BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯƠNG THỊ VÂN
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG DI ĐỘNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯƠNG THỊ VÂN
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG DI ĐỘNG
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước khi trình bày nội dung đề tài này, em xin được bày tỏ lòng biết
ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo TS. Đoàn Trung Kiên, người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành
luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Pháp luật
Kinh tế và Khoa Sau Đại học, trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho em
kiến thức trong suốt quá trình học tập, cùng những người bạn đã giúp đỡ,
đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thành tốt nhất.
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn
Lương Thị Vân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Số liệu, kết quả nghiên cứu đề cập trong Luận văn là trung thực, có
nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn
Lương Thị Vân
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Chƣơng 1
1.1
1.2
Chƣơng 2
2.1
2.2
Chƣơng 3
3.1
3.2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HÀNH
VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG
TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG DI ĐỘNG
Khái quát về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trong lĩnh vực viễn thông di động
Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG TRONG LĨNH VỰC
VIỄN THÔNG DI ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM
Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về kiểm soát
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực
viễn thông di động
Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động ở
Việt Nam hiện nay
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG TRONG LĨNH
VỰC VIỄN THÔNG DI ĐỘNG Ở VIỆT NAM
Quan điểm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh
vực viễn thông di động
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong
lĩnh vực viễn thông di động ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
6
6
15
23
23
44
60
60
65
72
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo xu hướng phát triển, bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia vào
hoạt động kinh doanh đều mong muốn ngày càng phát triển hơn nữa vị thế
của mình trên thương trường, nhất là những doanh nghiệp có thị phần lớn.
Việc các doanh nghiệp phát triển lành mạnh là điều tất cả các nước đều
khuyến khích. Tuy nhiên, không thể đảm bảo một doanh nghiệp tham gia thị
trường lúc nào cũng thực hiện hoạt động kinh doanh một cách lành mạnh và
luôn luôn tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, trong điều kiện của Việt Nam, một nền
kinh tế vừa thoát khỏi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, sự quản lý và điều tiết
của Nhà nước còn đang tiến dần đến sự phù hợp với các nguyên tắc của cơ
chế thị trường; sự chi phối của các doanh nghiệp quốc doanh còn lớn; sự gia
tăng nhanh chóng và không ngừng lớn mạnh của các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân; sự vượt trội về khả năng tài chính, tư duy kinh tế và kinh
nghiệm thương trường… đã khiến cho tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh
và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền diễn ra phổ biến
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có thể kể đến hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
Chính sách tự do hóa thị trường dịch vụ viễn thông di động đang đặt ra
cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động Việt Nam những
thách thức to lớn - đó là cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của viễn thông và tin học cho phép các doanh nghiệp áp dụng
công nghệ mới vào khai thác nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao
của xã hội. Điều đó làm cho yếu tố cạnh tranh trên thị trường dịch vụ viễn
thông di động càng thêm sôi động. Vấn đề cạnh tranh cần được các doanh
nghiệp cùng tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông di động coi trọng và hiểu
rõ trong chiến lược phát triển của mình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
2
của ngành, các quy định pháp luật của Nhà nước về vấn đề này còn rất tản
mát, nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, thậm chí
đôi khi còn chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Điều đó dễ tạo ra một cách
nhìn nhận không đầy đủ hoặc thiếu chính xác về cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong
lĩnh vực viễn thông di động. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và
xem xét, đối chiếu với thực tiễn để xây dựng một chính sách pháp luật về
cạnh tranh và kiểm soát tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, duy
trì trật tự cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ lợi ích cho các chủ thể trong nền kinh
tế, trả lại sự thông thoáng cho môi trường đầu tư trong lĩnh vực viễn thông di
động là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.
Từ những phân tích trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, hiện đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về cạnh tranh,
chính sách cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh ở các cấp độ khác nhau, điển
hình có thể kể đến một số công trình nghiên cứu đã công bố như: Luận án tiến
sĩ luật học “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam” năm 2002 của Đặng Vũ Huân (Trường Đại học Luật
Hà Nội); “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền kinh doanh, Dự án hoàn thiện môi trường kinh doanh
VIE/97/061” năm 2002 của Viện nghiên cứu quản lý Trung ương (Nxb. Giao
thông vận tải, Hà Nội); sách chuyên khảo “Phân tích và luận giải các quy
định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh” năm 2006 của PGS.TS Nguyễn Như
Phát, Ths. Nguyễn Ngọc Sơn (Nxb. Tư pháp, Hà Nội) v.v..
