BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN PHAN DIỆU LINH
SỰ GIAO THOA GIỮA CƠ CHẾ BẢO HỘ TÁC
PHẨM MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VỚI BẢO HỘ KIỂU
DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ NHÃN HIỆU
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Vũ Thị Hải Yến
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Phan Diệu Linh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Cô giáo TS. Vũ Thị Hải Yến - GVC
Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã hết lòng dạy bảo, giúp đỡ, hướng dẫn
tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy Cô giáo giảng dạy,
Khoa Sau đại học đã dạy bảo, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các Thầy Cô, các
Anh các Chị trong thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi về nguồn học liệu trong suốt quá trình làm luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên, ủng hộ,
giúp đỡ về mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn này.
Học viên
Nguyễn Phan Diệu Linh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. Công ước Berne
Công ước Berne về việc bảo hộ các tác
phẩm văn học nghệ thuật
2. Công ước Paris
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp
3. Hiệp định TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
4. Nghị định 100/2006/NĐ-CP
Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày
21/9/2006 của Chính Phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ
về quyền tác giả và quyền liên quan
5. Thỏa ước Lahay
Thoả ước Lahay về đăng ký quốc tế kiểu
dáng công nghiệp
6. Thỏa ước Madrid
Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế
nhãn hiệu hàng hóa
7. Thông tư 01/2007/TT-BKHCN
Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày
14/02/2007 của Bộ Khoa học và công
nghệ hướng dẫn thi hành Nghị định
103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp
8. WIPO
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ GIAO THOA GIỮA CƠ CHẾ BẢO HỘ
TÁC PHẨM MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VỚI BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG
NGHIỆP VÀ NHÃN HIỆU ...................................................................................8
1.1. Tổng quan về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công
nghiệp và nhãn hiệu ...........................................................................................8
1.1.1. Khái quát về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng................................8
1.1.1.1. Khái niệm tác phẩm mỹ thuật ứng dụng ............................................8
1.1.1.2. Cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng....................................12
1.1.2. Khái quát về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu .................14
1.1.2.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu...............................14
1.1.2.2. Cơ chế bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ........................17
1.1.3. So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với cơ chế bảo hộ
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu.................................................................20
1.2. Khái quát về sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu....................................23
1.2.1. Các trường hợp giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ..................................23
1.2.2. Nguyên nhân của tình trạng giao thoa giữa cơ chế bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ......................................................................................................26
1.2.3. Hệ quả của tình trạng giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu...........................27
CHƯƠNG 2: GIAO THOA TRONG BẢO HỘ TÁC PHẨM MỸ THUẬT
ỨNG DỤNG, KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP, NHÃN HIỆU – QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG HỆ QUẢ PHÁP LÝ ......................................30
2.1 Quy định của pháp luật quốc tế về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng,
kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ...............................................................30
2.1.1. Quy định về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công
nghiệp và nhãn hiệu trong các Điều ước quốc tế ..........................................30
2.1.1.1. Quy định về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng trong một số Điều ước
quốc tế ....................................................................................................................30
2.1.1.2. Quy định về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp trong một số Điều ước
quốc tế .......................................................................................................31
2.1.1.3. Quy định về bảo hộ nhãn hiệu trong một số Điều ước quốc tế.................32
2.1.2. Quy định về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng, kiểu dáng công nghiệp và
nhãn hiệu trong pháp luật một số quốc gia ...................................................35
2.1.2.1. Bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công nghiệp và nhãn
hiệu theo pháp luật Hoa Kỳ .........................................................................35
2.1.2.2. Bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công nghiệp và nhãn
hiệu theo pháp luật Trung Quốc ..................................................................37
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu .....................................................40
2.2.1. Quy định về điều kiện bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng
công nghiệp và nhãn hiệu..............................................................................40
2.2.2. Quy định về căn cứ xác lập quyền........................................................49
2.2.3. Quy định về thời hạn bảo hộ ................................................................50
2.3. Hệ quả pháp lý của tình trạng bảo hộ giao thoa giữa tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ............................52
2.3.1. Hệ quả trong việc đăng ký, xác lập quyền............................................52
2.3.2. Hệ quả trong việc thực thi (giải quyết tranh chấp, xử lý xâm phạm) ..62
2.3.3. Hệ quả trong việc thương mại hóa.......................................................69
CHƯƠNG 3: GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG GIAO THOA GIỮA CƠ CHẾ
BẢO HỘ TÁC PHẨM MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VỚI BẢO HỘ KIỂU DÁNG
CÔNG NGHIỆP VÀ NHÃN HIỆU – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM .....................................................................71
3.1. Kinh nghiệm quốc tế trong giải quyết tình trạng giao thoa giữa cơ chế bảo hộ
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu...71
3.2. Đề xuất giải quyết tình trạng giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ở Việt Nam ................75
KẾT LUẬN..........................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sở hữu trí tuệ (Interlectual property) hay tài sản trí tuệ là sản phẩm của quá
trình sáng tạo của con người được thể hiện dưới hai dạng chủ yếu là quyền tác giả
(đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học) và quyền sở hữu công nghiệp
(quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu,…). Đây là loại tài sản
phi vật chất nhưng có giá trị kinh tế - tinh thần vô cùng to lớn, góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, khoa học kĩ thuật của quốc gia
và nền văn minh nhân loại.
