BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHAIVANH OUNVILAI
HỆ THỐNG HÌNH PHẠT- SO SÁNH GIỮA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ LÀO VÀ VIỆT NAM
Chuyên ngành
Mã số
: Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự
: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG QUANG VINH
HÀ NỘI- 2015
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Hình sự đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng
viên, TS. Trương Quang Vinh, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHAIVANH OUNVILAI
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Hà Nội xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHAIVANH OUNVILAI
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
CHDCND
: Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHXHCN
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT VÀ HỆ THỐNG HÌNH
PHẠT
6
1.1. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt theo pháp luật
hình sự Lào
6
1.1.1. Khái niệm hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
6
1.1.2. Mục đích của hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
8
1.2. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt theo pháp luật
hình sự Việt Nam
10
1.2.1. Khái niệm hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
10
1.2.2. Mục đích của hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
13
1.3. Khái niệm hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Lào và Việt
Nam
18
1.3.1. Khái niệm hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
18
1.3.2. Khái niệm hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
22
CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG HÌNH PHẠT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ LÀO VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
2.1.1. Các hình phạt chính
23
23
23
2.1.2. Các hình phạt bổ sung
2.2. Hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
26
29
2.2.1. Các hình phạt chính
29
2.2.2. Các hình phạt bổ sung
42
2.3. Hệ thống hình phạt- So sánh giữa hệ thống hình phạt của pháp
luật hình sự Lào và Việt Nam
50
2.3.1. Điểm giống nhau giữa hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự
Lào và Việt Nam
50
2.3.2. Điểm khác nhau giữa hệ thống hình phạt Lào và Việt Nam
54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
58
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỆ THỐNG
HÌNH PHẠT CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ LÀO VÀ VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
59
3.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống hình phạt của
pháp luật hình sự Lào
59
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống hình phạt của
pháp luật hình sự Việt Nam
62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
63
KẾT LUẬN
64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
66
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hình phạt là một công cụ có vai trò rất quan trọng trong cuộc đất tranh
phòng chống các vi phạm pháp luật và tội phạm. Trong hệ thống các biện
pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm, các vi phạm pháp luật
thì hình phạt là một bộ phận không thể thiếu. Do đó, việc nghiên cứu và có
những thay đổi liên quan đến hệ thống hình phạt phù hợp với tình hình của
mỗi Nhà nước góp phần cung cấp những luận cứ khoa học để việc hoàn thiện
chế định hình phạt đạt kết quả cao.
Trong luật Hình sự, hình phạt được coi là phương tiện nhằm đấu tranh
phòng chống tội phạm, đảm bảo và phát huy tính dân chủ trong xã hội quan
trọng nhất. Tuy nhiên, để tác dụng của hình phạt cao thì phụ thuộc vào nhiều
yếu tố tác động khác nhau như yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó việc
nhận thức, phát huy đúng bản chất, mục đích áp dụng hình phạt có một là rất
quan trọng. Do đó, việc nắm vững và áp dụng “chuẩn” chế định hình phạt là
một trong những yêu cầu cơ bản của hoạt động đấu tranh phòng chống tội
phạm. Xã hội ổn định và luật hình sự tốt thì nhiệm vụ phụ thuộc nhiều vào hệ
thống hình phạt. Vì vậy, nghiên cứu về hình phạt và hệ thống hình phạt là một
trong những việc làm có tính cấp thiết trong khoa học luật hình sự hiện nay.
Khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hình phạt, không chỉ tìm hiểu
hệ thống hình phạt trong phạm vi hẹp một Nhà nước mà cần tìm hiểu và chọn
lọc những kinh nghiệm của các Nhà nước trong việc quy định và thực tiễn áp
dụng các loại hình phạt để từ cơ sở đó theo phương pháp nghiên cứu so sánh
luật nhằm hoàn thiện chế định hình phạt trong Luật hình sự Cộng hòa Dân
chủ nhân dân Lào, nâng cao hiệu quả của hình phạt trong công tác đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm.
2
Hơn nữa, cùng với quá trình hội nhập và phát triển đất nước, việc “thực
hiện chính sách hòa bình hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau,
trên cơ sở độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi” [3, tr.17]
thì vấn đề tìm hiểu một cách khoa học các quan niệm khác nhau, cũng như
tăng cường nghiên cứu, phát triển luật so sánh về pháp luật của các nước trên
thế giới trở thành một vấn đề cấp thiết.