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
3
Những đề tài nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào giải quyết các vấn
đề pháp lý cơ bản về pháp luật cạnh tranh, kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường nói chung, có rất ít công trình đi sâu vào phân tích
những nội dung pháp lý về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động. Do đó, tác giả thấy việc nghiên cứu,
đánh giá để góp phần cùng các công trình trước đây hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn
thông di động ở Việt Nam là cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động, từ đó đưa ra những định hướng, giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm liên quan đến vị trí thống lĩnh thị
trường, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến những nội
dung cơ bản của việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trong lĩnh vực viễn thông di động.
- Đánh giá thực trạng kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, đưa ra một số kiến nghị về định
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
4
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm pháp lý liên quan
đến xác định vị trí thống lĩnh thị trường, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực
viễn thông di động và các văn bản pháp luật của Việt Nam và một số nước
trên thế giới về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích, đánh giá
các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo
Luật cạnh tranh Việt Nam và thực tiễn áp dụng vào việc kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là học thuyết của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về pháp luật cạnh
tranh nói chung và pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động nói riêng.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn kết hợp sử
dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp, lịch sử kết hợp với
các phương pháp như thống kê, so sánh luật học… để giải quyết nội dung
khoa học của đề tài.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về lý luận
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động. Những đóng góp của luận
văn thể hiện tập trung ở những nội dung sau:
- Luận văn đã tiếp tục làm rõ được một số vấn đề lý luận về kiểm soát
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di
động.
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
5
- Luận văn đã phân tích, đánh giá khá toàn diện thực trạng quy định
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh
vực viễn thông di động ở Việt Nam.
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trong lĩnh vực viễn thông di động ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ
và phương pháp nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục
tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động theo pháp luật Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di
động ở Việt Nam
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG TRONG LĨNH VỰC
VIỄN THÔNG DI ĐỘNG
1.1. Khái quát về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng
trong lĩnh vực viễn thông di động
1.1.1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động
1.1.1.1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải chấp nhận những quy
luật của nền kinh tế thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh có
vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy
sản xuất phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng dẫn đến việc triệt tiêu lẫn
nhau giữa các đối thủ cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường và khẳng định sức
mạnh kinh tế của mình. Quá trình cạnh tranh diễn ra đến một mức độ nào đó
sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là xuất hiện tình trạng thống lĩnh thị trường.
Vị trí thống lĩnh được hiểu là khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm
năng của một loại hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ của một hoặc một số
doanh nghiệp [17]. Với cách hiểu như vậy, vị trí thống lĩnh không chỉ được
xem xét dưới góc độ vị trí của một doanh nghiệp mà còn có thể là vị trí của
một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Tức là giữa nhóm doanh nghiệp này
không có sự thỏa thuận trước nhưng đã cùng hành động, cùng nhau thực hiện
các hành vi như bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ để
loại bỏ đối thủ.
Khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, các doanh nghiệp thống lĩnh tìm
mọi cách để duy trì vị trí thống lĩnh của mình với các cách thức như: thôn
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
7
tính, tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh, ngăn cản không cho các đối thủ tiềm
năng gia nhập thị trường, tiếp tục củng cố ưu thế và sức mạnh thị trường bằng
việc lôi kéo các đối thủ liên kết tạo sức mạnh, phân chia thị trường, định giá
cả. Chính từ thực trạng các doanh nghiệp khi có vị trí thống lĩnh thường lạm
dụng vị trí của mình đã làm cho pháp luật tất yếu phải có những quy định để
điều chỉnh và kiểm soát.
Để kiểm soát được một quan hệ nào đó thì trước hết pháp luật phải
nhận diện được đối tượng đó và những thuộc tính của nó. Tương tự như vậy,
để điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thì pháp luật phải
đưa ra được khái niệm về vị trí thống lĩnh thị trường và những tiêu chí để xác
định đâu là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Tùy theo đặc điểm kinh tế - xã
hội khác nhau mà pháp luật của mỗi nước cũng đưa ra những quan niệm và
tiêu chí xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh khác nhau. Hiện nay, có
hai xu hướng cơ bản trong pháp luật của các nước và các tổ chức quốc tế khi
mô tả về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh.
