BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐỖ THỊ MAI
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành
: Luật Kinh tế
Mã số
: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ YẾN
HÀ NỘI- 2015
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật Kinh tế
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình
sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng viênTS.Nguyễn Thị Yến, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
HỌC VIÊN
ĐỖ THỊ MAI
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng” là do bản thân
tự thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm
sản phẩm của riêng mình. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên TS.Nguyễn Thị Yến. Những phần sử
dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được trích dẫn và nêu rõ nguồn trong
phần tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên
bản của luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
HỌC VIÊN
ĐỖ THỊ MAI
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CĐT
: Chủ đầu tư
BCC
: Hợp đồng hợp tác kinh doanh
BOT
: Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao
BT
: Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh
BTO
: Hợp đồng xây dựng- chuyển giao
ĐTNN
: Đầu tư nước ngoài
ĐTTTNN
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCN
: Khu công nghiệp
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
3
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
6
1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................. 6
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
6
1.1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
11
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
1.2. Khái quát pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam......... 15
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam
15
1.2.2 Nội dung pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
17
1.2.3 Vai trò của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................ 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG
21
2.1 Quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam .... 21
2.1.1 Quy định về chủ thể đầu tư trực tiếp nước ngoài
21
2.1.2 Quy định về hình thức đầu tư
24
2.1.3 Quy định về lĩnh vực và địa bàn đầu tư
28
2.1.4 Quy định về các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ và bảo đảm đầu tư
32
2.1.5 Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư
36
2.1.6 Quy định về thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
37
2.1.7 Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài
40
2.1.8 Một số đánh giá về quy định pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam
41
2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn thành phố Hải Phòng ................................................................. 44
2.2.1 Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hải Phòng
44
2.2.2 Những kết quả mà Hải Phòng đã đạt được khi thực hiện pháp luật đầu
tư trực tiếp nước ngoài
48
2.2.3 Những khó khăn đặc thù của Hải Phòng
54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................ 57
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP
LUẬT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
58
3.1 Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về đầu tư trực
tiếp nước ngoài ................................................................................................ 58
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam .......................................................................................................... 61
3.2.1 Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư
62
3.2.2 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
64
3.2.3 Giải pháp về con người
64
3.3 Phương hướng hoàn thiện quy định, chính sách đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại thành phố Hải Phòng ....................................................................... 65
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................. 72
KẾT LUẬN
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
74
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác quốc tế, thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ chính sách kinh
tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
càng ngày càng được thừa nhận như là một giải pháp quan trọng góp phần thúc đẩy
sự phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tiếp
tục phát triển khi nó đem lại các điều kiện để giải quyết hai vấn đề cơ bản hiện nay
đó là vốn và kỹ thuật – hai vấn đề quan trọng nhất đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa của nước đang phát triển.
Trong suốt 10 năm qua, kể từ khi Luật Đầu tư (2005) có hiệu lực và đi vào
thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, bộ mặt kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi tích
cực, đặc biệt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Với những quy
định tích cực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã tận dụng
được nguồn vốn từ nước ngoài vào phát triển nền kinh tế đất nước đặc biệt trong
những lĩnh vực mà ta còn thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu khoa học kỹ thuật.
Đứng trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh của các quốc gia trong
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gay gắt, Luật Đầu tư (2005) bên cạnh
những kết quả tích cực mà nó mang lại cũng đã bộc lộ không ít những bất cập, hạn
chế cần khắc phục bằng sự ra đời của Luật Đầu tư (2014).
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng – một
trong những thành phố có nền kinh tế phát triển vào tốp đầu của cả nước, với những
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả đã mang lại tỷ lệ vốn đầu tư
nước ngoài lớn trên cả nước sẽ là một nghiên cứu vừa mang tính học thuật vừa
mang tính thực tiễn sâu sắc, về sự vận dụng các quy định của pháp luật đầu tư trong
suốt thời gian qua, đồng thời sẽ mang đến cái nhìn toàn diện và thực tế nhất về
những hạn chế về đầu tư trực tiếp nước ngoài mà Luật Đầu tư (2005) đã và đang
mắc phải, qua đó nhằm thấy rõ những điểm mới, tích cực của Luật Đầu tư (2014).