Trong lĩnh vực pháp luật nói chung và trong lĩnh vực hình phạt nói
riêng, sự so sánh giữa pháp luật các nước sẽ giúp chúng ta nâng cao kiến
thức, nhận biết những điểm mạnh, điểm yếu trong hệ thống hình phạt của
Nhà nước để hoàn thiện theo trình độ quốc tế và giữ được vai trò, bản chất
của pháp luật Lào.
Xuất phát từ đòi hỏi khoa học, yêu cầu thực tiễn và góp phần hoàn
thiện hệ thống hình phạt trong Luật hình sự hiện hành của Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào, tác giả chọn đề tài: “Hệ thống hình phạt - So sánh giữa hệ
thống pháp luật hình sự Lào và Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn
Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hệ thống hình
phạt của pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào có rất nhiều công trình nghiên
cứu như:
Nguyễn Ngọc Hòa,“Mục đích của hình phạt” Tạp chí Luật học số
1/1999; Nguyễn Mạnh Kháng, “Hình phạt - một số vấn đề lí luận”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 10/2000; Lê Cảm, “Một số vấn đề cơ bản về hình
phạt”, Tạp chí Công an nhân dân, số 5/2001; Dương Tuyết Miên, “Bàn về
mục đích của hình phạt”, Tạp chí Luật học, số 3/2000; Dương Tuyến Miên,
3
“So sánh chế định hình phạt một số nước Asean và Việt Nam”, Tạp chí Luật
học, số 12/2009; Sysouda Sophavadee “Có nên bỏ hình phạt tử hình hay
không?”, Tạp chí Luật và Tư pháp của Bộ Tư pháp Lào, số 3/2009; Khamxay
Chittakon, “Trong thời gian tới có nên sử dụng Điều 30 và Điều 33 trong
Luật Hình sự”, Tạp chí Luật và Tư pháp của Bộ Tư pháp Lào, số 3/2009.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể,
toàn diện vấn đề hệ thống hình phạt dưới góc độ so sánh giữa pháp luật
hình sự Lào và pháp luật hình sự Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu đề tài “Hệ
thống hình phạt - So sánh giữa pháp luật hình sự Lào và Việt Nam” là việc
làm hết sức cần thiết nhằm so sánh pháp luật giữa hai nước liên quan đến
các quy định về hệ thống hình phạt, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của hệ thống hình phạt của Lào và Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hệ thống hình phạt theo
pháp luật hình sự Lào và pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tập trung chủ yếu vào khái
niệm hình phạt, mục đích của hình phạt và nội dung của hệ thống hình phạt
được thể hiện ở Luật Hình sự Lào và phần chung của BLHS hiện hành của
Việt Nam nhưng không đề cập đến hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: So sánh luật hình sự Lào với BLHS Việt Nam
trong việc quy định những vấn đề liên quan đến hệ thống hình phạt để từ đó
có thể đề xuất những kiến nghị cho việc hoàn thiện chế định hình phạt trong
luật hình sự CHDCND Lào.
4
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích khái niệm hình phạt, mục đích hình phạt và nội dung của hệ
thống hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích khái niệm hình phạt, mục đích hình phạt và nội dung của hệ
thống hình phạt theo pháp luật hình sự CHDCND Lào. Từ đó so sánh, đối
chiếu với pháp luật hình sự Việt Nam để thấy những ưu điểm và hạn chế của
hệ thống hình phạt CHDCND Lào.
- Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị để hoàn thiện hệ thống hình phạt của
nước CHDCND Lào trên cơ sở các nguyên tắc của luật hình sự và chính sách
hình sự của nước CHDCND Lào nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm và làm cho hệ thống hình phạt nước CHDCND Lào có
những nét tương đồng về kỹ thuật lập pháp, hiệu quả áp dụng của hình phạt
với xu hướng phát triển chung của thế giới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Tác giả nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên
cứu:hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh.
6. Những kết quả nghiên cứu của luận văn
Qua việc nghiên cứu, phân tích, so sánh giữa pháp luật hình sự Việt
Nam và pháp luật Lào về một số vấn đề liên quan đến hệ thống hình phạt,
luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung hệ thống hình phạt của mỗi nước.
Đồng thời tạo ra khả năng ứng dụng những kết quả nghiên cứu so sánh trong
việc tham khảo học tập kinh nghiệm của Việt Nam nhằm hoàn thiệt và phát
triển hệ thống hình phạt của pháp luật Lào theo xu hướng chung của thế giới.
Ở một mức độ nhất định nào đó, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cán
bộ nghiên cứu và giảng dạy cũng như sinh viên trong lĩnh vực luật .
5
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Bảng viết tắt,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về hình phạt và hệ thống hình phạt.
