BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRỊNH MINH HIỀN
GIÁM HỘ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Trịnh Minh Hiền
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM HỘ ...................... 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giám hộ ........................................... 4
1.1.1. Khái niệm giám hộ ......................................................................... 4
1.1.2. Đặc điểm của giám hộ ................................................................... 6
1.1.3. Ý nghĩa của giám hộ ...................................................................... 8
1.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của chế độ giám hộ trong pháp
luật dân sự Việt Nam ................................................................................ 10
1.3. Chế định giám hộ trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới. 12
1.3.1. Cộng hòa Pháp ............................................................................ 12
1.3.2. Vương quốc Campuchia............................................................... 14
1.3.3. Nhật Bản ...................................................................................... 15
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ GIÁM HỘ ..................................................................... 21
2.1. Người giám hộ ................................................................................... 21
2.2. Các hình thức giám hộ theo quy định của pháp luật ........................... 24
2.3. Người được giám hộ .......................................................................... 31
2.4. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ ... 35
2.4.1. Nghĩa vụ của người giám hộ ........................................................ 35
2.4.2. Quyền của người giám hộ ............................................................ 39
2.5. Giám sát việc giám hộ ........................................................................ 41
2.6. Đăng ký việc giám hộ ........................................................................ 42
2.7. Thay đổi và chấm dứt việc giám hộ .................................................... 44
2.7.1. Các trường hợp thay đổi giám hộ ................................................ 44
2.7.2. Các trường hợp chấm dứt việc giám hộ ...................................... 47
CHƯƠNG 3. NHỮNG BẤT CẬP CỦA CHẾ ĐỊNH GIÁM HỘ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH GIÁM HỘ TRONG PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM ...................................................................... 51
3.1. Một số bất cập lớn của chế định giám hộ ........................................... 51
3.1.1. Về thủ tục tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự theo
Điều 22 Bộ luật dân sự 2005 ................................................................. 51
3.1.2. Về việc cử người giám hộ theo Điều 63 Bộ luật dân sự 2005 ....... 52
3.1.3. Về việc đăng ký giám hộ .............................................................. 53
3.1.4. Về việc thay đổi giám hộ đương nhiên ......................................... 54
3.1.5. Về việc xin ly hôn của chồng (hoặc vợ) là người giám hộ đương
nhiên của vợ (hoặc chồng)..................................................................... 55
3.1.6. Về việc có nhiều người cùng có quyền giám hộ đương nhiên ....... 55
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định giám hộ và nâng cao hiệu
quả áp dụng chế định giám hộ trong thực tiễn ........................................... 56
3.2.1. Kiến nghị bổ sung điều kiện để pháp nhân làm người giám hộ .... 56
3.2.2. Kiến nghị bổ sung việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi............................................................................. 56
3.2.3. Kiến nghị bỏ quy định về giám hộ đương nhiên ........................... 57
3.2.4. Kiến nghị bổ sung thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
tranh chấp về giám hộ ........................................................................... 58
3.2.5. Kiến nghị nghiên cứu, bổ sung chế định đồng giám hộ ................ 58
3.2.6. Một số kiến nghị bảo đảm việc thực hiện pháp luật giám hộ và
nâng cao hiệu quả áp dung chế định giám hộ trên thực tiễn .................. 59
KẾT LUẬN ................................................................................................. 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 62
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giám hộ là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt
Nam, các quy định của chế định thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà
nước và xã hội ta đối với người chưa thành niên có hoàn cảnh đặc biệt,