2
Với mong muốn đóng góp vào việc khắc phục những khó khăn trong việc thu hút,
quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài mà Hải Phòng đang gặp phải, từ đó đưa ra bài
học cho các địa phương khác. Luận văn cũng hi vọng đóng góp vào việc nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nhất là khi
Luật Đầu tư (2014) sắp có hiệu lực, để hoạt động này tiếp tục phát huy vai trò của
mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua chủ đề nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả luật học và kinh tế học dưới
các góc độ như: cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; hoàn thiện
pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài,… Có thể kể đến một số công trình về lĩnh
vực này đã được công bố gần đây như: “Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài trên
địa bàn thủ đô Hà Nội” luận văn thạc sĩ - Nguyễn Văn Trường, Học viện chính trị
hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007; “Pháp luật hiện hành về đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Đỗ Phương
Hiền, luận văn thạc sĩ Luật học 2014; “Những bước tiến trong pháp luật về đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” Đỗ Minh Thư, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
Bộ tư pháp, số 2/2009; “Một số bất cập trong pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam hiện nay”, Trần Văn Duy, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ tư pháp,
số chuyên đề/2012; “Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật đàu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam”, Trân Văn Duy, Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 4/2012; “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Nguyễn
Mại, Cộng sản, Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, số 12/2014; “Các biện pháp
bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, khoá luận tốt
nghiệp, Đỗ Thị Phương Thảo 2011; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
3
luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI)”, Nguyễn Thị Thanh Huyền –
2011;...
Với những mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, bối cảnh nghiên cứu khác nhau,
nên những công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến một hoặc một nhóm vấn
đề trong pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Luật Đầu tư (2005). Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc chế định pháp luật về đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời đánh giá việc áp dụng các quy định
này trên địa bàn một địa phương nhất định, đưa ra các phương hướng hoàn thiện và
giải pháp nâng cao việc thực thi vừa đảm bảo tính mới vừa đáp ứng được đòi hỏi và
nhu cầu cần thiết trước khi Luật Đầu tư (2014) có hiệu lực trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến pháp luật của Việt Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc áp dụng
trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Luận văn nghiên cứu văn bản pháp luật Việt
Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: Luật Đầu tư (2005), Luật Đầu tư
(2014), các luật có liên quan đến chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam và các văn bản dưới luật (nghị định, thông tư,…), chính sách áp dụng riêng
của thành phố Hải Phòng, đồng thời cũng dành một phần nghiên cứu các quy định
của pháp luật về đầu tư nước ngoài của một số nước trên thế giới cũng như khu vực
trong mối tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam qua đó thể hiện sự tương
thích của pháp luật Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và
những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp phân tích trong việc phân tích vấn đề lý luận của đề tài, phân
tích các quy định của pháp luật; phương pháp chứng minh, bằng việc đưa ra những
ví dụ cụ thể để minh chứng cho một nhận định; phương pháp diễn giải; phương
4
pháp quy nạp; phương pháp so sánh dùng trong việc so sánh với pháp luật nước
ngoài; phương pháp thống kê áp dụng trong thống kê và tổng hợp số liệu thực tế,…
5. Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là trình bày một cách có hệ thống, phân
tích và chứng minh các quy định của pháp luật trước đây cũng như hiện tại về lĩnh
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; thực tiễn áp dụng các quy định này
trên địa bàn thành phố Hải Phòng để thấy được quá trình hình thành, phát triển và
hoàn thiện từng bước, qua từng giai đoạn của pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, luận văn còn có nhiệm vụ nêu rõ những ưu điểm của pháp luật hiện tại về
đầu tư trực tiếp nước ngoài, minh chứng cụ thể bằng số liệu, thành tựu nổi bật của
Hải Phòng; đồng thời phát hiện ra những bất cập, hạn chế của pháp luật về đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng như những khó khăn mà thành phố Hải Phòng đang gặp
phải trong việc thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua đó chỉ ra
những điểm mới của Luật Đầu tư (2014).
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là hệ thống hóa một cách toàn diện về
pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay và việc áp dụng trên địa
bàn thành phố Hải Phòng; thông qua việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, mục đích
cuối cùng mà luận văn muốn đạt được là nêu ra được những phương hướng và giải
pháp cụ thể, có tính thực tế và thuyết phục để thực thi có hiệu quả các quy định
pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn thể hiện sự phân tích sâu sắc, có hệ thống các chế định thuộc lĩnh
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam với kết quả là chỉ rõ những ưu điểm
cũng như những hạn chế, bất cập của các quy định hiện hành về pháp luật đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
- Luận văn nghiên cứu và phân tích những chính sách, quy định của Hải
Phòng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thành phố. Thông qua số liệu
thống kê về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Phòng luận văn muốn
5
chỉ ra những thuận lợi và khó khăn mà Hải Phòng đang gặp phải, từ đó đề xuất giải
pháp phù hợp với tình hình kinh tế của thành phố.
- Luận văn nghiên cứu, so sánh với một số quy định về đầu tư trực tiếp nước
ngoài của pháp luật một số nước trên thế giới; rút ra bài học cho việc hoàn thiện quy
định pháp luật của Việt Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Luận văn cũng chỉ ra những điểm mới, tiến bộ của Luật Đầu tư (2014) và
đề xuất một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật về đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam khi luật mới có hiệu lực.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và pháp luật
điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam;
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hải Phòng;
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và giải pháp cho Hải Phòng.