Chương 2. Hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Lào và Việt Nam
hiện nay
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu của hệ thống hình phạt
pháp luật hình sự Lào và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT VÀ HỆ THỐNG
HÌNH PHẠT
1.1. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt theo pháp luật
hình sự Lào
1.1.1. Khái niệm hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
Nước CHDCND Lào hay còn gọi là “đất nước Triệu voi”, là một quốc
gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Phía Tây Bắc giáp Mianma và Trung Quốc,
phía Đông giáp Việt Nam, phía Tây giáp Thái Lan. Với đường biên giới
chung với Việt Nam kéo dài khoảng 2.067 km, Lào là quốc gia láng giềng rất
thân thiện với Việt Nam. Do đó, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
tôn giáo Lào có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.
Về lĩnh vực pháp luật, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào rất quan
tâm đến việc bảo vệ hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội, an ninh trật tự công
cộng đồng thời luôn tích cực ngăn chặn các hành vi phạm tội, giáo dục mọi
công dân tôn trọng pháp luật. Trong quá trình giữ gìn và phát triển đất nước,
các cơ quan có thẩm quyền luôn chú ý ban hành những văn bản pháp luật để
bảo vệ những lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân.
Để thực hiện bảo vệ tốt chế độ, pháp luật hình sự Lào đã xác định hành
vi nào là tội phạm và xác định các loại hình phạt, mức hình phạt tương ứng
với mỗi loại tội phạm đã thực hiện trên thực tế.
Luật hình sự Lào có nhiều quy định về hình phạt, bao gồm 10 Điều luật
quy định tại Chương V Luật Hình sự, từ Điều 27 đến Điều 36. Tuy nhiên,
không có điều luật nào quy định về khái niệm hình phạt mà chỉ nêu mục đích
hình phạt và các loại hình phạt. Điều 2 Luật Hình sự Lào quy định: “Người
nào có hành vi cố ý hoặc vô ý gây nguy hiểm cho xã hội đã được quy định
7
trong Luật hình sự và các luật khác của nước CHDCND Lào thì phải chịu
trách nhiệm hình sự và phải chịu quyết định hình phạt”.
Dựa vào quy định trên chúng ta có thể hiểu hình phạt là: “các biện pháp
bắt buộc của Nhà nước đã được quy định trong Luật hình sự hoặc các luật
khác của nước CHDCND Lào do Tòa án quyết định hình phạt đối với người
phạm tội”. Như vậy, dựa vào định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy hình phạt
Lào có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Hình phạt là các biện pháp bắt buộc của Nhà nước. Đúng
vậy, Nhà nước là chủ thể có quyền ra các quyết định hình phạt thông qua cơ
quan chuyên môn, cơ quan chức năng của Nhà nước. Tính bắt buộc của hình
phạt được thể hiện rất rõ khi người phạm tội có hành vi bị coi là tội phạm thì
phải chịu các mức hình phạt tương ứng với mức độ, hậu quả của hành vi mà
mình đã gây ra. Khi bị Tòa án tuyên hình phạt thì người phạm tội phải có
nghĩa vụ thi hành án, không được chống đối.
Thứ hai: Hình phạt được quy định trong Luật hình sự và các luật khác
có liên quan của nước CHDCND Lào. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Luật
hình sự Lào là đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm không xảy ra, để
cuộc sống của người dân được yên bình. Trong khi đó, công cụ hữu hiệu và
được coi là có hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó là hình
phạt. Do đó, hình phạt là một trong những chế định quan trọng nhất của Luật
hình sự và phải được quy định trong Luật hình sự và các luật khác. Khi hình
phạt được áp dụng đối với người phạm tội thì cũng là lúc mà người phạm tội
phải chịu những ảnh hưởng rất lớn, bởi khi đó người phạm tội bị tước bỏ
quyền công dân hay bị hạn chế một số quyền và nghĩa vụ, nếu nặng hơn thì
họ có thể bị tước tự do trong khoảng thời gian bị áp dụng hình phạt.
Thứ ba: Hình phạt phải được quyết định cho người phạm tội. Điều 3
Luật Hình sự Lào quy định: “chỉ người nào phạm tội đã được Luật hình sự
8
quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, với tính chất là một
biện pháp trách nhiệm hình sự, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
bị coi là tội phạm mà người phạm tội phải chịu hành phạt. Và khi đó hình
phạt sẽ được quyết định đối với người phạm tội.