người mất năng lực hành vi dân sự. Việc áp dụng chế định giám hộ nhằm
bảo đảm quyền và lợi ích của những người yếu thế này, đồng thời, đảm
bảo sự tương đồng khi họ tham gia các quan hệ dân sự với những cá nhân
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Nhìn chung, những quy định về chế định giám hộ trong Bộ luật dân sự
đã phần nào đáp ứng đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn cuộc sống, góp phần không
nhỏ trong việc tạo lập một định chế pháp lý thống nhất, giải quyết hiệu quả
những nhu cầu bức thiết trong nhân dân liên quan đến việc giám hộ. Tuy
nhiên, việc áp dụng các quy định của chế định này vào các quan hệ xã hội còn
chưa thật sự hiệu quả, gặp nhiều khó khăn, bất cập trên thực tiễn. Do đó,
trong bối cảnh Bộ luật dân sự đang được sửa đổi, bổ sung, để bảo vệ tốt hơn
quyền con người, quyền công dân thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định về
chế định giám hộ cũng cần được quan tâm nghiên cứu. Vì thế, tác giả đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Giám hộ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định giám hộ có vai trò quan trọng trong pháp luật dân sự nói
chung và trong quy định của Bộ luật dân sự nói riêng. Từ khi Luật hôn nhân
và gia đình 1986 lần đầu tiên quy định về chế độ “đỡ đầu” rồi lần lượt Bộ luật
dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 ra đời, đã có một số công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý về vấn đề giám hộ như: Chế độ giám hộ đối với người chưa
thành niên – Nguyễn Đức Mai – Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 năm 1999;
2
Giám hộ, đại diện trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự – ThS
Nguyễn Việt Cường - Tạp chí Nghề Luật số 5 tháng 5 năm 2005; Một vài vấn
đề về giám hộ - Tưởng Duy Lượng – Tạp chí Tòa án nhân dân số 20 năm
2006; “Chế độ giám hộ trong Bộ luật dân sự - một số tồn tại từ thực tiễn áp
dụng” – Nguyễn Văn Dũng, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam – Tạp chí Tòa
án nhân dân số 12 tháng 6 năm 2009… Các công trình nghiên cứu khoa học
này đã nêu lên được những bất cập, vướng mắc trong việc áp dụng các quy
định về giám hộ trong thực tiễn. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, trong bối cảnh
sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật dân sự 2005, luận văn sẽ làm rõ hơn những
vấn đề lý luận về chế định giám hộ và đưa ra những kiến nghị toàn diện để
giải quyết những vướng mắc, bất cập khi áp dụng chế định này trên thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn hướng tới mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
giám hộ, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về giám hộ, kinh
nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế giới, thực tiễn áp dụng các quy
định về giám hộ, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định này trong thực tiễn ở Việt Nam.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của Luận văn là một số vấn đề lý luận
về giám hộ, các quy định của pháp luật dân sự về giám hộ và thực tiễn áp
dụng các quy định này. Ngoài ra, việc nghiên cứu chế độ giám hộ cũng được
tiến hành đối với các quy định giám hộ của pháp luật dân sự một số quốc gia
trên thế giới để so sánh, tham khảo.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, về cải cách tư pháp và xây dựng hệ thống pháp luật.
3
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong khóa luận là
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và
phương pháp thống kê.
6. Những điểm mới của Luận văn
Đề tài là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến chế định giám hộ. Trong đề tài có những điểm mới sau:
- Hoàn thiện khái niệm giám hộ;
- Phân tích đánh giá tìm ra những hạn chế, bất cập của các qui định về
giám hộ;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về giám hộ ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định giám hộ và nâng cao hiệu
quả áp dụng chế định giám hộ trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh
mục chữ viết tắt; phần nội dung của Luận văn được chia làm 3 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định giám hộ
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định giám hộ
Chương 3: Những bất cập của chế định giám hộ và một số kiến nghị
hoàn thiện chế định giám hộ trong pháp luật dân sự Việt Nam
8. Ý nghĩa của Luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu một cách toàn diện chế định giám hộ
trong pháp luật Việt Nam, đồng thời, đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện chế định giám hộ, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả
áp dụng của chế định này trong thực tiễn.
Luận văn được xem là một tài liệu tham khảo cho sinh viên phục vụ
công tác học tập nghiên cứu khoa học và cho cơ quan, tổ chức trong quá trình
xây dựng, hoàn thiện pháp luật.