6
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1 Khái niệm đầu tư
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát
triển của nền kinh tế quốc gia gắn liền với vai trò, tác động tích cực của hoạt động
đầu tư kinh tế cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề đầu tư đã được sự quan tâm và
chú trọng của nhiều nước song quan niệm về đầu tư vẫn chưa có sự thống nhất.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, đầu tư “chỉ việc bỏ nhân
lực, tài lực, vật lực vào một công việc gì dựa trên cơ sở tính toán những hiệu quả về
kinh tế - xã hội” [21, tr.27]. Với cách định nghĩa này, đầu tư bao giờ cũng có chủ
thể xác định, đối tượng, mục đích và cách thức thực hiện xác định.
Dưới góc độ khoa học kinh tế, đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá
trình sản xuất, kinh doanh của một chủ thể đầu tư, là chi phí ban đầu phục vụ một
đối tượng nào đó, được sử dụng một cách có mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu của
chủ đầu tư.
Có quan điểm coi đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một
thời gian tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
quan điểm này mới chỉ đề ra một phần rất chung chung của hoạt động đầu tư mà
thôi. Cũng có quan điểm khẳng định đầu tư là việc bỏ vốn vào một cơ sở sản xuất,
một công trình xây dựng hay một đơn vị sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như: cấp
phát ngân sách, vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây
mới…nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng.
Thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về đầu tư, xuất phát từ cách tiếp cận
hoạt động đầu tư khác nhau mà quan điểm khác nhau. Mặc dù cách diễn giải và
cách thức tiếp cận khác nhau song tựu chung lại các quan điểm này đều thống nhất
với nhau về bản chất của hoạt động đầu tư. Khái quát một cách đơn giản nhất, khái
7
niệm đầu tư được hiểu là chủ đầu tư bỏ ra chi phí ban đầu vào một đối tượng nào
đó, theo những cách thức nhất định, chi phí này được sử dụng một cách có mục đích
(kinh tế, xã hội) nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ đầu tư (nhu cầu lợi nhuận kinh tế,
nhu cầu phúc lợi phát triển xã hội,...). Như vậy, đầu tư là hoạt động của một chủ thể
nhất định, có đối tượng xác định, có cách thực thực hiện và mục đích rõ ràng.
1.1.1.2 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trên thế giới từ trước đến nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
ĐTTTNN.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở
sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ
sở sản xuất kinh doanh này [30].
Xét theo khía cạnh khả năng cạnh tranh và vận động, ĐTTTNN thực chất
được coi là hình thức kéo dài chu kỳ tuổi thọ sản xuất, chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật và
nội bộ hóa khả năng độc lập kĩ thuật.
Một số nhà lý luận và kinh tế lại cho rằng, về bản chất thì ĐTTTNN là sự
gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên là nước tiếp nhận đầu tư,
xét về hiệu quả thì ĐTTTNN được coi là lối thoát cho các nước nghèo.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) lại đưa ra khái niệm ĐTTTNN
như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư với mục đích thiết lập
các quan hệ kinh tế bền vững với một công việc kinh doanh, đem lại khả năng thực
hiện một ảnh hưởng có hiệu quả đối với quản lí việc đầu tư ấy” [18,tr.28].
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) trong báo cáo cán cân thanh toán hàng năm đã đưa
ra định nghĩa về ĐTTTNN: “Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động
có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tưhosting country), không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi
đầu tư – source country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp”
[18,tr.27].
8
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về ĐTTTNN: Đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản
lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài
chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó
quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà
đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty
con" hay "chi nhánh công ty" [31].
Các khái niệm về ĐTTTNN là không giống nhau, xét dưới góc độ nghiên
cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác nhau, mỗi khái niệm
lại nhấn mạnh đến một khía cạnh của ĐTTTNN, có quan điểm đề cao vai trò, có
quan điểm nhấn mạnh cách thức đầu tư, có quan điểm nhấn mạnh đến tính chất hoạt
động đầu tư. Hiện nay ĐTTTNN đang là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nước,
tuy nhiên pháp luật của các nước khác nhau lại quy định khác nhau về vấn đề này.
Năm 1967, Indonesia ban hành Luật số 1 về đầu tư nước ngoài, trong đó tại
chương I đã ghi nhận “đầu tư trong luật này chỉ có nghĩa là đầu tư trực tiếp của
nước ngoài được thực hiện phù hợp với hoặc dựa trên các quy định của luật này
nhằm mục đích thực hiện kinh doanh tại Indonesia với nhận thức rằng người sở hữu
vốn phải trực tiếp gánh chịu rủi ro của đầu tư”. Rõ ràng quan điểm của Indonesia
về đầu tư trực tiếp nước ngoài là khá “cởi mở”[22]. Luật đầu tư nước ngoài của
Malaixia quy định và chỉ điều chỉnh các quan hệ về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Malaixia. Malaixia coi tất cả các nguồn ngoại tệ, công nghệ mới, phát minh, sang
chế,…từ nước ngoài chuyển vào Malaixia nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh thu
lợi nhuận là đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Malaixia[23].