Quyền tác giả bảo hộ các tác phẩm văn học – nghệ thuật – khoa học, những
đối tượng được áp dụng chủ yếu trong đời sống tinh thần. Sự bảo hộ pháp lý đối với
quyền tác giả là việc ngăn cấm người khác sử dụng trái phép đối với sự thể hiện ý
tưởng. Chính bởi vậy, các tác phẩm văn học – nghệ thuật – khoa học luôn phải đáp
ứng điều kiện về tính sáng tạo. Trong khi đó, quyền sở hữu công nghiệp liên quan
đến những sáng tạo dưới dạng sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý – những đối tượng
được áp dụng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, hiện nay, các hệ thống pháp lý quốc tế và quốc gia đang chứng
kiến sự mở rộng của các quyền sở hữu trí tuệ, theo đó, một đối tượng sáng tạo có
thể cùng một lúc được bảo hộ theo cả cơ chế quyền tác giả và bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp. Mặc dù quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp là hai bộ phận độc
lập của quyền sở hữu trí tuệ nhưng theo lý thuyết cũng như dựa trên tình hình thực
tế, một đối tượng có thể cùng một lúc vừa đáp ứng được điều kiện bảo hộ theo cơ
chế bảo hộ quyền tác giả lẫn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Cụ thể, một tác
phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ quyền tác giả, có thể đồng thời là kiểu dáng
sản phẩm đáp ứng được điều kiện bảo hộ là kiểu dáng công nghiệp và có thể đồng
thời được bảo hộ là nhãn hiệu nếu như đáp ứng khả năng phân biệt với sản phẩm
khác. Xảy ra vấn đề như vậy là do có sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ quyền tác giả
với cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cụ thể hơn đó chính là có sự giao thoa
2
giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với cơ chế bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp và nhãn hiệu.
Việc một đối tượng sáng tạo có thể được bảo hộ theo nhiều cơ chế khác nhau
làm tăng cơ hội mở rộng phạm vi và kéo dài thời hạn bảo hộ cho chủ sở hữu quyền
sở hữu trí tuệ. Nhưng ngược lại, nó lại gây ra hiện tượng giao thoa, chồng lấn quyền,
gây ra những tranh chấp khó giải quyết. Thực tế, hiện tượng này dẫn đến khó khăn
cho các cơ quan chức năng trong việc phân định và phân biệt ranh giới của các
quyền sở hữu trí tuệ trong công tác đăng kí, thực thi và khai thác quyền sở hữu trí
tuệ.
Vấn đề giao thoa trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, giao thoa
trong việc bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với kiểu dáng công nghiệp và nhãn
hiệu nói riêng đang là một vấn đề mới mẻ và chưa được nhận thức đầy đủ không chỉ
đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam mà ngay cả đối với các quốc gia
phát triển và có một hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ tiên tiến trên thế giới.
Việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn về hiện tượng giao thoa
trong việc bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với kiểu dáng công nghiệp và nhãn
hiệu nhằm tìm ra những nguyên nhân, để từ đó đề xuất các giải pháp xử lý là một
vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn không chỉ với các cơ quan quản lý và thực
thi quyền sở hữu trí tuệ mà còn có giá trị đối với những người làm công tác nghiên
cứu và thực tiễn trong lĩnh vực này.
Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu một cách quy mô và có hệ thống các quy
định của pháp luật Việt Nam cũng như tham khảo thêm một số kinh nghiệm quốc tế
về sự giao thoa này, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Sự giao thoa giữa cơ chế
bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn
hiệu” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, đã có một số bài viết nghiên cứu về vấn đề này như:
- Protection of works of applied art in China, 2012-5-10 By Fiona Gu,
Associate, Rouse China, [Copyright]. Trong bài viết này, tác giả có đề cập đến vấn
đề ở Trung Quốc, việc bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đã và đang là thách thức
3
lớn đối với các Toà án. Một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nhiều khả năng cùng một
lúc sẽ thỏa mãn được điều kiện bảo hộ theo Luật Bản quyền (bảo hộ dưới dạng tác
phẩm mỹ thuật ứng dụng) và Luật Bằng sáng chế (bảo hộ dưới dạng kiểu dáng công
nghiệp). Tuy nhiên, trong bài viết này, tác giả mới chỉ khái quát được vấn đề mà
chưa đi sâu vào nghiên cứu, giải thích vấn đề.
- Standing committee on the law of trademarks, industrial designs and
geographical indications, Ninth Session – Geneva, November 11 to 15, 2002.