Thứ tư: Tòa án là cơ quan thay mặt nhà nước ra quyết định hình phạt
cho người phạm tội. Hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội chính là
sự thể hiện việc lên án của Nhà nước đối với các hành vi phạm tội trái pháp
luật. Do đó, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội
về những hành vi nguy hiểm mà họ đã gây ra cho xã hội là một tất yếu khách
quan. Với vai trò là cơ quan xét xử duy nhất của nhà nước, Tòa án sẽ thay mặt
nhà nước ra quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
1.1.2. Mục đích của hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
Đây là vấn đề rất quan trọng trong luật hình sự Lào, bởi mục đích của
hình phạt là cơ sở để nhà làm luật quy định về từng loại hình phạt, hệ thống
hình phạt cũng là căn cứ để quyết định hình phạt một cách chính xác nhất.
Đồng thời đó cũng là cơ sở để áp dụng hình phạt đạt hiệu quả cao trên thực tế.
Điều 27 Luật hình sự Lào quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm mục
đích trừng phạt người phạm tội mà còn nhằm cải tạo người phạm tội có thái
độ trong sáng đối với công việc, tôn trọng và tuân thủ pháp luật chặt chẽ, tôn
trọng các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa họ tái phạm và ngăn ngừa
người khác phạm tội. Hình phạt không có mục đích gây đau đớn về thể xác và
hạ thấp phẩm giá của con người”. Như vậy, chúng ta có thể thấy Luật hình sự
Lào quy định về mục đích của hình phạt rất rõ ràng, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Hình phạt là sự trừng phạt đối với người phạm tội. Trừng
phạt là sự lên án của Nhà nước, của người dân trong xã hội. Điều này được
thể hiện thông qua việc Tòa án đưa ra những quyết định, bản án nhằm “trừng
trị” người phạm tội đã gây ra những hành vi nguy hiểm cho nạn nhân cũng
9
như xã hội. Tuy nhiên, sự trừng phạt đối với người phạm tội phải căn cứ vào
quy định của luật, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội
đã gây ra, nhân thân người phạm tội… để các cơ quan có thẩm quyền đưa ra
loại và mức trừng phạt tương xứng, nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa hành vi
phạm tội và sự trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội.
Thứ hai: Hình phạt nhằm mục đích cải tạo người phạm tội có thái độ
trong sáng với công việc, tôn trọng và tuân thủ pháp luật và các quy tắc của
đời sống xã hội. Đây là mục đích có ý nghĩa rất lớn đối với người phạm tội.
Bởi thông qua việc bị áp dụng hình phạt, người phạm tội không chỉ bị trừng
phạt mà còn có thời gian nhìn lại sự việc, hành động mà mình đã gây ra cho
xã hội để có những hành động, suy nghĩ đúng đắn hơn sau khi chấp hành
xong hình phạt. Đồng thời, khi bị áp dụng hình phạt, hình phạt sẽ giúp họ sửa
đổi suy nghĩ và hành động theo chiều hướng tích cực đó là phải có thái độ
trong sáng với những công việc hợp pháp.
Bên cạnh đó, hình phạt buộc họ phải sống trong khuôn khổ với những
quy định chặt chẽ trong sự giám sát của các cán bộ trại giam. Chính ở trong
môi trường này người phạm tội sẽ được cải tạo, giáo dục và dần hình thành
thói quen tôn trọng và tuân thủ pháp luật, yêu lao động, sống phù hợp với các
quy tắc, chuẩn mực của đời sống xã hội, không có những hành vi vi phạm
pháp luật và trở thành người có ích cho xã hội.
Thứ ba: Hình phạt nhằm mục đích ngăn ngừa người phạm tội tái phạm
và người khác phạm tội. Hình phạt được tuyên đối với người phạm tội đã tác
động trực tiếp đến bản thân họ, thông qua hình phạt đó nhằm mục đích để
người phạm tội thấy rõ sự trừng trị nghiêm khắc của pháp luật, ngăn ngừa họ
không có những hành vi vi phạm pháp luật tiếp theo. Bên cạnh đó, hình phạt
còn tác động đến tâm lý của những cá nhân sống trong xã hội, đặc biệt là
những cá nhân không vững vàng trong xã hội, để tự bản thân họ kìm chế, thức
10
tỉnh không có hành vi phạm tội cũng như ý thức phải tuân thủ pháp luật, các
quy tắc của đời sống xã hội, nếu có ý định phạm tội thì phải từ bỏ ý định
phạm tội hoặc tự nâng cao cảnh giác cho bản thân để không tự đưa mình vào
các tình huống rồi trở thành người phạm tội. Bên cạnh đó, hình phạt cũng
nhằm tập hợp, động viên quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm, nhằm giảm những tiêu cực và đảm bảo cuộc
sống yên bình trong xã hội.
