BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHẠM THỊ TRÀ
PHÁP LUẬT VỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ DUYÊN THỦY
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Duyên Thủy – Giảng viên môn
Luật Môi trường, trường Đại học Luật Hà Nội.
Những thông tin, số liệu, trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và có nguồn gốc rõ ràng, chính xác.
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn
Học viên
Phạm Thị Trà
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
Chương 1:LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU. ........................................................ 5
1.1.Lý luận về biến đổi khí hậu. ........................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm biến đổi khí hậu ..................................................................... 5
1.1.2. Những dấu hiệu nhận biết về biến đổi khí hậu. ...................................... 6
1.1.3. Một số nguyên nhân làm biến đổi khí hậu .............................................. 7
1.1.4. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ........................................................... 10
1.2. Ứng phó với biến đổi khí hậu .................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm ứng phó với biến đổi khí hậu ............................................... 12
1.2.2.Vai trò của việc ứng phó với biến đổi khí hậu ....................................... 13
1.2.3. Các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu. ....................................... 14
1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu. .......... 15
1.3.1. Khái niệm pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu............................... 15
1.3.2. Nội dung pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu ............................ 17
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU TẠI VIỆT NAM.......................................................................... 25
2.1. Các quy định pháp luật về lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí
hậu vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. ............... 25
2.2. Các quy định pháp luật về hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường gắn
với việc ứng phó với biến đổi khí hậu ............................................................ 28
2.3. Các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên liên quan đến ứng phó với
biến đổi khí hậu. .............................................................................................. 32
2.4. Các quy định của pháp luật về quản lý phát thải khí nhà kính ................ 38
2.5. Các quy định pháp luật về quản lý các chất làm suy giảm tầng ô – dôn. 45
2.6. Các quy định pháp luật về quản lý và phát triển nguồn năng lượng tái tạo,
năng lượng từ chất thải, sản xuất tiêu thụ thân thiện với môi trường ............. 47
2.7. Các quy định pháp luật về quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong ứng
phó với biến đổi khí hậu .................................................................................. 53
2.8. Các quy định pháp luật về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước
trong ứng phó với biến đổi khí hậu. ................................................................ 54
Chương 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI VIỆT NAM. .................. 57
3.1. Các yêu cầu đặt ra với việc hoàn thiện pháp luật về ứng phó với biến đổi
khí hậu tại Việt Nam ....................................................................................... 57
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu. ..... 59
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về lồng ghép nội dung ứng phó với
biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội. ................................................................................................................... 59
3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi
trường gắn với việc ứng phó với biến đổi khí hậu .......................................... 60
3.2.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên liên quan đến
biến đổi khí hậu ............................................................................................... 62
3.2.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý phát thải khí nhà kính . 63
3.2.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý các chất làm suy giảm
tầng ô - dôn ..................................................................................................... 64
3.2.6. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý và phát triển nguồn năng
lượng tái tạo, sản xuất tiêu thụ thân thiện với môi trường, năng lượng từ chất
thải ................................................................................................................... 65
3.3. Các giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật ứng phó với biến
đổi khí hậu ....................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71
Danh mục từ viết tắt
Nội dung
Viết tắt
Biến đổi khí hậu
BĐKH
Bảo vệ môi trường
BVMT
Cơ chế phát triển sạch
CDM
Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu
IPPC
Khí nhà kính
KNK
Nghị định thư Kyoto về cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà
KP
kính
Năng lượng tái tạo
NLTT
Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
UNFCCC
1
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Biến đổi khí hậu là một thực tế đã và đang diễn ra, được dự đoán là có thể biến
động nhanh hơn trong tương lai. Sự phát thải quá nhiều khí nhà kính vào bầu khí
quyển là nguyên nhân chính dẫn đến biến đổi khí hậu. Hệ quả là hiện tượng nóng
lên toàn cầu làm tan băng ở hai cực và các dải băng ở những dãy núi cao đã tồn tại
hàng nghìn năm. Điều này khiến mực nước biển có xu thế tăng cao, cán cân tuần
hoàn nước thay đổi làm đe dọa đến toàn bộ hệ sinh thái, thậm chí là cả sự tồn vong
của loài người.
Việt Nam được đánh giá là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất
của biến đổi khí hậu. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt, triều
cường, những siêu bão với hướng đi khác biệt so với quy luật và sức tàn phá cực
lớn đang có xu hướng gia tăng. Cùng với đó hiện tượng nóng lên toàn cầu ảnh
hưởng đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Những năm gần đây, khái niệm biến đổi khí hậu đã bắt đầu được đề cập đến
trong nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Trung
ương, các bộ ngành và các địa phương. Nhiều văn bản pháp lý quan trọng cũng đã
quy định về vấn đề này. Mới đây nhất Luật Bảo vệ môi trường 2014 cũng dành một
chương để quy định về biến đổi khí hậu. Tuy vậy, cơ sở pháp lý cho các hoạt động
ứng phó với biến đổi khí hậu còn bộc lộ một số bất cập nên hiệu quả đạt được khá
hạn chế. Đây là vấn đề bức xúc cần được nhìn nhận đánh giá một cách khoa học để
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này ở nước ta hiện nay cũng như
trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các quy định
pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu là hết sức cần thiết. Vì vậy, nghiên cứu đề
tài: “Pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam” không chỉ có ý nghĩa
đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật môi trường mà còn có ý nghĩa quan
2
trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu toàn cầu của bảo vệ môi trường, đảm bảo chất
lượng môi trường sống và sự phát triển bền vững đất nước.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các công trình nghiên cứu khoa học ở nước ta liên quan đến pháp
luật về ứng phó với biến đổi khí hậu chưa nhiều. Phần lớn các công trình nghiên
cứu trong lĩnh vực này thời gian qua mới chỉ tập trung nghiên cứu chung về biến
đổi khí hậu và những ảnh hưởng của nó đến các yếu tố môi trường.
