiện phát triển kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn,
đời sống của một bộ phận sư sãi và thanh niên phật tử Phật giáo Nam Tông Khmer
còn thấp, các thế lực thù địch và bọn phản động lưu vong ở bên ngoài lợi dụng vấn
đề này để tuyên truyền xuyên tạc chủ trương chính sách về dân tộc – tôn giáo của
Đảng ảnh hưởng đến tư tưởng các sư sãi và nhất là thanh niên Khmer là tín đồ của
Phật giáo Nam Tông.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với đời sống chính trị
Thanh niên dân tộc Khmer cũng như tất cả các phật tử của Phật giáo Nam
Tông rất yêu chuộng hòa bình, có tinh thần yêu nước nồng nàn, sống yên ổn trong
các phum, sóc. Trong phum, sóc chủ yếu hoạt động theo chế độ tự quản với một ban
điều hành gồm những người hiểu biết, có kinh nghiệm và uy tín. Ban tự quản phum,
sóc kết hợp với sư sãi trong các chùa để bảo tồn và phát triển cộng đồng, ổn định
trật tự xã hội, hình thành một thiết chế xã hội truyền thống mà Phật giáo Nam Tông
có một vị trí đặc biệt trong đời sống vật chất và tinh thần đối với thanh niên dân tộc
Khmer.
Trước năm 1945, trước cảnh quê hương bị giẫm nát bởi gót giầy của thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thanh niên dân tộc Khmer ở Trà Vinh, cùng với
đồng bào trong cả nước mang một nổi nhục mất nước, nổi nhục làm nô lệ cho ngoại
bang, dưới sự thâm độc thực dân đế quốc chúng tìm mọi cách để Công giáo hóa
Phật giáo Nam Tông, tìm mọi cách để lôi kéo các sư sãi uy tín trong dân để thực
hiện mưu đồ của chúng. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ Trà Vinh, thanh
niên dân tộc Khmer cũng như đồng bào Khmer theo Phật giáo Nam Tông một lòng
theo Đảng, theo Bác Hồ, kiên gan bền chí, bám trụ đất, giữ phum, sóc làm nên
những chiến công hiển hách.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa, tháng 7 năm 1946 với sự ra đời của Ủy ban kháng
chiến hành chính tỉnh Trà Vinh, đã tạo điều kiện cho những sư sãi ưu tú như Lục cả
Thạch Tụm, Thạch Cui lèo lái con thuyền Phật giáo Nam Tông Khmer qua những
thác ghềnh, theo đúng phương châm đạo pháp và dân tộc, trong thời gian này Lục
cả Thạch Tụm được bầu làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Trà Cú
đến tháng 7 năm 1951 Lục cả Thạch Tụm được bầu làm phó chủ tịch Ủy ban kháng
chiến hành chính tỉnh Trà Vinh thì Lục cả Thạch Cui được bầu giữ chức chủ tịch
Ủy ban kháng chiến huyện Trà Cú. Cũng trong giai đoạn này hàng vạn sư sãi, thanh
niên dân tộc Khmer tham gia các cuộc đấu tranh chính trị do Đảng ta lãnh đạo làm
cho chính quyền thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn tổn thất.
Sau khi Pháp rút quân về nước, đế quốc Mỹ thay chân Pháp xâm lược Miền
Nam, đã dựng lên chính quyền tay sai do Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Chúng thi
hành đàn áp Phật giáo Nam Tông Khmer, không cho dạy chữ Pali, bắt bớ thanh niên
dân tộc Khmer trong các phum, sóc phải vào quân đội, cấm không cho đồng bào
phật tử Khmer nuôi chứa cán bộ cách mạng, dùng mọi hình phạt dã man nhằm trấn
áp tinh thần của đồng bào Khmer.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Trà Vinh, sự bền chí không chịu
khuất phục trước kẻ thù của các vị sư cả trong các chùa, thanh niên và phật tử
Khmer quyết tâm bám đất, bám làng đánh đuổi kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai bán
nước. Sư sãi và thanh niên phật tử Khmer vẫn một lòng theo Đảng, nhiều chùa
chiền đã trở thành nơi ém quân của du kích như: chùa Ô Mịch (Cầu Kè), chùa Căn
Nom (Châu Thành); nhiều chùa đã trở thành cơ sở nuôi chứa cán bộ cách mạng
như: chùa Pro Khúp (Duyên Hải), chùa Ấp Sóc (Càng Long)….Nhiều sư sãi, chức
sắc đã theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đã tham gia cách mạng, nhiều vị cao
tăng đã hi sinh thân mình để đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và tiêu biểu là liệt
sĩ Dương Sóc, liệt sĩ Kim Sum và liệt sĩ Dương Sâm Nang; Hòa thượng Sơn Vong,
sư cả Thạch Phát, Hòa thượng Kim Nhiêu Kem, Thượng tọa Kim Tóc Chơn, Hòa
thượng Kim Chao, Hòa thượng Thạch Con, Hòa thượng Trầm Phước Tỵ, Hòa
thượng Trần Danh, Hòa thượng Lâm Co, Hòa thượng Thạch Út, Hòa thượng Thạch
Som,…nhiều vị đã bám nắm dân, nắm sư sãi vận động thanh niên Khmer đấu tranh
chính trị, có vị thì phát áo cà sa đi kháng chiến giành độc lập, giải phóng dân tộc.
Nhiều vị chức sắc đã đặt dấu ấn để đời trong phong trào cách mạng như: Hòa
thượng Thạch Som với câu nói rất nổi tiếng trước đồng bào phật tử và sư sãi tỉnh