Ở nước ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã chính
thức được ghi nhận trong Điều lệ đầu tư của nước ngoài được ban hành kèm theo
Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Đến Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1987, khái niệm ĐTNN đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2, khái niệm
ĐTTTNN trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 còn khá dè dặt. Luật Đầu tư
9
nước ngoài năm 1996 đã tiến một bước nữa so với các luật đầu tư trước đây, so với
các quy định của pháp luật trước đây, khái niệm ĐTTTNN được đưa ra vừa ngắn
gọn vừa bảo đảm các dấu hiệu đặc trưng của ĐTTTNN. Luật Đầu tư (2005) đã
thống nhất luật đầu tư trong nước với ĐTNN là một, do đó không còn quy định thế
nào là ĐTTTNN, tuy nhiên theo quy định tại khoản 2, khoản 5 và khoản 12 Điều 3
Luật đầu tư (2005) có thể hiểu, ĐTTTNN là việc nhà ĐTNN đưa vốn đầu tư bằng
tiền và các tài sản hợp pháp khác vào Việt Nam để tiến hành hoạt động đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó.
Qua một số khái niệm về ĐTTTNN, có thể thấy bản chất của hoạt động
ĐTTTNN là sự bỏ vốn dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại nhằm mục tiêu lợi nhuận và
cá nhân hay công ty nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư được quyền quản lý
hoạt động kinh doanh của mình tại nước mà họ thực hiện hoạt động đầu tư.
1.1.1.3 Đặc điểm của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ khái niệm ĐTTTNN nêu trên, có thể thấy hoạt động ĐTTTNN có những
đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện đầu tư trực tiếp là cá nhân, tổ chức nước
ngoài. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt ĐTTTNN với đầu tư trong nước.
Theo khoản 1, khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 13/11/2008; khoản 2
Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 quy định chi tiết thi hành
các quy định của Bộ luật Dân sự (2005) về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài, “Người nước ngoài” được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam. Bộ
luật Dân sự (2005) không có quy định thế nào là tổ chức nước ngoài nhưng tại Điều
765 về năng lực của pháp nhân nước ngoài có quy định, năng lực pháp nhân nước
ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân được thành lập. Như
vậy, có thể hiểu, tổ chức nước ngoài là chủ thể của hoạt động đầu tư là những tổ
chức được thành lập theo quy định của pháp luật nước nơi tổ chức được thành lập.
Thứ hai, về thời hạn đầu tư: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư dài hạn.
Vốn đầu tư vào nước nhận đầu tư là nguồn vốn dài hạn, ít biến động. Sở dĩ ĐTTTNN
10
là đầu tư dài hạn bởi các chủ ĐTNN khi thực hiện hoạt động kinh doanh thương
mại tại nước nhận đầu tư, ngoài việc họ mang nguồn “vốn đầu tư” từ nước ngoài
sang thì họ phải tiến hành một chu trình kinh doanh thương mại hoàn chỉnh nhằm
thực hiện mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận lâu dài. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải
có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư trực
tiếp, do đó nguồn vốn đầu tư trong trường hợp này được xác định là vốn dài hạn.
Thứ ba, mục đích đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, các
nhà ĐTTTNN được xác định là tư nhân, vốn đầu tư là vốn tư nhân, họ bỏ vốn thực
hiện hoạt động kinh doanh và họ cũng phải chịu hoàn toàn về lỗ và lãi của hoạt
động kinh doanh đó. Vì vậy, trong ĐTTTNN, tìm kiếm lợi nhuận là ưu tiên hàng
đầu của các CĐT.
Thứ tư, trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ đầu tư có quyền kiểm soát
doanh nghiệp trực tiếp nhận vốn đầu tư của mình. Quyền kiểm soát doanh nghiệp là
quyền tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua
phê chuẩn kế hoạch hành động do người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp lập,
quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định phần vốn góp giữa
các bên, tức là những quyền ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, sống còn của doanh
nghiệp. Quyền kiểm soát doanh nghiệp, xuất phát từ quyền sở hữu đối với vốn mà
CĐT bỏ ra, và xuất phát từ mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của mình mà các CĐT
được quyền kiểm soát để đảm bảo lợi ích từ hoạt động đầu tư đó.
Thứ năm, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được sự chấp thuận của
nước nhận đầu tư. Hoạt động ĐTTTNN không mang lại gánh nặng nợ nần cho nước
nhận đầu tư, với mục đích tìm kiếm lợi nhuận nên cũng không ảnh hưởng đến hoạt
động chính trị của nước sở tại. Tuy nhiên, bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng phải chịu
sự giám sát và điều tiết của Nhà nước. Nước nhận vốn đầu tư cần có cơ chế giám sát và
cấp phép đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nhất định nhằm cân bằng nền
11
kinh tế, phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng quản lý vĩ mô của mình, tránh trường hợp
chỉ phục vụ lợi ích lợi nhuận cho nhà đầu tư mà cơ cấu kinh tế mất cân đối.