Tại Việt Nam, một số cuốn sách và đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu
thành công về biến đổi khí hậu đã được công bố. Đó là: cuốn sách “Biến đổi khí
hậu và tác động ở Việt Nam” của các tác giả Nguyễn Văn Thắng, Trần Thục,
Nguyễn Trọng Hiệu, NXB Khoa học kỹ thuật năm 2010; cuốn “Tác động của biến
đổi khí hậu đến tài nguyên nước Việt Nam” của Trần Thanh Xuân, Trần Thục,
Hoàng Minh Tuyển, NXB Khoa học kỹ thuật năm 2010; cuốn “Hướng dẫn đánh
giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các biện pháp thích ứng” của Viện
Khoa học khí tượng thủy văn và Môi trường, NXB Tài nguyên môi trường và bản
đồ năm 2011; cuốn “Tích hợp vấn đề biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội” của Viện Khoa học khí tượng thủy văn và môi trường, NXB Tài nguyên
môi trường và bản đồ Việt Nam ấn hành năm 2012; Bài viết “Nghiên cứu cập nhật
kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam” của các tác giả Trần
Thục, Nguyễn Văn Thắng, Hoàng Đức Cường, Nguyễn Xuân Hiển đăng trên Tạp
chí Khoa học, Các khoa học trái đất – Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011; Bài viết
“ Tổng quan về biến đổi khí hậu và những thách thức trong phân tích kinh tế về
biến đổi khí hậu ở Việt Nam” của Nguyễn Mậu Dũng đăng trên tạp chí Khoa học và
Phát triển 2010 (Tập 8, số 2), Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội; Đề tài nghiên
cứu khoa học mã số KC08/13-06.10 do tác giả Nguyễn Văn Thắng làm chủ nhiệm
“Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên và đề xuất các giải pháp chiến lược nhằm phòng tránh, giảm nhẹ và
thích nghi phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội ở Việt Nam”…
3
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về lĩnh vực này cũng chủ yếu đề
cập đến những vấn đề chung về biến đổi khí hậu, những ảnh hưởng của nó đến môi
trường tự nhiên và chính sách đảm bảo phát triển bền vững trong điều kiện biến đổi
khí hậu. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh như: ấn phẩm
Vietnam and Climate change: Policy for Sustainable Human Development do Liên
hợp quốc ấn hành năm 2009; ấn phẩm Adapting to Coastal Climate Change: A
guidebook for development planners của USAID (Cơ quan Phát Triển Quốc Tế Hoa
Kỳ) năm 2009.
Như vậy, ở trong và ngoài nước hiện đã có một số công trình nghiên cứu khoa
học đề cập đến chính sách phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Tuy
nhiên, các công trình này chưa nghiên cứu một cách chuyên sâu, hệ thống và toàn
diện về pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu mà chỉ đề cập một hoặc một vài
khía cạnh của vấn đề trong mối liên hệ với nhiều biện pháp khác để đảm bảo phát
triển bền vững.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu, đánh giá việc tiến hành các hoạt động nhằm ứng phó với
biến đổi khí hậu từ khía cạnh pháp luật thực định và thực tiễn pháp lý tại Việt Nam.
Cụ thể hơn, đề tài nghiên cứu về các nội dung: Những vấn đề lý luận về biến đổi khí
hậu, pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu. Các quy định pháp luật về ứng phó với
biến đổi khí hậu và thực tiễn thi hành các quy định đó ở Việt Nam thời gian qua. Các
cơ sở khoa học và thực tế để đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có các
phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học xã hội như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân loại và hệ
thống hóa, phương pháp giả thuyết, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích
số liệu thống kê…; các phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành khoa học pháp
4
lý như: phương pháp phân tích luật. Các phương pháp kể trên được áp dụng một
cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là tìm hiểu một cách có hệ thống và toàn diện về Biến đổi
khí hậu dưới góc độ pháp lý, thực trạng pháp luật về Biến đổi khí hậu. Qua đó, tìm
ra những hạn chế, tồn tại của pháp luật hiện hành về ứng phó với Biến đổi khí hậu
để đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại, giúp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chính sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biến đổi khí hậu, pháp luật ứng phó
với biến đổi khí hậu.
- Tìm hiểu những quy định của pháp luật trong vấn đề ứng phó với biến đổi
khí hậu, đánh giá thực trạng pháp luật trong lĩnh vực này, thực tiễn thi hành pháp
luật và nguyên nhân cụ thể của những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực thi
pháp luật.
- Trên cơ sở của những phân tích về hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế của pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu, đưa ra những kiến nghị
phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận về biến đổi khí hậu và pháp luật về ứng phó với biến đổi
khí hậu
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ứng phó với biến
đổi khí hậu tại Việt Nam
5
Chương 1:
LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁP LUẬT VỀ ỨNG PHÓ
VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU.
1.1.
Lý luận về biến đổi khí hậu.
1.1.1.
Khái niệm biến đổi khí hậu
Hiện nay thuật ngữ biến đổi khí hậu (BĐKH) dường như không còn xa lạ đối
với người dân Việt Nam, trong nhiều trường hợp nó được vận dụng hoặc vô thức
hoặc có chủ ý vào việc giải thích những gì đã, đang và sẽ xảy ra đối với điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường.
Tổ chức Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) trong báo cáo lần thứ tư (AR4)
năm 2007 đã định nghĩa: BĐKH là sự biến đổi trạng thái của hệ thống khí hậu, có
thể được nhận biết qua sự biến đổi về trung bình và sự biến động của các thuộc tính
của nó, được duy trì trong một thời gian đủ dài, điển hình là hàng thập kỉ hoặc dài
hơn (IPCC, 2007).
Nói cách khác, nếu coi trạng thái cân bằng của hệ thống khí hậu là điều kiện
thời tiết trung bình và những biến động của nó trong khoảng vài thập kỷ hoặc dài
hơn, thì BĐKH là sự biến đổi từ trạng thái cân bằng này sang trạng thái cân bằng
khác của hệ thống khí hậu (Phạm Văn Tân và đ.t.g., 2013).
Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) định
nghĩa:
Biến đổi khí hậu nghĩa là biến đổi của khí hậu được quy cho trực tiếp hoặc
gián tiếp do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn
cầu và sự thay đổi này được cộng thêm vào khả năng biến động tự nhiên của khí
hậu quan sát được trong những thời kỳ có thể so sánh được.
Tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng các định nghĩa nêu trên đều có một điểm
chung đó là công nhận rằng biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu theo thời
gian. Điểm khác biệt giữa các định nghĩa trên là:
6
Một là: định nghĩa về BĐKH của IPCC chỉ rõ khoảng thời gian làm căn cứ để
thấy được sự BĐKH trong khi định nghĩa của UNFCCC chỉ nói chung là một
khoảng thời gian có thể so sánh được.
Hai là: định nghĩa của UNFCCC chỉ xét BĐKH trong phạm vi có nguyên nhân
do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu.