Trong bài viết này tác giả đã đề cập đến kiểu dáng công nghiệp và mối quan hệ với
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và nhãn hiệu ba chiều. Tuy nhiên, trong bài viết tác giả
mới chỉ tập trung chỉ ra và giải thích mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp với
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Đồng thời bài viết cũng nêu ra ba cách giải quyết có
thể được cân nhắc trong mối liên hệ giữa bảo hộ quyền tác giả và bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp theo nguyên tắc sui generis là: (i) Bảo hộ chồng lấn/tích lũy
(Cumulative protection) (dựa trên lý thuyết về “sự thống nhất của nghệ thuật”1[29])
đề xuất cách áp dụng tự động cả cơ chế bảo hộ quyền tác giả và kiểu dáng công
nghiệp đối với các thiết kế kiểu dáng công nghiệp, (ii) Bảo hộ riêng biệt (Separate
Protection) (dựa trên lý thuyết về “sự phân chia”2 [29] hoặc “phân tách”3 [29]) đề
xuất một sự phân biệt rõ ràng giữa các cơ chế bảo hộ, theo đó kiểu dáng công
nghiệp chỉ có thể được bảo hộ kiểu dáng công nghiệp nếu có tính thẩm mỹ, nếu có,
và tính thẩm mỹ đó là không thể tách rời khỏi thiết kế, (iii) Chồng lấn một phần
(Partial Overlap) cho phép thiết kế công nghiệp được bảo hộ quyền tác giả nếu nó
đáp ứng được các tiêu chuẩn của một tác phẩm nghệ thuật, mặc dù mức độ yêu cầu
đối với giá trị nghệ thuật của một tác phẩm có thể không dễ dàng đáp ứng được
trong thực tế [29].4
1
unity of art
2
separability
3
dissociation
4
Partial overlap would allow copyright protection for industrial designs that meet the standards of works of
art, although the required level of artistic merit might not be easily met in practice
4
- Mutant copyrights and backdoor patents: the problem of overlapping
intellectual property protection, By Viva R.Moffat. Trong bài viết này, tác giả đề
cập đến câu chuyện giữa Mickey Mouse và Peter Rabbit. Câu chuyện liên quan đến
việc mở rộng các quyền sở hữu trí tuệ ở Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ qua đã dẫn đến
việc chồng chéo giữa hai cơ chế bảo hộ, cụ thể là giữa pháp luật quyền tác giả và
pháp luật về nhãn hiệu và đến nay vấn chưa có một cơ chế cụ thể nào giải quyết
được câu chuyện trên.
- The problem with intellectual property rights: subject matter expansion,
By Andrew Beckerman - Rodau. Tác giả bài viết đã chỉ ra việc mở rộng các quyền
sở hữu trí tuệ đang là vấn đề nhức nhối cần phải được giải quyết tại Hoa Kỳ.
Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan đến giao thoa cơ chế bảo hộ quyền tác giả
và quyền sở hữu công nghiệp đã được nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm và
đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của mình, cụ thể qua một số công trình
nghiên cứu sau:
- Vương Thanh Thúy: Dấu hiệu mang chức năng trong pháp luật về nhãn
hiệu – Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Hoa Kỳ, châu Âu và Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học. Trong luận án tác giả chủ yếu đề cập đến các dấu
hiệu mang chức năng trong pháp luật về nhãn hiệu tại Hoa Kỳ, châu Âu và Việt
Nam. Ngoài ra, tác giả có bình luận một phần liên quan đến sự mở rộng cơ chế bảo
hộ giữa kiểu dáng công nghiệp với nhãn hiệu.
- Nguyễn Bá Bình: Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học. Trong luận văn tác giả chủ yếu
đề cập đến việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam và có bình luận một phần
liên quan đến cơ chế bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.
- Nguyễn Thị Tuyết Nhung: Sự chồng lấn quyền trong bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp. Trong khóa luận của mình, tác giả chủ yếu tập
trung vào phân tích cơ chế bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng theo quy định pháp luật Việt Nam, từ đó chỉ ra sự chồng lấn trong hai cơ chế
bảo hộ này.
5
Tuy nhiên, các công trình khoa học kể trên mới đề cập đến một số khía cạnh
trong vấn đề giao thoa giữa cơ chế bảo hộ quyền tác giả với bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp. Còn một số nội dung chưa được khai thác sâu và có hệ thống như: các
trường hợp giao thoa điển hình, nguyên nhân, hệ quả của tình trạng giao thoa giữa
cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài ‘‘Sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu’’ sẽ là một công
trình nghiên cứu có tính hệ thống và chuyên sâu về sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu. Luận văn góp
phần tìm hiểu mô hình lý luận, nguyên nhân và hệ quả của vấn đề giao thoa trên.
Đây sẽ là một đề tài mới, độc lập với các công trình nghiên cứu khoa học khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích chính của luận văn là phân tích rõ sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu. Luận
văn chỉ ra cơ sở lý luận, nguyên nhân, các trường hợp giao thoa và hệ quả của sự
giao thoa đó không chỉ theo quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam mà còn
tham khảo thêm quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới như pháp luật
Hoa Kỳ, Trung Quốc… Đồng thời, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp góp
phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên thì đề tài phải thực hiện được các nhiệm vụ sau:
Một là: So sánh cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với cơ chế bảo
hộ kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu. Từ đó chỉ ra điểm tương đồng và không tương
đồng giữa các cơ chế bảo hộ trên.
Hai là: Chỉ ra các trường hợp giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu. Phân tích được
nguyên nhân xảy ra tình trạng giao thoa cũng như hệ quả mà tình trạng giao thoa
mang lại.
Ba là: Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn các trường hợp của vấn đề
giao thoa sẽ đưa ra được hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng – đối tượng bảo hộ quyền tác giả với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu –
đối tượng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế (bao gồm
các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật một số quốc gia) cũng
như pháp luật Việt Nam về cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với bảo hộ
kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu.
Luận văn cũng nghiên cứu một số vụ việc thực tế trên thế giới và ở Việt Nam
để làm rõ những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tình trạng giao thoa
giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
và nhãn hiệu trên thế giới và ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề trên, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ
những quy định của pháp luật về giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng với cơ chế bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu.
Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong luận văn để chỉ ra sự đồng
nhất và khác biệt giữa ba cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu. Đồng thời, phương pháp so sánh cũng được sử dụng khi
phân tích các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật
Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật điều chỉnh vấn đề này.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và sự giao thoa giữa các cơ chế trên mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
7
Về phương diện lý luận, luận văn đã chỉ ra một cách chi tiết các trường hợp
giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp và nhãn hiệu. Luận văn đã có sự liên hệ áp dụng với các quy định của
Điều ước quốc tế, pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Trung Quốc với pháp luật Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, luận văn đã chỉ ra được nguyên nhân cũng như hệ
quả pháp lý của vấn đề giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
với cơ chế bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm ba chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Khái quát về sự giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu.
- Chương 2: Giao thoa trong bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu – Quy định của pháp luật và những hệ quả pháp lý.
- Chương 3: Giải quyết tình trạng giao thoa giữa cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng với bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu – kinh nghiệm quốc
tế và một số giải pháp cho Việt Nam.
8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ GIAO THOA GIỮA CƠ CHẾ BẢO HỘ
TÁC PHẨM MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VỚI BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG
NGHIỆP VÀ NHÃN HIỆU
1.1. Tổng quan về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, kiểu dáng công
nghiệp và nhãn hiệu
1.1.1. Khái quát về bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
1.1.1.1. Khái niệm tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là một trong những đối tượng được bảo hộ
quyền tác giả trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Khái niệm tác phẩm
mỹ thuật ứng dụng được hiểu và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo Wikipedia, Mỹ thuật ứng dụng là việc áp dụng thiết kế và trang trí vào
các vật dụng hàng ngày để làm cho chúng trở nên hấp dẫn về mặt thẩm mỹ [33].5
Cũng theo wikipedia, thuật ngữ này thường dùng để phân biệt với mỹ thuật
thông thường với mục đích tạo ra các vật dụng đẹp mắt hay thúc đẩy về mặt trí tuệ.
Còn mỹ thuật ứng dụng thường được áp dụng trong các lĩnh vực thiết kế công
nghiệp, thiết kế tạo hình, thiết kế thời trang, thiết kế nội thất, mỹ thuật trang trí và
mỹ thuật chức năng [33].6
Từ điển Oxford cũng có định nghĩa tác phẩm mỹ thuật ứng dụng như sau:
“tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là sự ứng dụng thiết kế, trang trí lên các đồ vật
thường ngày để tạo ra các tác phẩm mang tính thẩm mỹ” [35].7
Từ điển luật học online cũng đưa ra định nghĩa và giải thích về tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng: Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng liên quan đến những ứng dụng của
thiết kế và/hoặc thẩm mỹ đối với những vật dụng có chức năng. Thuật ngữ này dùng
để chỉ những khía cạnh sáng tạo của một vật dụng mang tính thiết thực (hữu dụng).
5
The applied arts are the application of design and decoration to everyday objects to make them aesthetically
pleasing
6
The term is applied in distinction to the fine arts which aims to produce objects which are beautiful and/or
provide intellectual stimulation. In practice, the two often overlap. The fields of industrial design, graphic
design, fashion design, interior design and the decorative arts are considered applied arts
7
The applied arts are the application of design and decoration to everyday objects to make them aesthetically
pleasing
9
Với lý do này, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đôi khi được nhắc đến như là một tác
phẩm mang tính thiết thực (hữu dụng). Những lĩnh vực của các thiết kế công nghiệp,
thiết kế đồ họa, thiết kế thời trang, thiết kế nội thất, nghệ thuật về mặt trang trí và
về mặt ứng dụng đều được coi là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Ngược lại, những
bức tượng hoặc bức tranh không có khía cạnh ứng dụng hoặc hữu ích chỉ được bảo
hộ quyền tác giả như một tác phẩm nghệ thuật thông thường [37].8
Trong cuốn “Mỹ thuật ứng dụng Việt Nam” của Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin có giải thích: “Mỹ thuật ứng dụng là các nghệ thuật áp dụng sản xuất công
nghiệp để cho ra những sản phẩm mỹ thuật phục vụ đời sống” [21, trang 51] hay
“Mỹ thuật ứng dụng là những tấm tranh, phù điêu, đường diềm, thảm… trang trí
cho một công trình hoặc ứng dụng cho một công việc cụ thể nào đó (ví dụ bức tranh
lớn trang trí trong phòng đối ngoại, tấm thảm nhỏ dùng để lau chân)” [21, trang
72]. Với cách giải thích này, có thể hiểu tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chính là
những tác phẩm như bức tranh, phù điêu, thảm,… được trang trí nghệ thuật và được
sản xuất công nghiệp.
Theo các định nghĩa trên, thuật ngữ “mỹ thuật ứng dụng” được dùng để chỉ
việc áp dụng các thiết kế thẩm mỹ đối với các vật dụng có chức năng có thể sử dụng
được. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là những
tác phẩm mang tính nghệ thuật nhưng gắn liền hoặc được thể hiện trên các vật dụng,
đồ vật hàng ngày.
Công ước Berne về việc bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật (Công ước
Berne) cũng không nêu định nghĩa thế nào là một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mà
chỉ quy định các tác phẩm thuộc lĩnh vực nào thì được bảo hộ, trong đó, tác phẩm
mỹ thuật ứng dụng được liệt kê là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ.
Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam liệt kê tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng là một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Nghị định
8
The term applied art refers to the application of designs and/or aesthetics to otherwise functional objects.
The concept refers to the creative aspects of an object of utility. For this reason, applied art is sometimes
referred to as utility art. The fields of industrial design, graphic design, fashion design, interior design,
decorative art and functional art are considered applied arts. Conversely, sculptures or paintings do not have
utilitarian aspects and are therefore generally copyrighted as works of fine art.
10
100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền
liên quan (Nghị định 100/2006/NĐ-CP) có đưa ra định nghĩa tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng tại khoản 2 Điều 15: “Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét,
màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích có thể gắn liền với một đồ vật hữu
ích, được sản xuất hàng loạt bằng tay hoặc bằng máy như: biểu trưng; hàng thủ
công mỹ nghệ; hình thức thể hiện trên sản phẩm, bao bì sản phẩm”.
Nghị định 100/2006/NĐ-CP cũng đồng thời đưa ra giải thích về tác phẩm tạo
hình như sau: “Tác phẩm tạo hình quy định tại điểm g khoản 1 Điều 14 của Luật Sở
hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục như:
hội họa, đồ họa, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt và các hình thức thể hiện tương tự,
tồn tại dưới dạng độc bản. Riêng đối với loại hình đồ họa, có thể được thể hiện tới
phiên bản thứ 50, được đánh số thứ tự có chữ ký của tác giả”.
Như vậy, có thể thấy tác phẩm tạo hình và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có
điểm chung, đều là những tác phẩm nghệ thuật được thể hiện bằng các đường nét,
màu sắc, hình khối, bố cục. Tuy nhiên, trên thế giới và ở Việt Nam đều có sự phân
biệt giữa tác phẩm tạo hình đơn thuần và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Thứ nhất,
nếu như tác phẩm tạo hình chỉ đơn thuần mang tính nghệ thuật, tính thẩm mỹ, ví dụ
một bức tranh, bức tượng để chiêm ngưỡng thì tác phẩm mỹ thuật ứng dụng ngoài
việc mang tính thẩm mỹ, được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục
thì còn phải gắn liền với một đồ vật hữu ích như đồ trang sức, đồ lưu niệm hay
những vật dụng hàng ngày như tấm thảm, cái đèn bàn mang tính trang trí hay các đồ
gia dụng,… Thứ hai, nếu như tác phẩm tạo hình thường tồn tại dưới dạng độc bản
(riêng loại hình đồ họa có thể được thể hiện tới phiên bản thứ 50) thì tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng có thể được sản xuất hàng loạt bằng phương pháp công nghiệp (sản
xuất bằng máy) hay thủ công nghiệp (sản xuất bằng tay).
Qua những định nghĩa về tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nêu trên, có thể chỉ ra
các đặc trưng cơ bản của tác phẩm mỹ thuật ứng dụng như sau:
11
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mang tính thẩm mỹ (tính mỹ thuật): Tác
phẩm mỹ thuật ứng dụng có thể được thể hiện bằng những yếu tố như cấu tạo của
các đường nét, màu sắc thể hiện trên bề mặt một sản phẩm (tính hai chiều) hoặc
hình dạng của sản phẩm (tính ba chiều) hoặc sự kết hợp của cả hai loại tính năng đó.
Với tư cách là một tác phẩm được bảo hộ theo pháp luật quyền tác giả, trước hết,
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng phải có tính thẩm mỹ, tính nghệ thuật. Tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng thường được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc, bố cục –
những trang trí bên ngoài của sản phẩm hoặc đồ vật mà có thể cảm nhận được bằng
thị giác, mang lại một ấn tượng nhất định về thẩm mỹ, làm cho sản phẩm hoặc đồ
vật trở nên khác biệt, hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng. Ví dụ một cái đèn bàn
thiết kế một cách thông thường chỉ có chức năng thắp sáng sẽ không được bảo hộ là
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Nhưng một cái đèn có hình dáng bên ngoài hoặc bộ
phận chân đèn được đặt thiết kế đặc biệt (ví dụ mô phỏng hình con sò, hình thần vệ
nữ…) có thể được bảo hộ là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.
Đèn bàn với thiết kế không được
bảo hộ là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
Đèn bàn với thiết kế chân đèn được
bảo hộ là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mang “tính ứng dụng” hay “tính hữu ích”:
Mặc dù là tác phẩm thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả nhưng tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng không chỉ được tạo ra để phục vụ nhu cầu thẩm mỹ thông thường như các
tác phẩm nghệ thuật hay tạo hình khác. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng luôn được
thiết kế gắn liền với một vật phẩm, đồ vật hữu ích, có chức năng sử dụng thông
12
thường để phục vụ nhu cầu của cuộc sống. Như vậy, khác với các tác phẩm nghệ
thuật thông thường mà việc khai thác, sử dụng tác phẩm chỉ ở thị trường văn hóa,
tác phẩm mỹ thuật ứng dụng luôn có tính hữu ích, gắn liền với những sản phẩm
phục vụ nhu cầu của cuộc sống. Tính thẩm mỹ, tính nghệ thuật của tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng làm cho sản phẩm trở nên đẹp mắt, hấp dẫn hơn nhưng không làm
suy giảm chức năng hữu ích của sản phẩm.