Xu hướng thứ nhất, pháp luật không đưa ra khái niệm của hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh mà chỉ quy định một cách khái quát các dấu hiệu cấu
thành của hành vi, bên cạnh đó có những quy định cụ thể liệt kê các hành vi
bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Ví dụ điển hình cho xu hướng
này là pháp luật cạnh tranh của Canađa. Khoản 1 Điều 79 Luật Cạnh tranh
Canađa quy định Tòa Cạnh tranh chỉ đưa ra phán quyết xử lý doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp khi chứng minh đủ ba nội dung sau: (i) một hoặc
một nhóm doanh nghiệp về cơ bản hoặc hoàn toàn kiểm soát một loại hình
hoặc một phân đoạn kinh doanh, dù trên toàn lãnh thổ Canađa hay tại bất kỳ
khu vực nào của nó; (ii) đã hoặc đang thực hiện hành vi phản cạnh tranh được
quy định trong luật cạnh tranh, (iii) hành vi đó đã, đang hoặc có khả năng làm
cản trở hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường một cách đáng kể [18]. Bên
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
8
cạnh các dấu hiệu của hành vi được quy định trong Điều 79, Điều 78 Luật
Cạnh tranh Canađa còn liệt kê 9 nhóm hành vi phản cạnh tranh có thể bị cấm.
Xu hướng thứ hai, pháp luật đưa ra khái niệm và có những quy định cụ
thể về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Ví dụ: Bộ quy tắc về cạnh tranh của
Liên hợp quốc được thông qua ngày 22 tháng 4 năm 1980 và Luật mẫu về
cạnh tranh của Tổ chức thương mại và phát triển Liên hợp quốc định nghĩa
“hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền để hạn chế
cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị
trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá
mức cạnh tranh” [20].
Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa cụ thể
thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường mà chỉ đưa ra khái
niệm chung về hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo đó, “hành vi hạn chế cạnh
tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên
thị trường, bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế” (khoản 3 Điều 3 Luật cạnh
tranh). Các nội dung này đã được cụ thể hóa tại các Điều 8, 13, 14, 16 của
Luật cạnh tranh.
Điều 13 Luật cạnh tranh liệt kê các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường bị cấm, bao gồm:
- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh;
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá
bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường,
cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
9
- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
1.1.1.2. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong
lĩnh vực viễn thông di động
Viễn thông di động là một trong những dịch vụ có bước phát triển rất
nhanh, đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của viễn thông Việt Nam thời gian
qua. Thị trường có thể đã quen thuộc với các thương hiệu viễn thông di động
như MobiFone, VinaPhone, Viettel…, thế nhưng hiểu rõ về đối tượng mà các
thương hiệu đó kinh doanh thì không phải ai cũng biết. Vì vậy, trước khi
nghiên cứu khái niệm “hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh
vực viễn thông di động”, cần có một cách hiểu tương đối về thuật ngữ “viễn
thông di động”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Viễn thông năm 2009, “Viễn
thông là việc gửi, truyền, nhận và xử lý ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết,
hình ảnh, âm thanh hoặc dạng thông tin khác bằng đường cáp, sóng vô tuyến
điện, phương tiện quang học và phương tiện điện từ khác”. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có một định nghĩa chính xác về viễn thông di động. Viễn thông di
động thường được nhắc đến với một thuật ngữ tương đương là thông tin di
động mặt đất, mặc dù có thể nói, đây là một thuật ngữ mang nội hàm nhỏ hơn.
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, hai thuật ngữ này sẽ được coi là như nhau
và cùng được giới hạn trong phạm vi dịch vụ thông tin di động mặt đất.
Có thể hiểu, thông di động mặt đất (sau đây gọi là thông tin di động) là
một loại hình dịch vụ trong đó tính di động có được là do kết nối tần số vô
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
10
tuyến giữa chuyển tiếp và nối với mạng cố định và mỗi thuê bao người dùng.