Sự khác biệt này trong định nghĩa của UNFCCC không đồng nghĩa với việc
phủ nhận nguyên nhân tự nhiên gây ra BĐKH. Điều này xuất phát từ vai trò của
UNFCCC là Công ước có nội dung quy định về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên về BĐKH. Do đó Công ước chỉ dừng lại ở phạm vi nguyên nhân hoạt
động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển.
1.1.2.
Những dấu hiệu nhận biết về biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu có thể được nhận biết qua sự biến động của các thuộc tính
của nó như nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển…Những dấu hiệu cơ bản để nhận
biết BĐKH có thể kể đến:
Thứ nhất, nhiệt độ trung bình hàng năm tăng
Nhiệt độ trung bình trên bề mặt là thước đo cơ bản nhất đánh giá sự BĐKH.
Nhiệt độ bề mặt trái đất trong thế kỉ XX tăng 0,74oC. Dự báo trong thế kỉ XXI tăng
thêm từ 1,1 – 6,4oC (Lê Thị Hồng Hạnh và đ.t.g., 2014). Đáng lưu ý là, mức tăng
nhiệt độ của Bắc cực gấp đôi mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu. Nhiệt độ cực
trị cũng có xu thế phù hợp với nhiệt độ trung bình, kết quả là giảm số đêm lạnh và
tăng số ngày nóng và biên độ nhiệt độ ngày giảm đi chừng 0,07 độ C mỗi thập kỉ.
Thứ hai, lương mưa trung bình thay đổi
Trên phạm vi toàn cầu, lượng mưa tăng ở các đới phía bắc ( vĩ độ 300 Bắc)
như Trung Bắc Mỹ, Đông Bắc Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á và Trung Á và giảm đi ở vĩ độ
nhiệt đới như Nam Á và Tây Phi. Tần số mưa lớn tăng trên nhiều khu vực, kể cả
những nơi lượng mưa có xu thế giảm (Thanh Hằng, 2014).
Thứ ba, băng vĩnh viễn ở hai đầu cực tan
Các nhà khoa học đến từ Anh, Đức, Mỹ và Nhật Bản đã phân tích dữ liệu từ
hồ sơ hải dương học có niên đại đến 1960 và rút ra kết luận rằng nhiệt độ ở biển
7
Amundsen và biển Bellingshausen phía Tây Nam Cực đã tăng cao trong 50 năm
qua. Cụ thể, tại các vùng biển thềm lục địa nông của Tây Nam Cực nói trên, trong
50 năm qua, mức nhiệt độ đã tăng từ 0,8-1,2 độ C. Ngoài ra, các chỏm băng cao tới
2100 mét nằm ở phía Nam đang tan chảy, khiến nước biển trở nên “nhạt” hơn bởi
theo ước tính, khối lượng băng nơi đây chiếm trữ lượng 70% nước ngọt thế giới nếu
tan chảy hết. Nếu khối băng này tan hoàn toàn, nó có thể tăng mực nước biển toàn
cầu 60 mét. Điều đó có thể sẽ không xảy ra, nhưng việc các núi băng tan chảy
nhanh hơn đang khiến chúng ta phải lo ngại (Lâm Anh, 2014).
Thứ tư, nước biển dâng gây ngập lụt
Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi như
hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn ngập các
đồng bằng thấp ven biển. Từ năm 1961 đến 2003, mực nước biển toàn cầu đã tăng
trung bình 1.8mm/năm. Cho dù tỷ lệ có sự tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1993 đến
năm 2003 phản ánh sự biến thiên trong thời kì 10 năm nhưng chưa thể kết luận tin
chắc rằng mực nước biển đã được quan sát từ thế kỉ 19 đến thế kỉ 20 là có sự gia
tăng, mực nước biển gia tăng trong suốt thế kỉ 20 ước chừng khoảng 0.17m (Bùi
Thu Vân, 2014).
1.1.3.
Một số nguyên nhân làm biến đổi khí hậu
1.1.3.1. Quá trình vận động của tự nhiên
Nguyên nhân tự nhiên gây ra BĐKH bao gồm:
Thứ nhất, thán khí sản sinh ra trong quá trình tiến hóa và phát triển của các
loài sinh vật. Trong quá trình tiến hóa và phát triển, sự thối rữa của xác động vật và
thực vật chết ở tự nhiên cũng như thải ra các thán khí gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng tới sự vận động của các yếu tố khí hậu (Nguyễn Đình Hòe, 2002).
Thứ hai, sự vận động của tự nhiên. Bên cạnh đó với sự vận động của tự nhiên,
các núi lửa hoạt động, dòng nham thạch tràn ra làm tăng nhiệt độ tại một tiểu khu
vực cũng thúc đẩy sự vận động mạnh mẽ của các dòng khí nóng, lạnh và quá trình
hoàn lưu khí quyển, tạo ra sự đột biến trong phạm vi lớn. Sự hoạt động của núi lửa
cũng tạo ra rất nhiều các hoạt chất gây ô nhiễm, như các sol khí (các hạt bụi và các
8
hạt lơ lửng). Những sol khí làm giảm độ trong suốt của khí quyển, đồng thời cũng là
tác nhân gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới thời tiết và khí hậu. Các nhà khoa học đã tính
toán rằng các loại sol khí phát sinh từ núi lửa chiếm khối lượng từ 25 đến 150 triệu
tấn/năm trên toàn thế giới. Các sol khí còn được tạo ra từ bụi rừng, bụi biển, từ đất,
từ hoa thực vật, từ các vi sinh vật và từ các sản phẩm của chính thời tiết. Chỉ tính
riêng nguồn gốc tự nhiên, các loại sol khí đã chiếm một khối lượng khổng lồ, từ
khoảng 7773 đến 2200 tấn sol khí/năm (Nguyễn Đình Hòe, 2002, tr. 146).
Như vậy, chính bản thân thiên nhiên cũng đã và đang góp phần vào quá trình
tạo ra sự BĐKH trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, sự tác
động của thiên nhiên tạo ra sự biến đổi từ từ, chậm chạp. Tự thiên nhiên có thể lấy
lại được thế cân bằng nếu không có sự tác động mạnh mẽ của con người. Điều mà
pháp luật đề cập tới khi muốn hạn chế tác hại của BĐKH chính là những tác động
tiêu cực của con người góp phần nghiêm trọng vào quá trình thay đổi này (Lưu
Ngọc Tố Tâm, 2003).