4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM HỘ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giám hộ
1.1.1. Khái niệm giám hộ
Khái niệm giám hộ đã xuất hiện từ rất sớm, ngay từ thời La Mã cổ đại
giám hộ đã là một chế định quan trọng. Trong Luật La mã đã có các quy định
về giám hộ, trong đó, người La mã quy định: Trẻ em dưới 7 tuổi (infantes)
không có năng lực hành vi không được tham gia và thực hiện các giao dịch
dân sự, trừ những giao dịch phục vụ cho nhu cầu cần thiết và phù hợp với lứa
tuổi. Luật quy định trẻ em trong độ tuổi này buộc phải đặt dưới sự giám hộ
của người trưởng thành (Tutor). Đối với người từ 7 tuổi đến 14 tuổi đối với
nam, 12 tuổi đối với nữ thì có năng lực hành vi một phần, được tham gia thực
hiện những giao dịch bảo đảm, duy trì được lợi ích của mình. Khi thực hiện
một giao dịch mà phát sinh một nghĩa vụ hay chấm dứt một quyền phải được
sự đồng ý của gia chủ hoặc người đỡ đầu vào thời điểm thực hiện giao dịch
đó. Như vậy, những người ở độ tuổi trên phải đặt dưới sự giám hộ. Việc giám
hộ không áp dụng đối với người đã trưởng thành (người có Sui Iuris) mà chỉ
áp dụng đối với Sui Iuris chưa có đủ năng lực hành vi dân sự, cần phải có
người đã trưởng thành là người giám hộ. Luật La mã còn quy định những
người tuy trưởng thành (đủ 14 tuổi đối với nam, đủ 12 tuổi đối với nữ) mà
mắc bệnh tâm thần là những người không có năng lực hành vi, vì họ không
thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình trong các quan hệ xã hội, họ được
gọi là furiosi. Và những người được xác định là furiosi đều phải đặt dưới sự
giám hộ của người trưởng thành khác (curatela) [27]. Có thể thấy rằng, ngay
từ thời La mã, pháp luật về giám hộ đã được quy định một cách toàn diện đầy
đủ, qua đó, thể hiện trình độ pháp lý tương đối cao của người La mã cổ đại.
Ngày nay, giám hộ trở thành một chế định quan trọng pháp luật dân sự
của các nước, chế định này được quy định trong các văn bản pháp luật khác
5
nhau, có thể là Bộ luật dân sự nhưng cũng có thể là Luật hôn nhân và gia
đình… Ở Việt Nam, giám hộ được quy định trong Bộ luật dân sự. Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 đã bỏ các quy định về đỡ đầu giữa các thành viên
trong gia đình và vận dụng những nguyên tắc chung trong Bộ luật dân sự để
giải quyết vấn đề này [21].
Khái niệm giám hộ có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Về mặt ngôn ngữ đơn thuần thì từ “giám” được hiểu là sự theo dõi
kiểm tra, đôn đốc và từ “ hộ” được hiểu là bảo vệ, gìn giữ. Giám hộ là một
danh từ có nghĩa là người có đủ tư cách trông nom một người thanh thiếu niên
chưa trưởng thành [12].
Về mặt thuật ngữ Luật dân sự thì giám hộ (tutelelt – tutorship) là việc
chăm sóc quản lý tài sản, thực hiện các quyền dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người được giám hộ [10].
Về phương diện Luật học thì giám hộ là chế định tổng hợp của nhiều
ngành luật. Các quy định của giám hộ trước tiên được quy định như là một
chế định của Luật hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, chế định giám hộ điều
chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích nhằm khắc phục tình trạng không
tương đồng giữa sự bình đẳng về năng lực pháp luật với không bình đẳng về
năng lực hành vi dân sự của những người có năng lực hành vi một phần,
những người không có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi. Những quy
định của chế định này xác định việc quản lý tài sản, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ về tài sản của người được giám hộ. Ngoài ra, chế định giám hộ còn
có những quy định mang tính hành chính như các quan hệ về cử người giám
hộ, giám sát việc giám hộ… [28, tr.95,96] Với nội dung đó, khái niệm giám
hộ được pháp luật dân sự hiện hành quy định như sau:
Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật dân sự 2005 thì Giám hộ là việc cá
nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định
6
hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi
chung là người được giám hộ).
Từ những phân tích như trên có thể hiểu khái niệm giám hộ như
sau: Giám hộ là một quan hệ được xác lập giữa người giám hộ và người
được giám hộ, trong đó người giám hộ có quyền đại diện, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người được giám hộ và có nghĩa vụ chăm sóc giáo
dục người được giám hộ.
1.1.2. Đặc điểm của giám hộ
- Thứ nhất, trong quan hệ giám hộ thì bên được giám hộ luôn là cá nhân
và là người yếu thế.