Vì thế, hệ thống di động mặt đất thích hợp nhất với môi trường ở thành phố,
trái lại hệ thống di động vệ tinh lại thích hợp cho các vùng sâu, vùng xa như
ngoài khơi, hành lang hàng không hay những vùng heo hút.
Căn cứ vào Điều 13 Luật cạnh tranh, có thể hiểu, hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động là những hành vi do
doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường trong
lĩnh vực viễn thông di động thực hiện nhằm củng cố vị trí thống lĩnh bằng
cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, ngăn cản, kìm hãm doanh
nghiệp khác không cho gia nhập thị trường phát triển kinh doanh, dẫn đến
những sai lệch về cạnh tranh trên thị trường viễn thông di động”.
1.1.2. Các dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trong lĩnh vực viễn thông di động
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là các doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường viễn thông di động.
Lý thuyết cạnh tranh đã chỉ ra rằng, vị trí thống lĩnh có thể được hình
thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh tranh; từ những điều kiện tự nhiên của
thị trường như: sự biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập
thị trường… Trong những trường hợp nói trên, vị trí thống lĩnh là hợp pháp
và đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị trường, hay còn gọi là khả năng
chi phối các quan hệ thị trường. Theo cuốn Từ điển kinh tế học hiện đại,
quyền lực thị trường là khả năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các
doanh nghiệp trong việc tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng
hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua [19, tr.682].
Về mặt học thuật, có hai vấn đề cần phải làm rõ là: (i) hành vi lạm dụng
chỉ xảy ra sau khi vị trí thống lĩnh trên thị trường viễn thông di động đã được
xác lập. Do đó, pháp luật chống lạm dụng không nhằm đến việc xóa bỏ vị trí
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
11
thống lĩnh của doanh nghiệp, pháp luật chỉ hướng đến việc loại bỏ hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.
Một khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường chưa có các biểu hiện của sự
lạm dụng thì chúng vẫn là chủ thể được pháp luật bảo vệ; (ii) chủ thể thực
hiện việc lạm dụng có thể là một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một nhóm doanh
nghiệp (tối đa là bốn) có vị trí thống lĩnh trên thị trường viễn thông di động.
Đối với vụ việc điều tra về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của nhóm
doanh nghiệp có quyền lực thị trường, cơ quan có thẩm quyền cần phải phân
biệt được hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh với các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Bởi hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh có một số điểm giống nhau, ví dụ (i) đều có thể do một nhóm
doanh nghiệp thực hiện, (ii) nội dung của chúng giống nhau, như: phân chia
thị trường, hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm, hạn chế phát triển khoa học
kỹ thuật… Tuy nhiên, khi một doanh nghiệp (với tổng thị phần kết hợp đủ để
thống lĩnh thị trường) thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
để hạn chế cạnh tranh thì giữa họ không có sự thỏa thuận trước. Ngược lại,
nếu có đủ chứng cứ chứng minh rằng đã tồn tại một thỏa thuận trong nhóm
doanh nghiệp đó để thực hiện những hành vi nói trên thì hành vi của họ sẽ
được điều chỉnh bởi pháp luật chống thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã thực hiện
những hành vi mà pháp luật cạnh tranh liệt kê.
Ngoài những khái niệm căn bản mang tính học thuật về hành vi hạn chế
cạnh tranh nói chung, cần phải gọi tên được từng hành vi lạm dụng. Dựa vào
đó, người ta có thể phân tích bản chất của hành vi dưới góc độ của lý thuyết,
đồng thời trong công tác thực thi pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có thể dễ dàng xác định sự vi phạm bằng cách đối chiếu các hành vi thực tế
với các quy định của pháp luật. Một hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
12
trường chỉ bị quy kết là lạm dụng để hạn chế cạnh tranh khi nó mang đầy đủ
các dấu hiệu của một hành vi nào đó đã được luật quy định là lạm dụng. Khi
chưa thể hoặc chưa đủ chứng cứ cần thiết để kết luận về việc doanh nghiệp đã
thực hiện trong số các dạng vi phạm được quy định thì cũng không thể quy
kết trách nhiệm về sự lạm dụng [27].