1.1.3.2. Các hoạt động của con người
Nguyên nhân chính của hiện tượng nóng lên toàn cầu dẫn đến BĐKH là việc
tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà kính do hoạt động của
con người gây ra trong bầu khí quyển trái đất. Các công trình nghiên cứu áp dụng
công nghệ hiện đại cho chúng ta biết suốt thiên nhiên kỷ trước khi có cuộc cách
mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển dao động ở mức 280 phần
triệu (ppm). Tuy nhiên, tính từ đầu thế kỷ XIX đến nay hàm lượng đó đã tăng liên
tục đến 360 ppm. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì ngay cả khi con người
chưa xuất hiện trên trái đất thì khí hậu cũng đã diễn ra những sự biến đổi nhất định.
Tuy nhiên, BĐKH ngày nay con người nhắc đến chính là sự BĐKH bất thường
ngoài chu kì tuần hoàn của tự nhiên có nguyên nhân là các hoạt động của con
người. Trong đó có thể kể đến hoạt động của con người trong một số lĩnh vực như:
Sản xuất và tiêu thụ năng lượng
Chiếm vị trí hàng đầu trong các nguồn gây ô nhiễm môi trường, gây nên
BĐKH. Các nguồn năng lượng được sử dụng chủ yếu hiện nay là dầu mỏ, than đá.
9
Khi sử dụng các nguồn năng lượng này, lượng khí các-bô-níc thải ra rất lớn, mà
các-bô-níc lại là nguyên nhân chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính. Từ năm 1860 đến
năm 1869 sự phát thải CO2 trên toàn cầu từ đốt cháy nguyên liệu là khoảng 118
triệu tấn/năm và 6 tỉ tấn/năm vào cuối những năm 1980, đến giai đoạn hiện nay ước
khoảng 21,3 tỉ tấn/năm (Lưu Ngọc Tố Tâm, 2003).
Giao thông vận tải
Việc sử dụng các phương tiện giao thông vận tải ngày một gia tăng. Trên thế
giới có hàng trăm triệu phương tiện giao thông đang hoạt động. Hầu hết các phương
tiện này đều sử dụng động cơ đốt trong bằng xăng hoặc dầu di-ê-den. Chất thải chủ
yếu vào không khí khi các phương tiện này hoạt động là khí các-bô-níc, các-bonmô-nô-ô-xit…
Nông nghiệp
Nền nông nghiệp hiện đại cũng là một nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. Với
việc sử dụng rộng rãi các loại phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ khối lượng lớn
đã kéo theo sự ô nhiễm đất canh tác, ô nhiễm nguồn nước. Nông nghiệp chiếm trên
20% lượng khí gây hiệu ứng nhà kính do con người trên toàn cầu gây ra. Sự gia
tăng gấp đôi về sản lượng trong vòng 35 năm gần đây đồng nghĩa với việc gia tăng
gấp 6,9 lần lượng phân đạm; 3,5 lần lượng phân lân và 1,7 lần diện tích đất có tưới.
Sinh hoạt
Những hoạt động thường ngày của con người cũng góp một phần không nhỏ
vào quá trình biến đổi khí hậu. Bằng một cách gián tiến hay trực tiếp, con người thải
vào không khí một lượng các khí thải như CO2, SOx, NOx, CFC…tương đối lớn.
Đó là một trong những tác nhân gây nên sự thay đổi của khí hậu.
Sự suy giảm diện tích rừng
Một nguyên nhân nữa của sự biến đổi khí hậu hiện nay đó là sự chặt phá rừng
để khai thác lâm sản, lấy than, làm nương rẫy đang diễn ra rất mạnh. Một hệ sinh
thái rừng trưởng thành chứa một lượng rất lớn các-bon hữu cơ, biểu hiện trong
những sinh vật sống và phần sinh khối chết, trong chất hữu cơ của thảm thực vật và
trong khoáng của đất. Lượng các-bon cố định này lớn hơn rất nhiều các khu rừng trẻ
10
và các hệ sinh thái khác được tạo ra bởi con người. Khi hệ sinh thái rừng trưởng
thành bị mất đi sẽ được thay thế bởi lượng các-bon cố định nhỏ hơn rất nhiều. Kết
quả giải phóng một lượng CO2 rất lớn vào khí quyển.
1.1.4.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
1.1.4.1. Ảnh hưởng tới các yếu tố tự nhiên môi trường
BĐKH ảnh hưởng đến hầu khắp các lĩnh vực, trước hết phải kể đến các yếu tố
tự nhiên môi trường:
Nhiệt độ trung bình năm tăng lên
Sự gia tăng nhiệt độ khí quyển làm cho khí hậu các vùng nước ta nóng lên, kết
hợp với suy giảm lượng mưa làm cho nhiều khu vực khô hạn hơn. Hệ thống sinh
thái cũng tác động tiêu cực; Tại các vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông
Cửu Long, các hệ sinh thái rừng và đất ven biển chịu nhiều thiệt hại.
Hệ sinh thái bị ảnh hưởng tiêu cực
BĐKH sẽ làm dịch chuyển các vùng khí hậu. Các loài sẽ phải phản ứng thích
nghi với các điều kiện khí hậu mới. Trước hết do trái đất nóng lên, các ranh giới
nhiệt của hệ sinh thái lục địa và nước ngọt sẽ dịch chuyển về phía cực, đồng thời
cũng dịch chuyển lên cao hơn, khi ấy các loài thực vật, động vật nhiệt đới có thể
phát triển ở các vĩ độ cao hơn hoặc trên những vùng núi và cao nguyên cao hơn
trước. Trái lại, các loài ưa lạnh bị thu hẹp lại, hoặc phải di cư đi nơi khác. Một số
loài thích ứng tốt hơn với BĐKH trong khi một số khác không thích ứng nổi sẽ bị
suy thoái dần.
Diện tích đất bị thu hẹp
Theo tính toán của Ngân hàng thế giới,Việt Nam là nước đứng thứ 2 trong 5
quốc gia (Ai Cập,Việt Nam, Băng-la-đét, Su-ri-nam và Ba-Ha-Mát) chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất do BĐKH. Báo cáo về phát triển con người 2007-2008 của Chương
trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho biết, nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm 2oC
và nước biển dâng lên 1m thì 22 triệu người Việt Nam sẽ mất nhà cửa; và 70% đến
90% diện tích đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập chìm
trong nước biển. Trường hợp xấu nhất xảy ra khi nước biển dâng cao 5m từ 2050
11
đến 2080 thì toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất trên bản đồ thế giới (Chu
Thị Trinh, 2009).