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có thể được sản xuất hàng loạt bằng
phương pháp công nghiệp (sản xuất bằng máy) hay thủ công nghiệp (sản xuất
bằng tay): Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có thể được thể hiện bằng bất kỳ cấu tạo
của các đường nét hoặc màu sắc hoặc bất kỳ hình thức ba chiều nào, có hoặc không
kết hợp với các đường nét hay màu sắc, nhưng phải đáp ứng điều kiện là cấu tạo
hoặc hình thức đó có khả năng áp dụng sản xuất công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng phải có khả năng dùng làm mẫu cho sản xuất công
nghiệp hoặc tiểu thủ công nghiệp. Do đó, các tác phẩm thủ công mỹ nghệ, các sản
phẩm công nghiệp có tính thẩm mỹ đều có thể trở thành đối tượng bảo hộ là tác
phẩm mỹ thuật ứng dụng.
1.1.1.2. Cơ chế bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
Cũng giống như các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng được pháp luật bảo hộ phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, là sản phẩm của hoạt động sáng tạo: Tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng là kết quả sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật nhằm tạo ra những sản phẩm đáp
ứng nhu cầu thẩm mỹ, hướng tới cái đẹp của con người. Việc tạo ra một tác phẩm
mỹ thuật ứng dụng đòi hỏi công sức, kỹ năng, thời gian, sự khéo léo, đặc biệt là sự
nỗ lực sáng tạo của tác giả. Tuy nhiên, pháp luật về quyền tác giả không đặt ra yêu
cầu, điều kiện về chất lượng hay giá trị nghệ thuật, sáng tạo của một tác phẩm, vì
vậy, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chỉ cần là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ.
Ví dụ: các thiết kế đồ trang sức, vật dụng, đồ chơi, giấy dán tường, thảm… đều có
thể được bảo hộ như một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.
Thứ hai, được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định: Tác phẩm
mỹ thuật ứng dụng được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc, gắn liền hoặc
13
thể hiện trên các đồ vật hữu ích. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chủ yếu được thể
hiện qua yếu tố hình ảnh, đồ họa hoặc điêu khắc, có thể được thể hiện trên bất kỳ
vật liệu, chất liệu nào gắn liền với các sản phẩm (đồ vật). Khác với tác phẩm tạo
hình thông thường chỉ mang tính “thẩm mỹ”, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mang
bản chất kép, bao gồm cả tính “ứng dụng”, vì vậy tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có
thể định hình trên bất kì sản phẩm nào phục vụ cho nhu cầu đời sống.
Thứ ba, mang tính nguyên gốc: Điều kiện này đòi hỏi tác phẩm mỹ thuật
ứng dụng phải được sáng tạo ra một cách độc lập, không sao chép hoàn toàn từ tác
phẩm của người khác. Tính nguyên gốc ở đây chỉ liên quan đến hình thức thể hiện
chứ không liên quan đến ý tưởng hay nội dung tác phẩm.
Quyền tác giả đối với một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được xác lập tự động
kể từ thời điểm tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được định hình dưới một hình thức vật
chất nhất định, không phân biệt nội dung, hình thức, chất lượng…, đã đăng kí hay
chưa đăng kí, đã công bố hay chưa công bố. Do đó, việc đăng kí bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng không là căn cứ phát sinh quyền tác giả mà
chỉ có giá trị như chứng cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp liên quan
đến tác phẩm mỹ thuật ứng dụng xảy ra.
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ theo cơ chế bảo hộ quyền tác giả
tức là bảo hộ về mặt hình thức. Điều đó có nghĩa là việc pháp luật sở hữu trí tuệ bảo
hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nhằm tránh lại sự sao chép hoàn toàn một tác phẩm
đã có sẵn trước đó. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được sáng tạo sau có thể có sự
tương đồng về mặt nội dung; cách thức trình bày thể hiện bằng đường nét, hình khối,
màu sắc có thể có những điểm đương đồng với nhau, nhưng việc tạo ra tác phẩm đó
phải hoàn toàn độc lập, không phải là sự sao chép thì sẽ không bị coi là xâm phạm
quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ thì: Tác phẩm
mỹ thuật ứng dụng có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm
được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố
trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn
bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
14
1.1.2. Khái quát về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu
1.1.2.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu
Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp là một trong những đối tượng bảo hộ được liệt kê
trong các Điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ như Công ước Paris về bảo hộ
sở hữu công nghiệp (Công ước Paris), Thoả ước Lahay về đăng ký quốc tế kiểu
dáng công nghiệp (Thỏa ước Lahay) hay Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS). Tuy nhiên thì các Điều ước
quốc tế kể trên đều không đưa ra định nghĩa cụ thể thế nào là kiểu dáng công nghiệp.