Thứ ba, hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là làm sai lệch,
cản trở hoặc giảm cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường viễn
thông di động.
Dấu hiệu này cho thấy khả năng hạn chế cạnh tranh của hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh và tác hại của nó đối với thị trường. Như đã phân tích,
doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng với mục đích duy trì, củng cố vị trí
hiện có hoặc tận hưởng các lợi ích có được từ việc bóc lột khách hàng. Các
nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh
tế (viết tắt là OECD) đã đưa ra nhiều khuyến nghị về việc xác định hành vi
lạm dụng, trong đó họ cảnh báo rằng chỉ có thể chống lại sự lạm dụng quyền
lực thị trường thành công, khi pháp luật và người thi hành nó xác định được
những hành vi cụ thể có thể gây hại cho cạnh tranh và đánh giá được những
tác động toàn diện của chúng trên thị trường liên quan [35, tr. 160]. Đối với
hành vi hạn chế cạnh tranh, lý luận và kinh nghiệm pháp lý của các nước đã
chỉ ra rằng, nhóm hành vi này có ba loại vi phạm với bản chất pháp lý khác
nhau là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền và tập trung kinh tế, nên không thể đưa ra một khái niệm chung chứa
đựng những căn cứ cụ thể cho mọi trường hợp. Trong tình trạng đó, dấu hiệu
về hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ được diễn tả rất khái quát,
mang tính định dạng về mặt lý luận hơn là lượng hóa bằng những căn cứ cụ
thể. Mặt khác, do hành vi vi phạm được liệt kê rất đa dạng bao gồm các hành
vi về việc định giá bán, giá mua sản phẩm, hành vi hạn chế sản lượng sản
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
13
xuất, phân phối, hạn chế thị trường; hành vi phân biệt đối xử; áp đặt các điều
kiện thương mại bất hợp lý đối với khách hàng…, mỗi hành vi có đối tượng
xâm hại khác nhau và mức độ thiệt hại có thể gây ra cũng không giống nhau,
nên việc đưa ra một tiêu chuẩn chung để làm căn cứ xác định hậu quả gây ra
của mọi hành vi là không thể. Vì thế, khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng
buộc phải dựa vào việc phân tích từng hành vi vi phạm để kết luận về khả
năng và mức độ gây thiệt hại của nó đối với thị trường. Theo đó, từng hành vi
có thể làm cản trở, giảm và sai lệch cạnh tranh ở mức độ khác nhau.
Dấu hiệu hậu quả của hành vi là căn cứ để phân biệt hành vi lạm dụng
với hiện tượng tập trung kinh tế (cũng là một loại hành vi hạn chế cạnh tranh).
Tập trung kinh tế được Luật cạnh tranh mô tả thông qua bốn biểu hiện cụ thể
là sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên danh, là những chiến lược do doanh
nghiệp thực hiện có khả năng hình thành nên các thế lực độc quyền không
thông qua sự tích tụ dần từ hiệu quả kinh tế. Như vậy, nếu mức giảm, sai lệch
hoặc hạn chế cạnh tranh mà hành vi lạm dụng gây ra được chứng minh bằng
những lợi ích mà các doanh nghiệp khác, hoặc khách hàng phải gánh chịu, thì
đối với tập trung kinh tế, điều đó được chứng minh bằng những suy đoán là
việc các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh có thể làm
thay đổi cấu trúc và tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị
trường do chúng đã tạo ra doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị
trường. Nói cách khác, pháp luật chống lạm dụng hướng đến việc cấm đoán
hành vi, còn pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế có nhiệm vụ chặn khả năng
hình thành các thế lực có quyền lực trên thị trường bằng việc tiến hành tập
trung kinh tế.
1.1.3. Tác động của hành vi thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực
viễn thông đối với nền kinh tế - xã hội
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
14
Thống lĩnh thị trường góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung
các nguồn lực để phát triển. Sau khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông di động thường phát triển nhanh
chóng thành những tập đoàn hùng mạnh. Sự tích tụ và tập trung nguồn lực
vào tay một hoặc một nhóm các doanh nghiệp tạo điều kiện đẩy mạnh nghiên
cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng quy mô, tăng năng suất lao
động, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá cho bản thân doanh nghiệp
và cho ngành viễn thông. Sự mở rộng về quy mô sản xuất, đến lượt nó sẽ tạo
động lực kích thích trở lại doanh nghiệp, bởi trên thực tế ai cũng biết rằng lợi
nhuận của một doanh nghiệp sẽ tăng lên theo quy mô sản xuất kinh doanh.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ là Joseph
Schumpeter (1883 – 1950) đã ủng hộ mô hình kinh tế trong đó có sự tồn tại
của các thế lực thống lĩnh.