Thứ tư: Hình phạt không có mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ
thấp phẩm giá của con người. Mục đích của hình phạt có quy định như là một
“giới hạn” phải áp dụng khi quyết định hình phạt đối với những người phạm
tội đó là: “hình phạt không có mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp
phẩm giá của con người”. Như vậy, khi đưa ra hình phạt, bắt buộc người có
thẩm quyền phải xác định, lựa chọn những hình phạt phù hợp, sao cho hình
phạt đó phải không “gây đau đớn về thể xác” và “hạ thấp phẩm giá con
người”. Đây là cơ sở để quy định các hình phạt cụ thể trong hệ thống hình
phạt Lào cũng như chính sách có tính nhân đạo của pháp luật hình sự Lào.
1.2. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt theo pháp luật
hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam là một trong những công cụ
hữu hiệu, sắc bén góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân… Trong đó, hình phạt của luật hình sự là biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với người thực hiện tội phạm không những
mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội mà con ngăn ngừa tội phạm.
Nhìn lại lịch sử pháp luật hình sự của Việt Nam, có thể thấy các chế
định về hình phạt đã được quy định trong BLHS Việt Nam từ rất sớm. Tuy
nhiên, do một số hoàn cảnh lịch sử của đất nước do đó nội dung và kỹ thuật
11
lập pháp của các chế định về hình phạt vẫn còn một số hạn chế. Cùng với sự
phát triển của đất nước về kinh tế - chính trị và xã hội thì pháp luật hình sự
của Việt Nam có nhiều thay đổi, bổ sung để kịp thời điều chỉnh những quan
hệ xã hội mới.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây nghiên cứu về vấn đề hình phạt
thì có rất nhiều quan điểm khác nhau và nó được nghiên cứu, bình luận giống
như một khái niệm cơ bản của luật hình sự. Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Quang,
thì hình phạt được hiểu đó là: “biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của Nhà
nước được quy định trong luật hình sự do tòa án áp dụng đối với người phạm
tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích với mục đích cải tạo,
giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa người tội phạm, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”[4]; hoặc “đó
là biện pháp cưỡng chế do tòa án quyết định trong bản án đối với người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn
chế các quyền và lợi ích hợp pháp do pháp luật quy định đối với người bị kết
án”[5] hoặc theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS. TS Lê Thị Sơn thì
hình phạt được hiểu đó là: “biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được luật
hình sự quy định và do tòa án áp dụng, có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội, nhằm trừng trị, giáo dục họ, cũng như
nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội
phạm” [6, tr. 64].
Khi BLHS năm 1999 ra đời thì hình phạt được quy định rất cụ thể tại
Điều 26, theo đó hình phạt được quy định là: “biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người
phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định”.
Như vậy, theo quy định này thì hình phạt có những đặc điểm cơ bản sau:
12
Thứ nhất: Hình phạt là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất.
Tính nghiêm khắc của hình phạt được thể hiện rõ nhất đó là khi người bị kết
án bị tước đi quyền tự do, quyền tài sản, quyền chính trị, thậm chí là quyền
sống (đối với trường hợp bị kết án tử hình). Ngoài ra, những hình phạt khác
nhẹ hơn như hình phạt cảnh cáo, hình phạt tiền thì vẫn là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc hơn các chế tài hành chính, dân sự, kinh tế… bởi, khi bị áp dụng
các chế tài khác thì người bị áp dụng các chế tài đó không bị coi là có án tích,
còn hình phạt bao giờ cũng để lại hậu quả pháp lý cho người bị áp dụng, đó là
án tích cho người bị kết án.
Thứ hai: Hình phạt là của Nhà nước, phải được quy định trong BLHS.
BLHS là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Ở Việt Nam,Quốc hội là cơ quan
quyền lực Nhà nước thay mặt Nhà nước đặt ra các hình phạt quy định trong
BLHS. Theo quy định của BLHS Việt Nam thì được áp dụng các hình phạt
đối với những hành vi được quy định trong BLHS là tội phạm và hình phạt ấy
phải được quy định trong hệ thống hình phạt hiện hành, trong chế tài của điều
luật cụ thể. Các dấu hiệu thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính
trái pháp luật hình sự luôn phải gắn liền với tính chịu hình phạt của tội
phạm… và khi quy định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì
hình phạt và mức hình phạt phải tương xứng với hành vi nguy hiểm đó cho xã
hội của tội phạm.