1.1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay, ĐTTTNN là hoạt động được cả chủ thể đầu tư và chủ thể nhận đầu
tư đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ vai trò, lợi ích to lớn mà hoạt động ĐTTTNN
mang lại. Khi mà sự phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng trở nên gay
gắt, tạo ra một khoảng cách quá lớn thì không những các nước nghèo phải chịu
nhiều thua thiệt, mà chính nó cũng trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của các
nước giàu. Khi đã tìm ra căn nguyên gây nghèo đói của các quốc gia chậm phát
triển, các nhà kinh tế học cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang phát triển
phải có biện pháp thu hút được nguồn vốn từ ĐTTTNN. Họ cho rằng đa số các
nước đang phát triển đều thiếu vốn, khả năng tích lũy vốn hạn chế, nguồn nhân lực
bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên tương
đối phong phú, nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ… như trong một vòng
luẩn quẩn không lối thoát. Bởi vậy, muốn phát triển kinh tế phải có cú huých từ bên
ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn ấy. Cú huých đó chính là sự đầu tư của nước
ngoài vào các nước đang phát triển. Dù ĐTTTNN trước hết phục vụ cho lợi ích của
các nước công nghiệp xuất vốn chứ chưa phải nước nhận vốn nhưng nó là nhân tố
quan trọng, là giải pháp tích cực cho nền kinh tế chậm phát triển có thể vươn đến
những thị trường mới, khuyến khích việc mở rộng kỹ thuật hiện đại và những
phương pháp quản lý hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần bổ sung cho nguồn vốn trong nước.
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một
nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Khi nguồn vốn
trong nước không đủ, thì việc thu hút, bổ sung vốn ĐTTTNN sẽ đóng vai trò cực kỳ
quan trọng [18,tr69].
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý.
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được
phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết
12
quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút ĐTTTNN từ các công ty
đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh
doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những
khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, hiệu quả của việc phổ biến các công nghệ và bí quyết
quản lý đó còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của nước nhận.[3,tr.25]
Tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở ra cơ hội tham gia mạng lưới sản
xuất toàn cầu. Khi thu hút ĐTTTNN từ các công ty đa quốc gia, không chỉ các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các doanh nghiệp
khác trong nước có quan hệ hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp đó cũng sẽ tham
gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có
cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân
công. Một trong những mục đích của ĐTTTNN là khai thác các điều kiện để đạt
được chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ thuê nhiều lao động
địa phương. Khi thu nhập của một bộ phận dân cư được cải thiện sẽ đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế địa phương. Trong quá trình sử dụng lao động, doanh
nghiệp có vốn ĐTNN sẽ tổ chức đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều
trường hợp những kỹ năng này là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu
hút ĐTTTNN, điều này tạo ra đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút ĐTTTNN.
Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có
cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại nguồn thu ngân sách lớn. Đối với
nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải
Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa
trên địa bàn tỉnh năm 2006.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thứ nhất, các nhân tố liên quan đến chủ đầu tư. Hoạt động ĐTTTNN là hoạt
động mang tính chất tư nhân, nhằm mục đích lợi nhuận và xuất phát từ nhu cầu tự
13
thân của chính các CĐT. Chủ đầu tư sẽ quyết định đầu tư ra nước ngoài dưới hình
thức ĐTTTNN khi bản thân họ có các lợi thế độc quyền riêng và ĐTTTNN sẽ giúp
họ tận dụng được lợi thế nội bộ hóa các tài sản riêng này. Lợi thế độc quyền riêng
(lợi thế gắn với quyền sở hữu): CĐT có thể nghĩ đến việc đầu tư ra nước ngoài dưới
hình thức ĐTTTNN khi họ sở hữu một hoặc một số lợi thế cạnh tranh độc nhất (lợi
thế về quyền sở hữu, năng lực đặc biệt), lợi thế này giúp các CĐT khắc phục những
bất lợi trong cạnh tranh với các công ty của nước CĐT, đặc biệt nó cho phép doanh
nghiệp vượt qua các khó khăn về chi phí hoạt động ở nước ngoài. Chủ đầu tư khi
xây dựng nhà máy ở nước ngoài phải trả những chi phí phụ trội so với đối thủ cạnh
tranh của nước đó do:
- Sự khác biệt về văn hóa, luật pháp, thể chế và ngôn ngữ.
- Thiếu hiểu biết về các điều kiện thị trường nội địa.
- Chi phí thông tin liên lạc và hoạt động do sự khác biệt về địa lý.