1.1.4.2. Ảnh hưởng tới phát triển kinh tế
Kinh tế cũng là một trong các lĩnh vực chịu tác động rất lớn của BĐKH, các
tác động chủ yếu có thể kể đến:
Ảnh hưởng nghiêm trọng đến nông, lâm nghiệp
Nông nghiệp là đối tượng chịu tác động trực tiếp của khí hậu, mà quan trọng
nhất là bức xạ mặt trời. Thông qua quá trình quang hợp thì năng suất của cây trồng
là một hàm đồng biến với bức xạ mặt trời. Trái đất nóng dần lên dẫn đến thay đổi
cấu trúc mùa màng như rút ngắn mùa lạnh, kéo dài hay rút ngắn mùa mưa. Tất cả
các yếu tố này sẽ tác động đến thời vụ, sâu bệnh, năng suất, sản lượng.
Hàng triệu hét - ta đất trống, đồi trọc mất rừng lâu năm, đất mặn bị biến đổi
cấu tạo, trở nên dễ bị xói lở, rửa trôi mạnh, tích tụ sắt nhôm gây nên hiện tượng kết
vón và đá ong hóa, đất loại này hoàn toàn mất sức sản xuất nông, lâm nghiệp. Chỉ
tính riêng đợt kéo dài 33 ngày đầu năm 2008 tại Việt Nam, theo số liệu thống kê
của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã có 33.000 con trâu, bò; 34.000 ha
lúa đã cấy, hàng chục ngàn ha mạ non, nhiều đầm nuôi tôm ở tất cả các tỉnh phía
Bắc và Bắc Trung Bộ đã chết và ước tính thiệt hại lên tới hàng ngàn tỷ đồng (Trần
Thanh Lâm, 2010).
Chi phí để áp dụng các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Việc bỏ tiền ra chi phí cho việc khôi phục thiệt hại sau những thiên tai đã làm
thâm hụt vào ngân sách các quốc gia. Theo Nicolas Stem – nguyên chuyên gia kinh
tế hàng đầu của Ngân hàng Thế giới, thì trong vòng 10 năm tới, chi phí thiệt hại do
BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước tính khoảng 7.000 tỉ USD; nếu chúng ta không
làm gì để ứng phó thì thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5 – 20% tổng sản phẩm
nội địa (GDP), còn nếu chúng ta có những ứng phó tích cực để ổn định khí nhà kính
(KNK) ở mức 550 ppm tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1% GDP (Trần
Thanh Lâm, 2010).
1.1.4.3. Ảnh hưởng tới đời sống xã hội
12
Những ảnh hưởng của BĐKH đến đời sống xã hội có thể kể đến như:
Ảnh hưởng đến sức khỏe con người:
Nguy cơ về sức khỏe ngày một tăng: Biến đổi khí hậu sẽ làm ảnh hưởng đến
sức khỏe của con người theo nhiều cấp khác nhau. Ở cấp độ toàn cầu, sẽ có thêm
các nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Tỉ lệ mắc bệnh sốt rét ở Châu Phi cận Sahara, nơi
chiếm khoảng 90% ca tử vong, được dự kiến sẽ tăng thêm 16 – 28% (Chu Thị Trinh
2009). Tác động này diễn ra khá phức tạp, mang tính tổng hợp của nhiều yếu tố. Có
những tác động trực tiếp thông qua các quá trình trao đổi trực tiếp giữa môi trường
xung quanh với cơ thể, có những tác động gián tiếp thông qua các yếu tố khác như
thực phẩm, nhà ở, các côn trùng, vật chủ mang mầm bệnh….
Giao thông vận tải, thông tin liên lạc
Về giao thông vận tải, thông tin liên lạc bị gián đoạn, các cơ sở hạ tầng, mạng
thông tin bị hư hại nghiêm trọng sau những trận thiên tai. Các ngành công nghiệp,
thương mại, du lịch, dịch vụ…đều chịu tác động tiêu cực từ hiện tượng BĐKH gây
ra. Việc củng cố, khắc phục sau các sự cố do BĐKH gây ra hết sức khó khăn, tốn
kém nhiều thời gian và kinh phí.
1.2.
Ứng phó với biến đổi khí hậu
1.2.1.
Khái niệm ứng phó với biến đổi khí hậu
Theo từ điển Tiếng Việt, khái niệm ứng phó được hiểu là những biện pháp,
cách thức dùng để đối phó với những điều kiện, hoàn cảnh mới không phù hợp (Từ
điển Tiếng Việt, 2006).
Trong khoa học môi trường, các nhà khoa học đã định nghĩa cụ thể hơn về ứng
phó với BĐKH khí hậu:
Ứng phó với BĐKH (Response/Coping) là các hoạt động của con người nhằm
thích ứng và giảm nhẹ các tác nhân gây ra BĐKH.
Thích ứng với BĐKH (Adaptation) là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc
con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả
năng bị tổn thương do BĐKH và tận dụng các cơ hội do nó mang lại.
13
Giảm nhẹ biến đổi khí hậu (Mitigation) là các hoạt động nhằm giảm mức độ
hoặc cường độ phát thải khí nhà kính (Trần Thục và đ.t.g., 2012).
Luật số 55/2014/QH13 Luật Bảo vệ môi trường của Quốc hội ban hành ngày
23 tháng 06 năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật BVMT 2014) cũng đưa ra định
nghĩa:
Ứng phó với biến đổi khí hậu là các hoạt động của con người nhằm thích ứng
và giảm thiểu biến đổi khí hậu (khoản 26 điều 3 Luật BVMT 2014).
Như vậy, ứng phó với biến đổi khí hậu là một quá trình trong đó con người
làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khỏe, đời sống và tận dụng
những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại. Đó là quá trình con người
điều chỉnh thụ động hoặc phản ứng tích cực hoặc có phòng bị trước được đưa ra với
nghĩa làm giảm thiểu và cải thiện những hậu quả có hại do BĐKH gây ra. Thích
ứng còn có nghĩa là tất cả những phản ứng đối với BĐKH nhằm làm giảm tính dễ bị
tổn thương. Con người không thể tồn tại một cách đơn giản như trước khi có BĐKH
nhưng con người hoàn toàn có thể thay đổi các hành vi của mình để thích ứng và
giảm thiểu các rủi ro từ những thay đổi đó (Trần Thục và đ.t.g., 2010) .