Theo nhiều tiêu chí khác nhau và tuỳ thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia thì
khái niệm kiểu dáng công nghiệp tồn tại theo nhiều cách hiểu và có thể tiếp cận
dưới các góc độ sau:
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì: “Kiểu dáng công nghiệp là
các khía cạnh mang tính chất trang trí hay thẩm mỹ của sản phẩm. Kiểu dáng có
thể bao hàm các khía cạnh ba chiều, ví dụ như hình dạng hoặc bề mặt của sản
phẩm hoặc các khía cạnh hai chiều, ví dụ như mẫu hoa văn, đường nét hoặc màu
sắc” [38]. Như vậy theo WIPO, kiểu dáng công nghiệp được xác định trước hết ở
tính chất trang trí hay thẩm mỹ của nó. Thiết kế kiểu dáng công nghiệp để được bảo
hộ phải không mang tính kỹ thuật hay tính chức năng. Điều này có nghĩa rằng đặc
tính bản chất tạo nên một thiết kế kiểu dáng công nghiệp là tính thẩm mỹ, mọi đặc
điểm mang tính kĩ thuật, tính chức năng của sản phẩm thiết kế đều không được bảo
hộ.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, “Kiểu dáng bao gồm các đặc tính trang trí được thể
hiện hay áp dụng trong một sản phẩm. Vì kiểu dáng được thể hiện ở hình dáng bên
ngoài nên đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là hình dạng của một sản phẩm, là
trang trí mặt ngoài của một sản phẩm, hay là sự kết hợp giữa hình dạng và cả trang
trí bên ngoài. Một kiểu dáng trang trí bề ngoài không thể tách rời sản phẩm mà nó
15
trang trí và do vậy không thể tự thân tồn tại một mình được” [38].9 Như vậy theo
pháp luật Hoa Kỳ, đặc tính trang trí của kiểu dáng công nghiệp đã được nhấn mạnh
ngay từ đầu. Bên cạnh đó, mặc dù định nghĩa không đề cập rõ, nhưng thông qua
việc khẳng định kiểu dáng công nghiệp được thể hiện ở hình dạng sản phẩm thì
cũng cho thấy rằng kiểu dáng công nghiệp có thể được thể hiện ở không gian hai
hoặc ba chiều. Theo định nghĩa này, WIPO cũng đặt ra yêu cầu kiểu dáng công
nghiệp phải luôn gắn liền với sản phẩm, theo nghĩa đó pháp luật Hoa Kỳ loại trừ cái
gọi là kiểu dáng công nghiệp nhưng lại không gắn với một sản phẩm cụ thể.
Theo pháp luật Úc thì: “Kiểu dáng được xác định bao gồm hình dáng (shape),
hình khối (configuration), hoa văn, mẫu trang trí, những cái mà khi áp dụng vào
sản phẩm, mang lại cho nó một vẻ đẹp bên ngoài khác biệt. Một kiểu dáng đã đăng
kí có thể là một tài sản thương mại có giá trị, sự đăng kí kiểu dáng cho phép chủ sở
hữu một sự bảo vệ cho hình dáng bên ngoài của sản phẩm nhưng không phải là
nguyên tắc hoạt động bên ngoài của sản phẩm” [38].10 Như vậy, theo pháp luật Úc
thì một thiết kế được xác định là đặc điểm của hình dáng, cấu hình, mô hình hoặc
đồ trang trí áp dụng cho một sản phẩm, là tính năng đó, trong sản phẩm hoàn chỉnh,
có thể được đánh giá bằng mắt, nhưng không bao gồm một phương pháp hay
nguyên tắc xây dựng.
Theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm kiểu dáng công nghiệp được quy
định tại khoản 13 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng
bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự
kết hợp những yếu tố này”. Như vậy thì kiểu dáng công nghiệp chính là các đặc
điểm thẩm mỹ của sản phẩm như hình khối, đường nét, màu sắc hay là sự kết hợp
giữa các yếu tố trên. Một kiểu dáng công nghiệp chỉ được pháp luật sở hữu trí tuệ
9
The design for an article consists of the visual characteristics embodied in or applied to an article. A design
is manifested in appearance, and may relate to the configuration or shape of an article, to the surface
ornamentation applied to an article, or to the combination of configuration and surface ornamentation
10
A design is defined as features of shape, configuration, pattern or ornamentation applicable to an article,
being features that, in the finished article, can be judged by the eye, but does not include a method or
principle of construction
16
Việt Nam bảo hộ khi kiểu dáng công nghiệp đó gắn liền với một sản phẩm nhất
định và được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp.
Qua một số khái niệm trên, có thể thấy rằng, kiểu dáng công nghiệp thường
bao gồm hình dáng bên ngoài của sản phẩm, bao gồm các đặc điểm tạo dáng của
sản phẩm như hình khối, đường nét, màu sắc hoặc là sự kết hợp của các yếu tố này.
Thông thường thì kiểu dáng công nghiệp có thể được bảo hộ dưới hai dạng. Dạng
thứ nhất là dưới dạng hình khối hay hình không gian ba chiều. Ví dụ, tất cả các hình
dáng bên ngoài của ô tô hay xe máy có thể được đăng ký là kiểu dáng công nghiệp
cho chính sản phẩm ô tô, xe máy đó. Ngoài ra, kiểu dáng công nghiệp cũng được
bảo hộ dưới dạng thứ hai là dạng kiểu dáng hai chiều bao gồm mẫu hoa văn trang trí.
Ví dụ, bao bì của sản phẩm như nhãn bao gói bánh kẹo có thể đăng kí dưới dạng
kiểu dáng công nghiệp hai chiều.