Bên cạnh những tác động tích cực nói trên, thống lĩnh trong lĩnh vực
viễn thông di động cũng có những mặt trái của nó:
Thứ nhất, thống lĩnh đi ngược lại trật tự cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm
động lực phát triển của nền kinh tế. Khi đã có vị trí thống lĩnh, các doanh
nghiệp luôn tìm cách duy trì vị trí thống lĩnh của mình bằng cách tiêu diệt các
đối thủ tiềm năng, hạn chế sự xuất hiện trên thị trường của các đối thủ này.
Bằng thủ đoạn bóp chết đối thủ cạnh tranh thực chất đã triệt tiêu sự cạnh tranh
trên thương trường, mà một khi không còn cạnh tranh thì sẽ không còn áp lực
để các doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai, thống lĩnh tạo ra nguy cơ khủng hoảng và suy thoái của nền
kinh tế. Các doanh nghiệp thống lĩnh sử dụng vị thế này vào việc tự định giá
cả hàng hóa, dịch vụ độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng hóa để tăng giá bán
nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới công
nghệ, tăng năng suất nữa. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho năng lực của các
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
15
doanh nghiệp thống lĩnh bị suy yếu, thậm chí dẫn đến suy giảm và suy thoái
của một ngành viễn thông. Đó cũng chính là nguyên nhân đưa đến sự lạm
phát và gây mất ổn định nền kinh tế, làm tăng số người thất nghiệp.
Thứ ba, thống lĩnh tạo ra cho các doanh nghiệp có quyền lực thị trường
những khoản thu nhập bất chính từ lợi nhuận siêu ngạch, góp phần làm gia
tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công trong xã hội. Người tiêu dùng không
chỉ phải chi phí đắt thêm cho hàng hóa, dịch vụ thống lĩnh mà họ còn chịu
thiệt thòi khi không được hưởng những thành quả sáng tạo trong sản xuất.
Doanh nghiệp sau khi đã đạt được đến vị trí thống lĩnh sẽ lơ là việc đầu tư cho
nghiên cứu, phát minh vì giờ đây họ không còn đối thủ để ganh đua nữa, thay
vào đó họ chỉ lo việc khống chế sản lượng để tăng giá nhằm thu về lợi nhuận
thống lĩnh tối đa. Kết quả là nền sản xuất bị giậm chân tại chỗ, thị trường sẽ
thiếu vắng những sản phẩm, dịch vụ mới chất lượng tốt hơn, còn người tiêu
dùng thì vẫn phải chấp nhận những sản phẩm, dịch vụ cũ với giá cao vì họ
không còn có sự lựa chọn nào khác.
Thứ tư, thống lĩnh còn dẫn đến tình trạng “cửa quyền” hay “đặc quyền”
cho một nhóm người có lợi ích. Thống lĩnh tất yếu sẽ sản sinh ra cơ chế “xin cho”, “ban phát” và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất.
Đồng thời, thống lĩnh còn là “bạn đồng hành” với tiêu cực và tham nhũng.
Các doanh nghiệp thống lĩnh luôn có xu hướng liên hệ và tranh thủ sự ủng hộ
của các cơ quan quản lý nhà nước để bảo vệ vị thế thống lĩnh của mình. Điều
này làm xuất hiện nguy cơ tham nhũng, tha hóa trong bộ máy công quyền.