Người được giám hộ là người chưa thành niên không còn cha, mẹ,
không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự,
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc
cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và
nếu cha, mẹ có yêu cầu; người mất năng lực hành vi dân sự.
Những người chưa thành niên thuộc diện kể trên và người mất năng lực
hành vi dân sự không thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của
mình cho nên cần phải có người khác thực hiện thay nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích của người được giám hộ.
Người giám hộ có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong giám hộ đương
nhiên thì người giám hộ được xác định theo quan hệ hôn nhân, huyết thống,
còn trong quan hệ giám hộ cử thì người giám hộ có thể là bất cứ cá nhân, pháp
nhân nào có đủ điều kiện do pháp luật quy định đều có thể là người giám hộ.
- Thứ hai, trong quan hệ giám hộ thì chủ thể là người giám hộ chỉ có
thể là một người trừ trường hợp cha mẹ, ông bà.
7
Người giám hộ là người đại diện trong quan hệ với người thứ ba, nếu
nhiều người giám hộ cho một người mà trong quan hệ đại diện không thỏa
thuận được về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ thì quan
hệ đại diện không thể thực hiện được. Còn giám hộ là cha mẹ, ông bà là
những người cùng có mối quan tâm đến con cháu, cùng có nghĩa vụ chăm sóc
con, cháu, do vậy giữa họ không có sự mâu thuẫn về lợi ích, cho nên việc đại
diện sẽ thực hiện được.
- Thứ ba, việc giám hộ làm phát sinh quan hệ đại diện của người giám
hộ với người thứ ba.
Trường hợp cần thiết phải tham gia vào giao dịch dân sự để đem lại lợi
ích cho người được giám hộ, thì người giám hộ nhân danh người được giám hộ
tham gia giao dịch với người thứ ba. Đối với quan hệ với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, thì người giám hộ nhân danh người được giám hộ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của người được giám hộ. Ngoài ra, người giám hộ đại diện
cho người được giám hộ trong các quan hệ tố tụng dân sự, hành chính….
- Thứ tư, nghĩa vụ chính của người giám hộ là chăm sóc người được
giám hộ.
Đối với người được giám hộ có tài sản thì ngoài các nghĩa vụ quản lý
tài sản của người được giám hộ, thì nghĩa vụ chính của người giám hộ là
chăm sóc người được giám hộ. Chăm sóc là quan tâm đến cuộc sống vật chất
và tinh thần của người giám hộ. Người giám hộ phải bảo đảm cho người được
giám hộ có cuộc sống vật chất và tinh thần tốt nhất có thể. Đối với người
được giám hộ không có tài sản thì người giám hộ phải yêu cầu những người
có nghĩa vụ nuôi dưỡng cung cấp vật chất, tài chính phù hợp với khả năng của
họ.
Nghĩa vụ chăm sóc của người giám hộ theo quy định trong pháp luật
dân sự tương tự như nghĩa vụ “chăm nom” giáo dục của người đỡ đầu trong
8
Luật Hôn nhân và Gia đình 1986. Chế định giám hộ được áp dụng cho các
quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình cho nên trong các Luật Hôn nhân và Gia
đình 2000 và 2014 không quy định về đỡ đầu nữa. Giữa giám hộ và đỡ đầu có
nhiều điểm tương đồng và khác biệt như sau:
Giám hộ là quan hệ dân sự, cho nên có thể được xác lập với bất cứ cá
nhân nào theo điều kiện luật quy định. Tuy nhiên, việc đỡ đầu chỉ được áp
dụng trong Luật Hôn nhân và Gia đình. Về nghĩa vụ của người đỡ đầu thì
trong Luật hôn nhân và gia đình 1986 đã quy định tại Điều 46: Việc đỡ đầu
được thực hiện trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và
bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha mẹ đã chết, hoặc tuy cha
mẹ còn sống nhưng không có điều kiện để làm những nhiệm vụ đó [16]. Thực
chất của đỡ đầu là giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên. Vì thế
quyền và nghĩa vụ của người đỡ đầu tương tự như người giám hộ đương
nhiên.