1.2.2.
Vai trò của việc ứng phó với biến đổi khí hậu
Thứ nhất, ứng phó với BĐKH là cách tốt nhất để giảm nhẹ tác động tiêu cực
của BĐKH đồng thời giữ được thế chủ động. Ứng phó với BĐKH giúp chúng ta
chủ động hơn trong việc đối mặt với các tác động của nó. Việc chủ động hơn trong
việc ứng phó với tác động của khí hậu, hạn chế sự ảnh hưởng về sức khỏe cũng như
kinh tế mà sự thay đổi của môi trường, khí hậu đem lại. Con người mạnh khỏe hơn,
yên tâm hơn trong sản xuất, mang lại năng suất cao hơn.
Thứ hai, các hoạt động ứng phó với BĐKH sẽ tạo ra nhiều cơ hội để phát triển
kinh tế. Hành động ứng phó với BĐKH cũng sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh đáng
kể vì có những thị trường mới được tạo ra cho các công nghệ tiết kiệm năng lượng,
hàng hóa và dịch vụ với công nghệ sản xuất thải ít khí CO2 ra môi trường, sự phát
triển của thị trường tín chỉ các-bon.... Những thị trường này có thể phát triển với
mức giá trị hàng trăm tỷ đô la/năm và cơ hội việc làm từ đó mở rộng tương ứng.
14
Vấn đề còn lại chỉ là việc tận dụng cơ hội này như thế nào ở mỗi nước nhất là ở các
nước đang phát triển.
Thứ ba, các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu góp phần tăng cường quan
hệ hợp tác của các quốc gia trên toàn thế giới. Như đã phân tích ở trên, vấn đề
BĐKH là vấn đề toàn cầu, thế nên không thể giải quyết một cách triệt để nếu không
có sự liên kết, hợp tác của các quốc gia trên toàn thế giới. Chính trong quá trình hợp
tác để ứng phó với BĐKH, không những các quốc gia giải quyết được vấn đề
BĐKH mà thông qua đó quan hệ của các nước cũng được cải thiện, tăng cường sự
đoàn kết trong cộng đồng quốc tế.
1.2.3.
Các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trước tình hình BĐKH diễn biến ngày một nhanh, tác động đến hầu hết các
lĩnh vực, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp để ứng phó một cách tích
cực. Các biện pháp để ứng phó với BĐKH có thể kể đến:
Biện pháp kinh tế: Biện pháp kinh tế được sử dụng khá hiện quả trong hoạt
động bảo vệ môi trường. Sử dụng biện pháp kinh tế là sử dụng đến những đòn bẩy
lợi ích kinh tế. Thực chất của phương pháp này đối với hoạt động ứng phó với
BĐKH đó là việc dùng những lợi ích vật chất để kích thích chủ thể thực hiện những
hoạt động nhằm thích nghi và giảm nhẹ BĐKH. Có thể kể đến một số biện pháp: áp
dụng ưu đãi thuế để khuyến khích các doanh nghiệp có biện pháp tiết kiệm năng
lượng, sử dụng năng lượng nhiên liệu sinh học, năng lượng gió, năng lượng mặt trời
vào thay thế các nhiên liệu hóa thạch như: than đá, dầu lửa. Áp dụng thuế suất cao
đối với các sản phẩm sản xuất bằng nhiên liệu hóa thạch… Các biện pháp về kinh tế
rất phong phú đa dạng nhưng về cơ bản áp dụng chúng thường mang lại hiệu quả
cao hơn các biện pháp khác.
Biện pháp khoa học kỹ thuật: Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong
công tác dự báo, thông tin thời tiết. Phát triển khoa học công nghệ, áp dụng công
nghệ tiên tiến cũng có thể giảm lượng thải KNK. Để các chỉ tiêu giảm thải đi vào
thực tế mà không quá ảnh hưởng đến nền kinh tế thì vai trò của của công nghệ là rất
lớn. Nếu như công nghệ lạc hậu thì việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch không được
15
triệt để mà phát thải rất lớn gây tốn nhiên liệu và ô nhiễm môi trường. Muốn ứng
dụng các dạng năng lượng khác như năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt,
năng lượng gió, năng lượng sóng cũng cần phải có kỹ thuật tiên tiến.
Biện pháp giáo dục: Vai trò của giáo dục là đặc biệt quan trọng, khi con người
ta vì sự thiếu hiểu biết mà thực hiện các hành động gây tác động xấu đến môi
trường, thì việc thức tỉnh họ cần thực hiện trước tiên. Khi con người đã có ý thức tự
giác thì các hoạt động ứng phó với BĐKH sẽ dễ dàng được thực hiện hiệu quả. Các
phương tiện truyền thông, thông tin có vai trò hết sức quan trọng, họ đóng vai trò
truyền tải thông tin đến với người dân, không chỉ những thông tin về cảnh báo thiên
tai mà còn là những thông tin về BĐKH, từ đó giúp người dân nâng cao nhận thức
và thay đổi hành vi. Thực tế, những lỗ hổng tri thức để thích ứng với BĐKH còn rất
lớn. Do vậy, giáo dục bậc cao ở các nước đang phát triển đóng một vai trò quan
trọng. Việc này có thể làm tốt thông qua hợp tác chặt chẽ giữa các trường đại học,
viện nghiên cứu trên thế giới; tiến hành những nghiên cứu liên ngành hay các
chương trình trao đổi sinh viên và chuyên gia.
Biện pháp pháp lý: Để thích nghi và ứng phó với BĐKH có nhiều biện pháp
được đưa ra nhưng trong số đó biện pháp pháp lý đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Đó là nhưng những chính sách, luật ghi nhận những biện pháp thích hợp để thích
ứng với BĐKH. Các văn bản này đưa ra các quy định về quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến ứng phó với BĐKH. Các quy định
này điều chỉnh hành vi của các cá nhân, cơ quan, tổ chức theo hướng hoặc là cấm
các hành vi tiêu cực gây tác động xấu đến BĐKH hoặc là khuyến khích các hành vi
tích cực để ứng phó với BĐKH.
1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu.
1.3.1. Khái niệm pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu
Hiện nay, chưa có định nghĩa cụ thể về pháp luật về ứng phó với BĐKH. Để
định nghĩa pháp luật ứng phó với BĐKH, cần xác định phạm vi của nó gắn liền với
khái niệm ứng phó với BĐKH như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên nội hàm của khái
niệm này khá rộng nên việc đưa ra định nghĩa không hề đơn giản.