Thứ ba: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết định và
được áp dụng theo một trình tự riêng biệt nhất định. Tòa án là cơ quan có
thẩm quyền duy nhất được áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Điều 26
BLHS Việt Nam quy định: “hình phạt do Tòa án quyết định”. Những thủ tục
áp dụng các hình phạt được thực hiện theo các trình tự quy định tại Bộ luật Tố
13
tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Như vậy, hình phạt
do Tòa án quyết định áp dụng đối với người bị coi là tội phạm phải là kết quả
của một phiên tòa hình sự theo thủ tục đã được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự và phải được Tòa án tuyên bố một cách công khai bằng bản án.
Thứ tư: Hình phạt mang tính chất xã hội. Đúng vậy, việc quy định nội
dung hình phạt trong BLHS Việt Nam luôn phụ thuộc vào các điều kiện kinh
tế - xã hội của đất nước ở từng giai đoạn. Việc quy định thêm nhiều hình phạt
mới, bỏ một hình phạt cụ thể nào đó hay việc quyết định hình phạt, đánh giá
hiệu quả của hình phạt phải đặt trong điều kiện của từng giai đoạn lịch sử cụ
thể của đất nước, gắn liền với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội
trong giai đoạn cụ thể đó.
Thứ năm: Hình phạt chỉ mang tính cá nhân. Hình phạt chỉ được áp
dụng đối với người bị kết án.Hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước,
điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự phát sinh giữa Nhà nước và người phạm
tội và chỉ áp dụng đối với người phạm tội. Những công dân bình thường,
không có hành vi nguy hiểm cho xã hội, không bị coi là tội phạm thì không bị
áp dụng hình phạt của Nhà nước. Tuy nhiên, hình phạt áp dụng cho cá nhân
người phạm tội không được tùy tiện mà phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội… để hình phạt áp
dụng đối với họ được chính xác, đảm bảo sự tương xứng giữa hành vi phạm
tội và hình phạt phải chịu trước Nhà nước.
1.2.2. Mục đích của hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
Mục đích của hình phạt là mục tiêu, là cái “đích” mà BLHS hướng tới
nhằm áp dụng đối với người phạm tội, cũng như giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến pháp luật đối với họ. Do đó, nếu BLHS không xác định chính xác mục
đích trên thì mục đích của hình phạt không thể đạt được. Mục đích hình phạt
có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với người phạm tội mà còn đối với cả
14
xã hội. Bởi, hiệu quả của hình phạt được xác định từ mức độ xây dựng hình
phạt và kết quả tích cực đạt được khi áp dụng hình phạt trong thực tiễn. Bên
cạnh đó, mục đích hình phạt còn đóng vai trò là giới hạn của hình phạt, là cơ
sở, là căn cứ để xác định nội dung hình phạt.
Điều 27 BLHS Việt Nam (đã sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định
mục đích hình phạt như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Như vậy, theo quy
định của BLHS Việt Nam thì hình phạt có mục đích trừng trị, giáo dục
người phạm tội, đồng thời còn giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
phòng ngừa và chống tội phạm.
Mục đích của hình phạt đã được quy định rất chi tiết trong BLHS, tuy
nhiên trong nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề trừng trị có phải là mục đích của hình
phạt không hay đó là nội dung, là thuộc tính của hình phạt.
Có một số nhà luật học cho rằng mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo
dục người phạm tội để người phạm tội trở thành người lương thiện, có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như
giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Có quan điểm cho rằng: “trừng trị là nội
dung, là thuộc tính, là phương thức để thực hiện hình phạt…” [7]. Hoặc có
quan điểm khác thì cho rằng: “trừng trị không phải là mục đích của hình
phạt” mà cho rằng đó là “bản chất, là thuộc tính tất yếu của hình phạt”. [8]
hay theo Nguyễn Mạnh Kháng, thì cho rằng: “cả trừng trị và cải tạo, giáo
dục người phạm tội đều không thể là mục đích cuối cùng của hình phạt” và “
mục đích cuối cùng của hình phạt là bảo đảm công bằng xã hội và phòng
15
ngừa tội phạm, còn trừng trị và cải tạo, giáo dục là thuộc tính, là phương
thức thực hiện hình phạt, là phương thức để hình phạt đạt được mục đích của
mình” [9, tr.23].
Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: “trừng trị là mục đích
nhưng đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng và
chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục, cải tạo họ” [10,
tr.10]. Bởi vì, công lý đòi hỏi người nào gây ra tội phạm thì phải tự chịu
trách nhiệm về hành vi của mình. Hình phạt là phương tiện để trừng phạt đối
với người phạm tội.