1.1.3. Ý nghĩa của giám hộ
Với mục đích của việc giám hộ là đảm bảo cho những người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự được chăm sóc giáo dục, được
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, do đó, chế định giám hộ mang nhiều ý
nghĩa sâu sắc về mặt pháp lý và xã hội.
- Về mặt kỹ thuật lập pháp
Giám hộ với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật dân sự đã thể hiện
được sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp của nhà nước ta. So với quy định tương
ứng trong Luật hôn nhân và gia đình 1986 và Bộ luật dân sự 1995 thì quy
định về giám hộ trong Bộ luật dân sự 2005 đã thể hiện sự hoàn thiện vượt bậc
về kỹ thuật lập pháp. Quy định giám hộ hiện hành đã tương đối hoàn thiện về
nội dung và các điều luật, chính xác về các thuật ngữ pháp lý và thể hiện sự
9
thống nhất, đồng bộ với các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật
Việt Nam. Hơn nữa, nội dung các quy định của chế định này trong Bộ luật
dân sự 2005 đã tiến gần hơn với kỹ thuật lập pháp của các nước trên thế giới.
- Về mặt pháp lý
Chế định giám hộ tạo ra cơ sở để người được giám hộ có thể hiện thực
hóa các quyền mà pháp luật quy định cho mình.
+ Chế định giám hộ nhằm khắc phục tình trạng của người có năng lực
pháp luật dân sự nhưng không thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
được quyền nghĩa vụ của họ vì họ là những người không có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ hoặc bị hạn chế năng lực hành vi.
+ Chế định giám hộ đảm bảo sự bình đẳng giữa các công dân trong xã
hội trong việc được hưởng các quyền năng do luật định và việc thực thi các
quyền đó trên thực tế.
+ Mặt khác, chế định giám hộ đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc nâng cao
trách nhiệm của người giám hộ đối với người được giám hộ. Quyền và nghĩa
vụ được quy định cụ thể trong chế định này sẽ là khuôn khổ pháp lý cần thiết
cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với người
được giám hộ.
- Về mặt xã hội
+ Chế định giám hộ góp phần phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc ta là truyền thống tương thân tương ái, xây dựng và củng cố tình cảm
gắn bó tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng xã hội.
+ Thông qua các quy định về giám hộ còn thể hiện sự quan tâm, trách
nhiệm của nhà nước đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt nói trên.
10
1.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của chế độ giám hộ trong
pháp luật dân sự Việt Nam
Giám hộ là một chế định truyền thống trong pháp luật dân sự Việt
Nam, việc giám hộ được thực hiện nhằm đảm bảo việc chăm sóc, giáo dục,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị mất
năng lực hành vi dân sự.
Chế định giám hộ xuất hiện rất sớm trong pháp luật dân sự nước ta.
Trước Cách mạng tháng 8/1945 có thể tìm thấy chế định này trong Bộ dân
luật Bắc kỳ 1931 tại thiên thứ 9 [1], chương thứ nhất từ tiết thứ hai cho đến
tiết thứ chín, hay trong Bộ luật dân sự Nam kỳ giản yếu 1883, Bộ dân luật
Trung kỳ 1936.
Tuy nhiên, các quy định về giám hộ thời kỳ này còn mang nặng tính
phân biệt tầng lớp và giai cấp, địa vị, có sự phân biệt giữa con giá thú và con
ngoài giá thú.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền thì việc ban hành pháp luật
cũng là một trong những việc quan trọng phải làm. Tuy nhiên, do hoàn cảnh
khó khăn lúc đó cho nên các văn bản pháp luật cũ vẫn được sử dụng. Quan hệ
giám hộ lúc này vẫn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật như Bộ luật
dân sự Nam kỳ giản yếu 1883, Bộ dân luật Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật Trung kì
1936 được áp dụng tại ba miền Bắc, Trung, Nam.
Cho đến năm 1986, khi Luật hôn nhân và gia đình 1986 ra đời, việc
giám hộ được quy định tại Chương Đỡ đầu (từ Điều 46 đến Điều 51) [16].