16
Để định nghĩa được pháp luật ứng phó với BĐKH cần xác định được vấn đề
mà nó điều chỉnh. Một số nhà Luật học người Mỹ đưa ra quan điểm: các giải pháp
cho việc giải quyết biến đổi khí hậu rơi vào một trong bốn nhóm. Đầu tiên là kiểm
soát lượng khí thải, cụ thể là việc cắt giảm trực tiếp khí thải nhà kính. Thứ hai là sử
dụng năng lượng hiệu quả và bền vững, qua đó gián tiếp làm giảm phát thải khí nhà
kính từ nhiên liệu hóa thạch vì nó làm giảm lượng năng lượng được sử dụng. Thứ
ba, là lưu trữ các-bon dài hạn hoặc lưu giữ các-bon (lưu giữ nhân tạo trong đất hoặc
địa điểm khác để nó không còn trong khí quyển và không thể quay trở lại khí
quyển; lưu trữ một cách tự nhiên thông qua hệ thực vật). Cuối cùng là sự thích nghi.
Các đối tượng của sự thích nghi là dự báo và giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của
BĐKH (Dernbach và đ.t.g., 2008). Pháp luật về ứng phó với BĐKH ở Việt Nam
cũng phải giải quyết những vấn đề tường tự dù cách gọi, cách tiếp cận có khác
nhau.
Xuất phát từ những phân tích về phạm vi của pháp luật ứng phó với BĐKH,
có thể đưa ra định nghĩa sau về pháp luật ứng phó với BĐKH: Pháp luật ứng phó
với biến đổi khí hậu là lĩnh vực pháp luật gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động giảm
phát thải các chất gây biến đổi khí hậu và thích nghi với các điều kiện mới do biến
đổi khí hậu gây ra nhằm thực hiện mục tiêu ứng phó một cách có hiệu quả với tình
trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra.
Từ định nghĩa trên có thể thấy, các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật ứng phó với BĐKH cần được gắn với mục tiêu ứng phó có hiệu quả
với tình trạng BĐKH. Các quan hệ xã hội mà các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
này điều chỉnh có thể phân loại theo các nhóm sau:
- Các quan hệ giữa một bên là cá nhân, tổ chức với một bên là nhà nước phát
sinh trong hoạt động quản lý nhà nước về ứng phó với BĐKH. Các quan hệ này
chứa đựng những yếu tố của quan hệ pháp luật hành chính. Ví dụ:
+ Quan hệ phát sinh từ hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường.
17
+ Quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật về ứng
phó với BĐKH.
- Các quan hệ phát sinh giữa các cá nhân tổ chức với nhau do thỏa thuận ý chí
của các bên. Đặc trưng của mối quan hệ này là sự thỏa thuận, sự bình đẳng trong
khuôn khổ pháp luật. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ này không phải thông qua
chế tài, hình phạt mà dùng các lợi ích kinh tế để điều chỉnh hành vi của các chủ thể.
Ví dụ:
+ Quan hệ hợp tác đầu tư sản xuất năng lượng tái tạo
+ Quan hệ mua bán tín chỉ các-bon
1.3.2. Nội dung pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu
Pháp luật về ứng phó với BĐKH gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thích nghi và giảm thiểu BĐKH, để đạt
được mục đích này phạm vi điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực này rất rộng
lớn, tuy nhiên nội dung hướng đến cơ bản gồm:
* Các quy định pháp luật về lồng ghép nội dung ứng phó BĐKH vào chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Lồng ghép (tích hợp) vấn đề BĐKH vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội (sau đây gọi tắt là kế hoạch phát triển) là một phương pháp tiếp
cận nhằm đạt được các chính sách liên quan đến BĐKH và biện pháp này trong các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các cấp nhằm đảm bảo ổn định trong các hoạt
động đầu tư và giảm tính dễ bị tổn thương của các lĩnh vực kinh tế - xã hội do tác
động của BĐKH. Tích hợp vấn đề BĐKH do đó có thể đảm bảo rằng các chương
trình phát triển chính sách không làm tăng rủi ro trước những thay đổi về khí hậu ở
hiện tại và tương lai (Trần Thục và đ.t.g., 2012).
Việc lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH và chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội là rất cần thiết vì một số lý do sau:
Một là, các chính sách BĐKH truyền thống thường gắn các biện pháp giảm
nhẹ BĐKH với lĩnh vực năng lượng do lĩnh vực này phát thải ra nhiều KNK. Các
biện pháp thích ứng truyền thống thường dựa vào công trình như hệ thống đập, hệ
18
thống cảnh báo, hệ thống tưới tiêu (Klein và đ.t.g., 2007). Chỉ các chính sách truyền
thống đơn thuần như trên thì sẽ không thể giải quyết được vấn đề BĐKH, vì vậy
cần thực hiện các biện pháp giảm nhẹ và thích ứng như là một phần của các chính
sách phát triển (Aerts và đ.t.g, 2004).
Hai là, Việt Nam đang dần trở thành một xã hội tiêu dùng cao do dân số đông
và tốc độ phát triển kinh tế nhanh (United Nation, 2009). Việc giảm nhẹ phát thải
KNK yêu cầu sự thay đổi đáng kể trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, vì vậy các
vấn đề BĐKH nên được tích hợp vào chính sách quản lý phát triển kinh tế - xã hội
đã hoặc sắp ban hành.
Ba là, lồng ghép vấn đề BĐKH vào các kế hoạch phát triển cấp quốc gia,
ngành và tỉnh/thành phố đóng một vai trò quan trọng, mang đến nhiều lợi ích như:
giúp việc thích ứng với BĐKH được hiệu quả hơn và giảm được các chi phí, thiệt
hại trong tương lai do BĐKH gây ra; tạo cơ hội cho sự phát triển các lĩnh vực mới
(ví dụ năng lượng tái tạo) và thay đổi công nghệ sản xuất theo hướng xanh, thân
thiện với khí hậu, góp phần giảm nhẹ BĐKH đồng thời đảm bảo mục tiêu phát triển
kinh tế; góp phần tăng thêm nguồn lực tài chính và nhân lực cho hoạt động ứng phó
với BĐKH, từ đó xây dựng được một xã hội có khả năng chống chịu được với
BĐKH (Trần Thục và đ.t.g., 2012).