1.2. Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trƣờng trong lĩnh vực viễn thông di động
1.2.1. Khái quát pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
16
Hiểu một cách chung nhất, kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động là: (i) tổng hợp các cơ chế, thiết
chế bảo đảm cho chủ thể có quyền kiểm soát hạn chế cạnh tranh thực hiện
chức năng theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện, chấp hành, tuân thủ các quy
chuẩn hành vi đạo đức và pháp luật của các doanh nghiệp viễn thông di động,
(ii) thực hiện chức năng ngăn ngừa nhằm bảo đảm cho những đối tượng này
luôn nằm trong quỹ đạo của các yêu cầu về pháp luật, các chuẩn mực đạo đức
kinh doanh và bảo đảm để các quy định về cạnh tranh được thực hiện đúng và
có hiệu quả, (iii) trong những trường hợp nhất định, pháp luật kiểm soát hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường viễn thông di động sẽ áp dụng các chế
tài xử phạt nghiêm khắc để loại bỏ những hoạt động sai trái và vi phạm.
Xét về nội dung điều chỉnh, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động điều chỉnh hai
nhóm quan hệ chính:
- Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông
di động trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường.
- Quan hệ giữa cơ quan thi hành Luật cạnh tranh với các chủ thể kinh
doanh trong lĩnh vực viễn thông di động khi họ thực hiện hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường.
Pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông không tồn tại song hành
với sự xuất hiện và phát triển của ngành viễn thông:
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, ngành viễn thông lúc bấy giờ hoàn toàn nằm gọn trong
vỏ bọc của độc quyền nhà nước. Và đương nhiên, cạnh tranh trở thành một
thuật ngữ quá xa lạ trong lĩnh vực này, do đó, chưa xuất hiện nhu cầu cần có
biện pháp để điều tiết nó.
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
17
Từ sau năm 1986, khi đất nước bước vào con đường đổi mới, nền kinh
tế chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó hình thành những điều kiện
kiện để cạnh tranh tồn tại và cần được bảo vệ. Bởi vậy, các quy định của pháp
luật cạnh tranh cũng đã dần được hình thành. Trong lĩnh vực viễn thông, thì
đến những năm 1995, cạnh tranh mới thực sự ra đời. Lúc này, không có
những quy định riêng biệt nào quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn
thông, mà chủ yếu tuân theo những quy định chung trong Hiến pháp 1992, Bộ
luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997.
Ngày 25/02/2002, Pháp lệnh bưu chính viễn thông của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã được thông qua. Trong văn bản pháp luật này, đã có quy định
về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông nhưng vẫn còn sơ sài, chung chung,
và rải rác ở các điều luật. Có thể thấy, trong toàn bộ văn bản này, chỉ có hai
quy định liên quan rõ nhất đến cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông. Đó là
quy định tại điểm i khoản 2 Điều 38: Các doanh nghiệp viễn thông “cạnh
tranh đúng pháp luật trong hoạt động kinh doanh viễn thông” và điểm b
khoản 2 Điều 39 quy định các doanh nghiệp viễn thông có dịch vụ viễn thông
chiếm thị phần khống chế “không được sử dụng các ưu thế của mình để hạn
chế hoặc gây khó khăn cho dịch vụ của các doanh nghiệp viễn thông khác”.
Như vậy, có thể thấy, trong thời gian này, sự cạnh tranh trong viễn thông vẫn
còn giai đoạn nảy mầm, nên pháp luật chưa dành cho nó một sự quan tâm
đúng mức.
Tuy nhiên, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội, luôn vận động không
ngừng, để có thể điều chỉnh kịp thời, pháp luật nước ta cần có sự sửa đổi,
hoàn thiện. Do vậy, Luật cạnh tranh đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6
thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2005. Sự ra đời
của Luật cạnh tranh đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc điều chỉnh hoạt
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
18
động cạnh tranh trên thị trường. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên, điều chỉnh
hoạt động cạnh tranh một cách cụ thể, tập trung và chi tiết nhất, đưa ra những
chế định quan trọng để quản lý những hoạt động cạnh tranh đang ngày một
tinh vi, phức tạp và đa dạng, trong đó bao gồm cả lĩnh vực viễn thông di
động. Và kể từ khi Luật cạnh tranh ra đời, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản để thực thi luật như: Nghị định số
116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày
30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh; Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về
việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Hội đồng cạnh tranh; Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục Quản lý cạnh tranh.