Tuy vậy, các quy định của pháp luật về chế định đỡ đầu mới chỉ dừng lại ở
những quy định chung có tính chất nguyên tắc, chưa đề cập đến các loại hình
giám hộ (đỡ đầu) ở những mức độ khác nhau cho phù hợp với tình hình thực
tế, không quy định cụ thể ai là người thực hiện việc đỡ đầu, thủ tục của người
11
đỡ đầu, cũng như không cử được người đỡ đầu thì cơ quan, tổ chức nào đứng
ra thực hiện nhiệm vụ này nên trên thực tế, việc thực hiện các quy định này
gặp nhiều khó khăn.
Kế thừa và phát triển các quy định về đỡ đầu trong Luật hôn nhân và gia
đình 1986, ngày 28/10/1995, Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua và có hiệu
lực thi hành ngày 01/7/1996 đã quy định khá cụ thể về chế định giám hộ. Bộ luật
đã dành một nội dung lớn để quy định về giám hộ (mục 5 chương II, từ Điều 67
đến Điều 83) [17], theo đó, chế định giám hộ trong Bộ luật dân sự đã được quy
định đầy đủ về việc chăm sóc và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người được
giám hộ. Bộ luật dân sự 1995 đã làm rõ khái niệm cũng như các đối tượng được
giám hộ, nghĩa vụ của người giám hộ và người được giám hộ… Với chế định
giám hộ trong Bộ luật dân sự 1995 thì những quy định về đỡ đầu trong Luật hôn
nhân và gia đình 1986 không còn phù hợp và mâu thuẫn với các quy định của Bộ
luật dân sự (như quy định về độ tuổi của người giám hộ tại Điều 48 Luật hôn
nhân và gia đình 1986 và Điều 69 Bộ luật dân sự 1995).
Bộ luật dân sự 1995 ra đời đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà
nước và xã hội ta đối với người chưa thành niên, đặc biệt là đối với trẻ em
dưới 15 tuổi có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt và những người bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình. So với Bộ luật dân sự 1995 thì Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy
định đối tượng được đỡ đầu (giám hộ) hẹp hơn quy định của Bộ luật dân sự
1995. Điều 46 Luật hôn nhân và gia đình 1986 chỉ quy định việc đỡ đầu (giám
hộ) được thực hiện trong các trường hợp cần đảm bảo việc chăm nom, giáo
dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha, mẹ đã chết hoặc
tuy cha, mẹ còn sống nhưng không có điều kiện để thực hiện những trách
nhiệm đó.
12
Sau 10 năm thực hiện, Bộ luật dân sự 1995 đã góp phần điều chỉnh các
quan hệ giám hộ một cách hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, các
quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự 1995 cũng bộc lộ những thiếu sót
và hạn chế nhất định, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn nữa. Vì vậy,
việc sửa đổi các quy định trong Bộ luật dân sự 1995 là một yêu cầu cấp thiết
để phù hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội hiện tại. Đáp ứng yêu cầu
đó, Bộ luật dân sự 2005 được ra đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 để điều
chỉnh các quan hệ dân sự phù hợp hơn với đời sống kinh tế xã hội. Chế định
giám hộ cũng được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo phù hợp với thực tiễn. Chế
định giám hộ trong Bộ luật dân sự 2005 được quy định tại mục 4 chương III
Phần thứ nhất với 16 điều (từ Điều 58 đến Điều 73).
Như vậy, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho hợp lí, đến nay chế định
giám hộ trong Bộ luật dân sự 2005 đã được quy định khá đầy đủ, tạo ra cơ sở
pháp lý cần thiết để chăm sóc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự.