Về nội dung, hầu như hình phạt nào cũng chứa đựng trong bản thân nó
những tước bỏ và hạn chế nhất định về mặt thể chất, tinh thần và tài sản. Ví
dụ: hình phạt tịch thu tài sản tước đoạt quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng tài
sản của người bị kết án; hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những công
việc nhất định tước đoạt ở người bị kết án khả năng có những quyền đó; hình
phạt cấm cư trú, quản chế tước quyền tự do lựa chọn chỗ ở của những người
bị kết án. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội và nhân thân người phạm tội mà họ phải chịu những mức độ tước bỏ
hay hạn chế những quyền lợi này. Và điều đó cũng đồng nghĩa rằng, tội phạm
càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm có tính nghiêm khắc càng cao. Do vậy, trong hệ thống hình phạt của
BLHS Việt Nam có một số hình phạt chủ yếu mang tính trừng trị như hình
phạt tù chung thân, hình phạt tử hình.
Trừng trị là mục đích mang tính tự nhiên của hình phạt và trong khoa
học luật hình sự Việt Nam không thừa nhận quan điểm coi hình phạt là sự trả
thù đối với những người phạm tội vì những hành vi nguy hiểm, những tội ác
mà người đó đã thực hiện. Với mục đích trừng trị, ở một góc độ nào đó hình
phạt thể hiện sự lên án, thái độ nghiêm khắc của Nhà nước, của xã hội đối với
16
người phạm tội. Thái độ lên án này được thể hiện cụ thể bằng việc buộc người
phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hình vi phạm tội.
Tuy nhiên, với mục đích của hình phạt là trừng trị người phạm tội
nhưng điều đó không có nghĩa là xử nặng người phạm tội. Bởi thực tế, hệ
thống hình phạt của Việt Nam vẫn còn có những hình phạt mặc dù mang tính
cưỡng chế nhưng vẫn thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam
như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ. Ngoài ra, khi quyết định hình phạt đối
với người phạm tội phải dựa vào các căn cứ được quy định trong BLHS đó là
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hình phạt mà Tòa án
tuyên đối với bị cáo phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, đủ để răn đe những người phạm tội, đồng thời còn giáo
dục người khác tôn trọng, có ý thức tuân thủ pháp luật.
Như vậy, ngoài các mục đích đã phân tích ở trên, hình phạt còn có mục
đích phòng ngừa, bao gồm phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
Với mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt được thể hiện ở chỗ:
hình phạt chỉ áp dụng đối với người phạm tội và không chỉ nhằm trừng trị
người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Việc phòng ngừa riêng của hình phạt chính là sự tước
bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật
hình sự đối với những người bị áp dụng hình phạt. Theo PGS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa thì: “hình phạt trước hết thể hiện sự lên án, sự phạt của Nhà nước,
của xã hội đối với người phạm tội. Nhưng đó không phải là sự lên án, sự phạt
đơn thuần mà là biện pháp đặc biệt để răn đe (răn đe bằng tác động cưỡng
chế nhà nước) để giáo dục, cải tạo (giáo dục, cải tạo bằng tác động cưỡng
chế nhà nước) người bị kết án, ngăn ngừa họ phạm tội lại. Hình phạt cũng
17
còn là biện pháp đặc biệt để hạn chế (có thể đến loại trừ) điều kiện phạm tội
lại của người bị kết án” [10].
Như vậy, mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục
người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích có mối quan hệ
rất chặt chẽ với nhau. Bởi, chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu
là cải tạo, giáo dục người phạm tội nếu hình phạt áp dụng đối với họ tương
xứng với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Nhà nước trừng trị người phạm
tội một cách công minh là một trong những phần quan trọng để tạo cơ sở cho
việc cải tạo, giáo dục người phạm tội được tốt và ngược lại cải tạo, giáo dục
người phạm tội cũng chính là góp phần phát huy tính tích cực của nội dung
trừng trị người phạm tội.
Với mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt: thì mục đích này được
thể hiện ở việc ngăn ngừa người khác phạm tội. Nhà nước đã quy định hình
phạt trong BLHS và khi áp dụng đối với người phạm tội, trong từng trường
hợp cụ thể hình phạt không chỉ tác động đến người phạm tội mà còn tác
động đến những người khác trong xã hội về mặt tâm lý. Đối với những thành
phần “không vững vàng” thì hình phạt có tạc dụng rất lớn trong việc ngăn
ngừa họ phạm tội.
Bên cạnh đó, đối với những thành viên khác trong xã hội, hình phạt có
mục đích giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho họ và động viên, khuyến
khích người dân tích cực tham gia vào việc đấu tranh ngăn ngừa và chống tội
phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích phòng ngừa chung của hình phạt đòi
hỏi phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp về kinh tế, chính trị,
tư tưởng, pháp lý, biện pháp văn hóa, giáo dục… Trong đó, biện pháp tuyên
truyền, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật cho người dân là biện
pháp rất quan trọng. Bởi, mục đích phòng ngừa chung của hình phạt chỉ đạt
18
hiệu quả cao khi người dân hiểu biết pháp luật, thấy được sự cần thiết của
việc tuân thủ pháp luật và ý nghĩa xã hội của hình phạt.