Mặt khác, đến năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua một loạt
các văn bản luật mới cho phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế xã hội cũng
như tiến trình mở cửa và hội nhập của nước ta như Bộ luật dân sự 2005, Luật
thương mại 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật đầu tư 2005. Những văn bản
pháp luật này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do
cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông nói riêng.
Tuy nhiên, dịch vụ viễn thông di động lại là một lĩnh vực đặc thù, có
những khác biệt căn bản so với các lĩnh vực khác, và nó chịu sự điều chỉnh
trực tiếp từ các văn bản luật chuyên ngành thuộc lĩnh vực này. Do đó, Nhà
nước cũng phải có những thay đổi sao cho tương thích giữa luật chung và luật
riêng. Có thể thấy, khi Luật cạnh tranh ra đời và có hiệu lực thì những quy
định về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông của Pháp lệnh bưu chính viễn
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
19
thông năm 2002 trở nên lạc hậu và thiếu hiệu quả. Sau nhiều năm nghiên cứu,
cuối cùng các nhà làm luật cũng đã xây dựng những cơ sở pháp lý mới tạo
hiệu quả cho việc điều tiết cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông thông qua ba
văn bản pháp luật quan trọng, đó là: Luật viễn thông năm 2009; Nghị định số
25/2011/NĐ-CP ngày 06/04/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP
ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện.
Từ những quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động, có thể nhận thấy
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định hành lang pháp lý để kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
trong lĩnh vực viễn thông di động.
Thứ hai, do mức độ phức tạp và nguy hại cho thị trường, pháp luật quy
định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi bị coi là lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.
Thứ ba, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động nhằm mục đích tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, cân bằng lợi ích của các chủ thể trên thị trường và thúc đẩy
sự phát triển của kinh tế xã hội quốc gia.
Thứ tư, trách nhiệm kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm trước hết sẽ
thuộc về các cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh mà không cần thiết
phải có sự tố cáo hay khiếu kiện từ đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng của
doanh nghiệp bị kiểm soát hay từ phía người dân.
Thứ năm, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường trong lĩnh vực viễn thông di động là bước phát triển cao hơn của pháp
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học
20
luật chống hạn chế cạnh tranh và là sự tiếp nối cho pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông di động.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động
Viễn thông là một ngành đặc thù, trong đó, viễn thông di động là một
mảng không thể thiếu trong cuộc sống ngày nay. Lĩnh vực này, nắm giữ
những vai trò to lớn đối với cuộc sống con người, cũng như đối với nền kinh
tế xã hội. Được xem là một trong những ngành gắn liền với văn minh, từ lâu
sự tồn tại cũng như phát triển của dịch vụ viễn thông di động đã trở thành mối
quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, mặc dù dịch vụ viễn thông di động ra đời muộn và phát
triển chậm so với nhiều nước khác, nhưng cho tới nay, nó vẫn luôn được coi
là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế. Điều đáng chú ý là chức năng chính
của viễn thông gắn liền với “thông tin” - cái được khoa học gọi là bề nổi của
cuộc sống. Từ thông tin mới có thể giao tiếp, có thể tiếp thu, thậm chí từ
thông tin mới có thể tồn tại và phát triển. Thực tiễn đã chứng minh, dịch vụ
viễn thông di động có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng các dịch vụ khác, từ
du lịch tới may mặc, hay các dịch vụ đầu tư vào ngân hàng. Ngoài các khía
cạnh thương mại, viễn thông di động còn góp phần làm tăng chất lượng cuộc
sống. Các dịch vụ viễn thông, trong đó có viễn thông di động được ví như cây
cầu nối người này với người khác, quốc gia này với các quốc gia khác. Chỉ
cần một cuộc điện thoại, người ta có thể kết nối được với một đối tác cách xa
tới hàng ngàn, hàng vạn cây số…. Từ đó sự kết nối về văn hóa, kinh tế, chính
trị cũng được củng cố và phát triển. Không chỉ thế, dịch vụ viễn thông di
động còn là một loại hình dịch vụ nhạy cảm, liên quan nhiều đến an ninh
chính trị quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển bền vững thì cũng cần phải
tạo điều kiện để dịch vụ viễn thông di động đi lên từng ngày.
Lương Thị Vân - Luận văn thạc sĩ luật học