Muốn tồn tại được ở nước ngoài, các CĐT sẽ phải tìm cách để có được thu
nhập cao hơn hoặc tiết kiệm được các chi phí khác để bù lại chi phí nước ngoài. Vì
vậy CĐT phải có một số các lợi thế không bị chia sẻ với các đối thủ cạnh tranh. Các
lợi thế này phải là lợi thế riêng biệt của doanh nghiệp, có thể là lợi thế về kiến thức,
công nghệ; giảm chi phí nhờ hoạt động với quy mô lớn; lợi thế về nội bộ hóa…
Thứ hai, các nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư. Các nước có thể có các
biện pháp khuyến khích, hỗ trợ cho các CĐT nước mình tiến hành đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài và trong những trường hợp cần thiết, cũng có thể áp dụng các biện
pháp để hạn chế, hoặc cấm đầu tư ra nước ngoài. Các biện pháp khuyến khích đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài bao gồm: tham gia ký kết các hiệp định song phương và
đa phương về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu tư; Chính phủ đứng ra bảo đảm cho
các hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Việc đầu tư ra nước ngoài có thể gây ra cho các
CĐT rất nhiều rủi ro. Nếu Chính phủ các nước đứng ra bảo hiểm cho các rủi ro này
thì nhà đầu tư của nước đó sẽ yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
14
Thứ ba, các nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư
Một là, yếu tố môi trường kinh tế của nước nhận đầu tư: Môi trường kinh tế
của nước nhận đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mà các CĐT
trước khi đầu tư phải tìm hiểu một cách kỹ lưỡng. Tùy động cơ của chủ ĐTNN mà
có các yếu tố khác nhau của môi trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng vốn ĐTTTNN.
Các CĐT có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố như dung
lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của thị
trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt của
người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị trường. Các CĐT tìm kiếm nguồn
nguyên liệu và tài sản quan tâm đến tài nguyên thiên nhiên, lao động chưa qua đào
tạo giá rẻ, lao động có tay nghề, công nghệ, phát minh, sáng chế; cơ sở hạ tầng phần
cứng như cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng, mạng lưới viễn thông,…
Các CĐT tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các nguồn tài nguyên
và tài sản được đề cập ở phần trên có cân đối với năng suất lao động; các chi phí
đầu vào khác như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc đi-đến hoặc trong nước
nhận đầu tư, chi phí mua bán thành phẩm,…
Hai là, yếu tố về chính sách pháp luật điều chỉnh ĐTTTNN của nước nhận
đầu tư. Đây được coi là yếu tố vô cùng quan trọng vì nó sẽ là cơ sở để xây dựng
một hành lang pháp lý thông thoáng hay bó hẹp đối với các nhà đầu tư; nó sẽ là yếu
tố góp phần khuyến khích hay hạn chế sự đầu tư vào quốc gia này. Nhìn chung, các
CĐT đều muốn đầu tư vào một nước có hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch và an
toàn. Hệ thống pháp luật giúp cho các nhà đầu tư nắm bắt được các quy định về đầu
tư thuế, các mức thuế, sự phân chia lợi nhuận cũng như tài sản và môi trường cạnh
tranh. Cơ chế chính sách phản ánh khả năng sinh lợi của vốn đầu tư cũng như bảo
đảm an toàn cho sự sinh lợi của đồng vốn. Vì vậy nó có ảnh hướng rất lớn đến việc
thu hút ĐTTTNN.
Ba là, yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh. Các yếu tố này bao gồm chính
sách đầu tư, các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng
cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả
15
hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước; nâng cao các dịch vụ tiện ích xã hội để
đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ ĐTNN; các dịch vụ hậu đầu tư.
Thứ tư, các nhân tố liên quan đến môi trường hợp tác kinh doanh quốc tế.
Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn định hay
không, có thuận lợi hay không thuận lợi cho nước CĐT và nước nhận đầu tư cũng
như cho chính phủ đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Nếu nền
kinh tế thế giới có sự ổn định, các nhà đầu tư sẽ an tâm đầu tư vốn của mình. Xu
hướng hợp tác quốc tế của các nước hiện nay đã kéo các nền kinh tế lại gần với
nhau, chính sự liên kết này đã tạo cơ sở cho sự lưu chuyển nguồn lực của các nước
với nhau, trong đó quan trọng là nguồn vốn. Tình hình chính trị thế giới và xu thế
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đã tác động không nhỏ tới việc ĐTTTNN, sự ổn
định hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã giúp
các nước tận dụng, phát huy được cả tiềm năng của nước mình và của nước bạn.