Mục đích chung của hình phạt bao gồm mục đích phòng ngừa riêng và
phòng ngừa chung, đây là hai mặt của thể thống nhất, tác động qua lại lẫn
nhau. Do đó, nếu xem xét nhẹ phòng ngừa riêng, người phạm tội đã bị áp
dụng hình phạt vẫn coi thường pháp luật thì không thể đạt được kết quả tốt
trong phòng ngừa chung, không làm cho những người khác trong xã hội tôn
trọng pháp luật. Và ngược lại, nếu phòng ngừa chung bị hạn chế, trật tự pháp
luật không được tôn trọng thì người bị kết án sẽ thiếu môi trường thuận lợi để
họ có thể trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
1.3. Khái niệm hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Lào và
Việt Nam
1.3.1. Khái niệm hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự Lào
Điều 28 Luật hình sự Lào quy định về các loại hình phạt như sau:
“Hình phạt chính bao gồm: 1. Cảnh cáo trước công chúng; 2. Cải tạo không
giam giữ; 3. Tước tự do; 4. Tử hình. Các hình phạt bổ sung bao gồm: 1. Phạt
tiền (theo quy định của pháp luật, trong một số trường hợp nó có thể chuyển
thành hình phạt chính);2. Tịch thu tài sản liên quan đến hành vi phạm tội; 3.
Tịch thu tài sản; 4. Tước quyền bầu cử; 5. Quản chế.
Hình phạt tịch thu tài sản và Quản chế chỉ được áp dụng đối với người
phạm tội trong trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật này. Ngoài các
hình phạt chính và hình phạt bổ sung, tòa án có thể yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền rút giấy phép lái xe hoặc giấy phép khác, hạn chế hoặc cấm làm nghề
hoặc công việc nhất định, tước huân chương, huy chương, danh hiệu và trục
xuất người phạm tội”. Như vậy, theo quy định trên của điều luật hình sự nước
CHDCND Lào thì khái niệm hệ thống hình phạt không được quy định cụ thể
19
trong một điều luật mà chỉ liệt kê các loại hình phạt mà Luật hình sự Lào áp
dụng đối với người phạm tội.
Tuy nhiên, với cách liệt kê trên chúng ta cũng có thể hiểu một cách đơn
giản hệ thống hình phạt Lào đó là: “tất cả các hình phạt có mức độ nghiêm
khắc không giống nhau được quy định trong luật hình sự và được sắp xếp
theo trật tự từ nhẹ đến nặng”. Theo quy định của điều 28 thì hệ thống hình
phạt của pháp luật hình sự Lào hiện nay bao gồm: các hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Và theo cách hiểu trên thì hệ thống hình phạt Lào có đặc điểm
cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Hệ thống hình phạt Lào rất đa dạng. Tính đa dạng được thể
hiện đó là hệ thống hình phạt bao gồm nhiều loại hình phạt khác nhau, đặc
biệt là về mức độ nghiêm khắc. Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Với hình phạt chính thì bao gồm các hình phạt như: hình phạt
cảnh cáo trước công chúng; hình phạt cải tạo không giam giữ; hình phạt tước
tự do; hình phạt tử hình. Với hình phạt bổ sung thì bao gồm các hình phạt
như: Hình phạt tiền; hình phạt tịch thu tài sản và vật chất; hình phạt tước
quyền bầu cử và quyền được ứng cử; hình phạt quản chế. Điều đặc biệt trong
hệ thống hình phạt của Lào được thể hiện đó là trong một số trường hợp hình
phạt tiền có thể được chuyển thành hình phạt chính.
Với sự đa dạng của các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt Lào thì
đây là điều kiện rất tốt để Tòa án lựa chọn và áp dụng hình phạt tương xứng
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội đã gây ra.
Thứ hai: Các hình phạt trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự
Lào có sự sắp xếp từ nhẹ đến nặng, liên kết với nhau chặt chẽ. Điều này được
thể hiện rất rõ thông qua sự quy định các hình phạt theo thứ tự tăng dần về
mức độ nghiêm khắc của từng hình phạt quy định trong Luật. Sự sắp xếp có
trình tự như vậy tạo ra sự thống nhất, chặt chẽ trong việc sắp xếp các hình