Khái niệm nhãn hiệu
Thuật ngữ nhãn hiệu được sử dụng lần đầu tiên trong một văn bản pháp luật
quốc tế về bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp là Công ước Paris. Tuy nhiên, Công
ước Paris cũng chưa đưa ra khái niệm nhãn hiệu mà chỉ quy định các điều kiện liên
quan đến việc bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp. Trong các Điều ước quốc tế
liên quan đến nhãn hiệu, Hiệp định TRIPS là hiệp định đầu tiên đưa ra khái niệm về
nhãn hiệu tại khoản 1 Điều 15: “Bất kì một dấu hiệu hoặc một tổ hợp dấu hiệu nào
có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch
vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt
là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các
màu sắc cũng như tổ hợp bất kì của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng kí
là nhãn hiệu hàng hóa”[32].
Theo WIPO thì: “Nhãn hiệu là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
giống hoặc tương tự, được cung cấp bởi các nhà sản xuất hoặc các nhà cung cấp
dịch vụ khác nhau. Nhãn hiệu là một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp và
được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” [42].11 Như vậy, dấu hiệu được sử dụng làm
11
A trademark is a sign capable of distinguishing the goods or services of one enterprise from those of other
enterprises. Trademarks are protected by intellectual property rights.
17
nhãn hiệu có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu
sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì,
bao gói sản phẩm. Nhãn hiệu chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó không trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác được đăng ký trước đó cho
cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc những sản phẩm, dịch vụ tương tự.
Còn ở Việt Nam, trên cơ sở là thành viên của nhiều Điều ước quốc tế về
nhãn hiệu như Công ước Paris, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
hàng hóa (Thỏa ước Madrid), Hiệp định TRIPS và dựa trên tình hình thực tiễn ở
Việt Nam thì khái niệm nhãn hiệu cũng được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam.
Cụ thể tại khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Nhãn hiệu là dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Đây là
một khái niệm mang tính khái quát, theo đó, các dấu hiệu chỉ cần có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ do một cá nhân, tổ chức sản xuất, cung cấp với hàng hóa,
dịch vụ của các cá nhân, tổ chức khác đều có thể được đăng kí làm nhãn hiệu.
Khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định nhãn hiệu được bảo hộ nếu
đáp ứng các điều kiện: “Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc”.
Qua những cách tiếp cận trên thì có thể thấy rằng nhãn hiệu mang những đặc
điểm sau: Là dấu hiệu nhìn thấy được và có khả năng phân biệt; Được thể hiện dưới
dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu
tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
1.1.2.2. Cơ chế bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu
Nguyên tắc bảo hộ
Pháp luật Sở hữu trí tuệ bảo hộ độc quyền nội dung ý tưởng sáng tạo của
kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu. Mọi hành vi của chủ thể khác sử dụng những
dấu hiệu, thiết kế trùng hoặc tương tự với kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu
đang được pháp luật bảo hộ độc quyền đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ, kể cả hành vi sử dụng đó là vô tình hay cố tình, biết đến hay chưa biết
18
đến sự tồn tại từ trước của kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu đang được bảo hộ
từ trước.
Điều kiện bảo hộ
Điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
Điều 26 Hiệp định TRIPS quy định yêu cầu bảo hộ chung đối với kiểu dáng
công nghiệp, đó là: “Các thành viên phải bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp mới
hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập. Các thành viên có thể quy định
rằng kiểu dáng công nghiệp không được coi là mới hoặc nguyên gốc nếu không
khác biệt cơ bản với những kiểu dáng đã biết hoặc với tổ hợp các đặc điểm tạo
dáng của kiểu dáng đã biết. Các thành viên có thể quy định rằng việc bảo hộ đó
không áp dụng cho những kiểu dáng mà hình dáng chủ yếu do các đặc tính kỹ thuật
và chức năng quyết định”.
Mặc dù điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở mỗi quốc gia là khác nhau
nhưng đều được xây dựng trên cơ sở yêu cầu chung mà Hiệp định TRIPS đã quy
định. Ở Việt Nam, một đối tượng chỉ được bảo hộ dưới danh nghĩa là kiểu dáng
công nghiệp khi đáp ứng được ba điều kiện quy định tại Điều 63 của Luật Sở hữu trí
tuệ, đó là: có tính mới; có tính sáng tạo; có khả năng áp dụng công nghiệp.
“Tính mới” là yêu cầu của tất cả các luật về kiểu dáng công nghiệp, rằng việc
bảo hộ thông qua đăng ký chỉ được áp dụng cho những kiểu dáng công nghiệp
mang tính mới. Nghĩa là kiểu dáng công nghiệp muốn được đăng ký bảo hộ phải
hoàn toàn mới so với những kiểu dáng công nghiệp khác đã được sản xuất tại những
nơi khác trên thế giới vào bất kỳ thời điểm nào trước đó.
Kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính sáng tạo nếu kiểu dáng đó không
thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực
tương ứng. Tuy nhiên ở Việt Nam, nhiều kiểu dáng công nghiệp không thực sự có
tính sáng tạo vẫn được cấp văn bằng bảo hộ như: bao bì sản phẩm (bao gói bánh,
bao gói kẹo, bao gói mì ăn liền hay vỏ hộp thuốc,…) hay nhãn dán trên một số sản
phẩm.
Một kiểu dáng công nghiệp chỉ được bảo hộ khi có khả năng áp dụng công
nghiệp. Tức là kiểu dáng đó có thể dùng làm mẫu để sản xuất hàng loạt sản phẩm có