1.2. Khái quát pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam
Hoạt động ĐTTTNN phát sinh từ các quan hệ ĐTTTNN, các quan hệ này
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Vì
vậy, nước tiếp nhận đầu tư đã xác định hành lang pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho sự phát sinh, phát triển, vận động của các quan hệ này theo mục tiêu và ý chí
của mình. Tổng thể các quy phạm pháp luật nói trên hợp thành pháp luật về
ĐTTTNN. Nói cách khác, pháp luật về ĐTTTNN là tổng thể các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh những quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực ĐTTTNN. Đây chính là khái niệm pháp luật về ĐTTTNN phù hợp
với bất cứ nước tiếp nhận đầu tư nào, nội dung khái niệm này không chứa đựng các
quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Hoạt động ĐTTTNN vào Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Hiến pháp, Luật đầu tư có nhiều quy định
cụ thể về hoạt động này. Tiếp đó là các đạo luật điều chỉnh về địa vị pháp lý của các
16
doanh nghiệp như: Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã; hay luật quy định về các
hoạt động thương mại như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật
Chứng khoán, Luật Ngân hàng,… Luật quy định về ưu đãi, nghĩa vụ của doanh
nghiệp ĐTTTNN như: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế xuất nhập
khẩu, Luật Đất đai, Luật Môi trường,…
Bên cạnh đó, pháp luật về ĐTTTNN còn bao gồm các điều ước quốc tế song
phương và đa phương về đầu tư mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, như: Công ước
về Tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên tháng 9 năm 1985, Việt Nam tham gia năm
1993; Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trên 30 Hiệp định tránh đánh thuế
trùng mà Việt Nam đã ký kết song phương với các nước; Hiệp định thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN (AIA),... nhiều quy định
trong các hiệp định này có nội dung liên quan đến việc điều chỉnh các quan hệ đầu
tư trực tiếp được coi là các quy phạm do Nhà nước thừa nhận và là nguồn của pháp
luật về ĐTNN [11,tr27].
Pháp luật về ĐTTTNN tại Việt Nam có những đặc điểm đặc trưng sau:
Thứ nhất, pháp luật về ĐTTTNN của Việt Nam là tập hợp các chế định pháp
luật của một số ngành luật khác như Luật Hành chính, Luật Tài chính, Luật Thương
mại, pháp luật thuế,… Các quy định của các đạo luật này có sự khác nhau nhất định
về chức năng và nội dung cụ thể, tuy nhiên luật đầu tư nói chung và pháp luật về
ĐTTTNN nói riêng là một bộ phận và có mối liên hệ chặt chẽ với các bộ phận cấu
thành khác của các luật trên.
Thứ hai, pháp luật về ĐTTTNN của Việt Nam được hình thành và phát triển
trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Hệ thống pháp luật về đầu tư của
Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm xây dựng trong những năm thực hiện công
cuộc đổi mới nền kinh tế.
Thứ ba, pháp luật về ĐTTTNN của Việt Nam có một quá trình phát triển từ
thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Qua gần 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật về ĐTTTNN của Việt Nam đã được
hoàn thiện từng bước. Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý về
17
đầu tư trong nước, bằng việc ban hành Luật Đầu tư (2005), đánh dấu một bước tiến
lớn trong sự phát triển của pháp luật đầu tư; sự ra đời của Luật Đầu tư (2014) càng
thể hiện rõ hơn sự hoàn thiện của pháp luật đầu tư Việt Nam với môi trường đầu tư
thông thoáng, an toàn.
Thứ tư, pháp luật ĐTTTNN của Việt Nam là một hệ thống pháp luật vừa
mang tính chất công lại vừa mang tính chất tư điều chỉnh các quan hệ pháp luật
trong hoạt động ĐTTTNN. Pháp luật công thể hiện trong việc điều chỉnh các quan
hệ giữa Nhà nước mà đại diện là các cơ quan có thẩm quyền với nhà ĐTNN trong
việc cấp phép đầu tư và quản lý Nhà nước liên quan đến thực hiện dự án ĐTTTNN
tại Việt Nam; quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN với Nhà nước Việt
Nam thông qua các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình hoạt động của dự án đầu
tư và quản lý dự án đầu tư. Pháp luật tư thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa các nhà ĐTNN với nhà đầu
tư trong nước; giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với người lao động,…
1.2.2 Nội dung pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
* Các quy định về chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là
các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật ĐTTTNN tại Việt Nam. Quy định về chủ thể là một quy định
quan trọng, nó quyết định phạm vi quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này.
* Các quy định về hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Pháp luật quy định
cụ thể về hình thức đầu tư và nội dung của hình thức đó. Về nguyên tắc các doanh
nghiệp có thể được chấp nhận lựa chọn đầu tư theo hình thức đầu tư như: doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp doanh, hợp đồng đầu tư,…
* Các quy định về lĩnh vực, địa bàn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Pháp luật
của nước ta có quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các lĩnh vực bị cấm đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Quy định này mang ý nghĩa chính trị xã hội, đảm bảo ổn
định chính trị và lợi ích quốc gia.