* Các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường gắn với ứng phó
với BĐKH.
Trong việc thực hiện các quy định của pháp luật nhằm hạn chế sự phát thải
KNK, hạn chế BĐKH, hệ thống quy chuẩn kỹ thuật (QCKT) môi trường đóng vai
trò rất quan trọng. Trên cơ sở của hệ thống QCKT môi trường, các cơ quan hữu
quan xác định được một cách chính xác mức độ xả thải cũng như chất lượng môi
trường, biết được một cách cụ thể hàm lượng chất có hại cho bầu khí quyền cũng
như nguy cơ gây BĐKH đang tăng hay giảm và ở mức độ nào, từ đó xác định các
biện pháp điều tiết thích hợp (Chu Thị Trinh, 2009). Việc có một hệ thống QCKT
môi trường cùng với các quy định về bảo vệ môi trường phù hợp đã khuyến khích
được các cơ sở sản xuất tái chế, tái sử dụng chất thải, giảm thiểu phát thải ô nhiễm
19
ra môi trường cũng là góp phần giảm nhẹ BĐKH (Nguyễn Thị Huyền Thương,
2012).
* Các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên gắn với mục tiêu ứng phó với
BĐKH.
Rất nhiều quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên cũng là nội dung của
pháp luật về ứng phó với BĐKH vì bảo vệ tài nguyên và ứng phó với BĐKH là
những hoạt động có mối liên hệ mật thiết và có sự tác động qua lại lẫn nhau, cụ thể:
Một là, BĐKH đang tác động đến tất cả các nguồn tài nguyên nên cần có
chính sách thích hợp trong điều kiện mới. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới
(năm 2007), Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của
BĐKH và nước biển dâng. Nếu như nước biển dâng lên 1m thì ở Việt Nam sẽ có tác
động tiêu cực đối với đất đai, con người và nền kinh tế theo quy mô: 5 – 7% đất bị
ngập; 11% tổng dân số bị ảnh hưởng; sụt giảm 7% giá trị sản xuất nông nghiệp và
sụt giảm 10% GDP quốc gia (Trần Thanh Lâm, 2009). BĐKH sẽ tác động đến
nhiều nguồn tài nguyên. Đối với tài nguyên đất, các thay đổi về khí hậu như thay
đổi lượng mưa, nhiệt độ tăng sẽ làm cho lượng dinh dưỡng trong đất bị mất cao, xói
mòn khô hạn nhiều hơn. Đồng thời nước biển dâng cũng làm giảm diện tích đất.
Đối với tài nguyên rừng, BĐKH làm nước biển dâng cao thu hẹp diện tích đất liền
sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng và phát tán rừng. Trong điều kiện tất cả các nguồn
tài nguyên kể trên đều chịu sự tác động lớn của BĐKH đòi hỏi cần có những chính
sách pháp luật phù hợp trong tình hình mới.
Hai là, bảo vệ tài nguyên giúp giảm nhẹ và thích ứng tốt với BĐKH, cụ thể:
Bảo vệ tốt tài nguyên rừng sẽ là một bể chứa khổng lồ hấp thụ các-bon giảm đáng
kể KNK trong khí quyển, đồng thời các hệ sinh thái ven biển sẽ hạn chế các hiện
tượng như sạt lở, nhiễm mặn đất; rừng cũng chống xói mòn, rửa trôi. Theo tính
toán: toàn bộ hệ thống rừng trên thế giới đang dự trữ khoảng 283 Gt (tỷ tấn) các bon, tổng lượng các-bon hấp thụ trên bề mặt trái đất khoảng 2,4 Gt/năm, phần lớn
trong số đó hấp thụ bởi rừng (Vũ Thị Hiền và đ.t.g, 2010). Bảo vệ tốt tài nguyên
không khí sẽ góp phần giảm lượng KNK gia tăng trong khí quyển – nguyên nhân
20
chính của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Một quy hoạch, kế hoạch tốt trong quá
trình sử dụng tài nguyên đất sẽ góp phần giảm suy thoái đất, hạn chế những tác
động tiêu cực của đô thị hóa, công nghiệp hóa, nền nông nghiệp hiện đại đến
BĐKH.
Như vậy xét trong mối quan hệ hai chiều giữa BĐKH và bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên thì hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết. BĐKH đang diễn biến hết
sức phức tạp ảnh hưởng một cách trực tiếp đến các nguồn tài nguyên. Do đó cần
đưa ra các chính sách pháp luật thích hợp để bảo vệ các nguồn tài nguyên này trong
tình hình mới. Mặt khác, bảo vệ tốt các nguồn tài nguyên cũng góp phần vào việc
giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH.
* Các quy định pháp luật về quản lý phát thải khí nhà kính.
Khí nhà kính là những khí có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (hồng
ngoại) được phản xạ từ bề mặt Trái Đất khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời,
sau đó phân tán nhiệt lại cho Trái Đất, gây nên hiệu ứng nhà kính (Karl và đ.t.g.,
2003). Khí nhà kính ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiệt độ của Trái Đất, nếu không có
chúng nhiệt độ bề mặt Trái Đất trung bình sẽ lạnh hơn hiện tại khoảng 33 °C
(59 °F) (Le Treut và đ.t.g., 2007). Các khí nhà kính chủ yếu bao gồm: hơi
nước, CO2, CH4, N2O, O3. Điều đáng quan ngại là các hoạt động của con người
càng ngày càng làm tăng mức độ tích tụ khí CO2 trong bầu khí quyển. Mặc dù Nghị
định thư Kyoto đã đưa ra con số yêu cầu cắt giảm, nhưng phát thải khí CO2 vẫn liên
tục tăng. Theo cơ quan Năng lượng quốc tế, từ nay đến năm 2050, phát thải khí
CO2 sẽ còn tăng 130%. Với mục tiêu đề ra cho thế giới cắt giảm 50% phát thải
dioxit các bon thì lượng khí gây hiệu ứng phát thải vào bầu khí quyển vẫn còn rất
cao.
Đánh giá khoa học của IPCC cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng đốt nhiên liệu
trong các ngành năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng góp 46%, phá rừng 18%,
nông nghệp 9%, sản xuất hóa chất (CFC,HCFC) 24%, 3% hoạt động khác. Việc gia
tăng quá mức KNK trong khí quyển trong vài thập kỷ trở lại đây là nguyên nhân