18
* Các quy định về khuyến khích, bảo đảm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các
quy định này mang ý nghĩa quan trọng và là lực hút đối với các nhà ĐTNN khi
quyết định đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
* Các quy định về thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là quá
trình đăng ký, thẩm định cấp giấy chứng nhận ĐTTTNN tại Việt Nam. Quy định về
thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng tới sự vận động, phát triển của quá trình
ĐTTTNN, thủ tục thông thoáng sẽ tạo tâm lý thoải mái cho các nhà ĐTNN khi
quyết định đầu tư vào thị trường Việt Nam.
* Các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam. Pháp luật về ĐTTTNN tại Việt Nam quy định những quyền lợi
mà bất cứ chủ thể nào khi tham gia quan hệ pháp luật này đều được hưởng. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng đặt ra nghĩa vụ buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
Nhà nước khi tiến hành ĐTTTNN tại Việt Nam.
1.2.3 Vai trò của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật về ĐTTTNN thừa nhận, định hướng và thúc đẩy các hoạt
động ĐTTTNN, là công cụ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam. Xu thế quốc tế hóa đời sống xã hội, kết quả của quá trình
phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các
nước và các vùng lãnh thổ từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong bối
cảnh đó, việc tách biệt, đóng cửa với thế giới của một quốc gia sẽ đẩy quốc gia đó
cách xa khỏi sự tiến bộ về văn hóa, khoa học kỹ thuật của xã hội. Việc thu hút
ĐTTTNN là một trong những hình thức thu hút vốn kinh doanh khá hữu hiệu hiện
nay của các nước, đã và đang trở thành phổ cập tại rất nhiều nước. Pháp luật quy
định về ĐTTTNN vào Việt Nam đã đưa lại lợi ích quốc gia khi biến nó trở thành
công cụ để khuyến khích, hỗ trợ, bảo đảm quyền và lợi ích để các doanh nghiệp
nước ngoài mạnh dạn đầu tư vốn, thu được lợi nhuận kinh doanh đáng kể cho đất
nước. Nhờ sự thừa nhận chính thức của pháp luật mà các quan hệ ĐTTTNN vào
Việt Nam phát sinh và cũng chính các quy định về hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu
tư, chủ thể đầu tư, biện pháp bảo đảm, biện pháp khuyến khích, biện pháp hạn
19
chế,… mà pháp luật ĐTTTNN định hướng được sự phát triển của các quan hệ
ĐTTTNN vào Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật ĐTTTNN là công cụ quản lý của Nhà nước về hoạt động
ĐTTTNN tại Việt Nam. Quan hệ về ĐTTTNN vào Việt Nam là quan hệ mang bản
chất kinh tế thị trường nên không thể tránh khỏi những hạn chế cố hữu của bất cứ
hoạt động thị trường nào như: tính tự phát, chạy theo lợi nhuận tối đa, ít chú ý tới
lợi ích của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, pháp luật ĐTTTNN đóng vai trò thực sự là
một công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước nhằm định hướng, giới hạn “hành
lang” và phát huy tối đa các mặt tích cực của hoạt động này. Pháp luật vừa là công
cụ quyền lực, vừa có khả năng chống lại sự lạm quyền, nhũng nhiễu, gây khó khăn
cho các doanh nghiệp của một số cán bộ công chức biến chất trong bộ máy công
quyền. Như vậy, pháp luật ĐTTTNN là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc
quản lý các hoạt động ĐTTTNN nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những
tiêu cực của quá trình luân chuyển vốn từ nước ngoài vào lãnh thổ quốc gia.
Thứ ba, pháp luật ĐTTTNN góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống
pháp luật của Việt Nam về đầu tư. Nếu ĐTTTNN là hoạt động kinh tế có vai trò
thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước thì pháp luật về ĐTTTNN
là một bộ phận pháp luật cũng có vai trò tác động làm phát sinh nhu cầu nội sinh
của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Các quy định của pháp luật về ĐTTTNN
đang ngày càng trở nên hợp lý, bảo đảm tính rõ ràng và thống nhất, góp phần hoàn
thiện môi trường pháp lý về ĐTTTNN, phù hợp với thông lệ quốc tế về đầu tư và
thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam.
Thứ tư, pháp luật ĐTTTNN là một trong những yếu tố tạo lên lợi thế cạnh
tranh quốc tế trong phát triển kinh tế. Do có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy các
hoạt động ĐTTTNN nên pháp luật về ĐTNN tiến bộ, thông thoáng sẽ là một lợi thế
cạnh tranh trong thu hút ĐTNN của mỗi nước. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế,
môi trường đầu tư ở các nước luôn được cải thiện. Sự chênh lệch khá xa về nhu cầu
và khả năng cung cấp vốn đầu tư trực tiếp càng làm cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu
tư trực tiếp thêm gay gắt. Hầu hết các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực đều