1.3. Chế định giám hộ trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới
1.3.1. Cộng hòa Pháp
Chế định giám hộ được quy định trong Bộ luật dân sự Pháp tại Thiên X
(quy định về Người chưa thành niên, giám hộ, có năng lực hành vi đầy đủ khi
chưa đến tuổi thành niên) và XI (quy định về Người thành niên và người
thành niên được pháp luật bảo hộ) trong Quyển thứ nhất về Cá nhân [3]. Có
thể nói, các quy định về Giám hộ trong Bộ luật dân sự Pháp rất cụ thể và chặt
chẽ về quản lý tài sản của người được giám hộ, tổ chức việc giám hộ, cơ chế
hoạt động giám hộ, thanh quyết toán tài sản của người được giám hộ…
- Về người giám hộ, khác với quy định của pháp luật Việt Nam (cá nhân,
cơ quan tổ chức được pháp luật quy định hoặc được cử) thì Bộ luật dân sự Pháp
quy định, người giám hộ được người cha hoặc người mẹ chết sau và cho đến
13
ngày chết vẫn giữ quyền quản lý tài sản theo pháp luật hoặc quyền giám hộ lựa
chọn (kể cả người này có hay không có quan hệ thân thuộc); trường hợp người
cha hoặc người mẹ chết sau không lựa chọn người giám hộ thì việc giám hộ đối
với con được giao cho người tôn thuộc đời gần nhất; trường hợp không có
người giám hộ theo di chúc, cũng không có người giám hộ là tôn thuộc hoặc
nếu người được cử làm người giám hộ thôi đảm nhận việc giám hộ, thì hội
đồng gia tộc sẽ cử một người khác làm người giám hộ cho người chưa thành
niên (tham khảo Điều 397, Điều 402, Điều 404 Bộ luật dân sự Pháp). Bộ luật
dân sự Pháp từ Điều 407 đến Điều 416 đưa ra các quy định về Hội đồng gia
tộc, thành viên Hội đồng và hoạt động của Hội đồng này.
- Về người được giám hộ, Bộ luật dân sự Pháp quy định những người
được giám hộ bao gồm: (1) người chưa thành niên mà cả cha và mẹ đều chết
hoặc bị tước quyền thực hiện quyền của cha mẹ và con ngoài giá thú nếu đứa trẻ
đó không được cả cha lẫn mẹ tự nguyện công nhận con (Điều 390); (2) người
thành niên có khả năng về tinh thần bị suy giảm do bệnh tật, do tật nguyền hoặc
tuổi tác (Điều 490 và 492). Về cơ bản, quy định về những người được giám hộ
theo pháp luật Pháp cũng tương đồng với pháp luật Việt Nam (chỉ khác về
trường hợp khi cha, mẹ có yêu cầu thì người con chưa thành niên cũng được
giám hộ). Ngoài ra, việc giám hộ trong Bộ luật dân sự Pháp không quy định
“cứng” một người chỉ có thể được một người giám hộ. Theo Điều 417 Bộ luật
dân sự Pháp thì căn cứ vào khả năng của các đương sự và tình trạng tài sản cần
quản lý, hội đồng gia tộc có thể quyết định phân chia việc giám hộ cho một
người giám hộ về nhân thân và một người giám hộ về tài sản, hoặc giao việc
quản lý một số tài sản nhất định cho một người giám hộ bổ sung.
- Bên cạnh đó, việc Bộ luật dân sự Pháp quy định cụ thể thẩm quyền,
trình tự, thủ tục, cơ chế thực hiện việc giám hộ (quản lý tài sản người được
giám hộ, tổ chức giám hộ, thay đổi chấm dứt người giám hộ…) đã làm chế
14
định này được áp dụng hiệu quả trên thực tiễn, thực sự trở thành công cụ hữu
hiệu của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền, lợi ích cho những đối tượng yếu thế
trong xã hội.
1.3.2. Vương quốc Campuchia
Chế định giám hộ được quy định trong Bộ luật dân sự Campuchia tại
Mục 4 (quy định về năng lực hành vi) trong Phần thứ hai về Con người [5].
Dựa trên độ tuổi và năng lực hành vi dân sự, Bộ luật dân sự Campuchia
đưa ra các cơ chế bảo vệ khá rõ ràng khi những người này tham gia các
quan hệ dân sự.
- Đối với trẻ vị thành niên (dưới 18 tuổi), Điều 18 Bộ luật dân sự
Campuchia quy định những hành vi của trẻ vị thành niên mà không được sự
đồng ý của người có quyền cha mẹ hay người giám hộ có thể bị hủy bỏ. Tuy
nhiên, những hành vi chỉ có quyền, không có nghĩa vụ và những hành vi trong
cuộc sống thường ngày thì không bị hủy bỏ. Đây được coi là một quy định
hợp lý, vì những giao dịch hàng ngày phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt của
nhóm đối tượng này cần được xã hội thừa nhận. Ngoài ra, Bộ luật dân sự
Campuchia cũng ghi nhận các quyền của trẻ vị thành niên như được phép
kinh doanh (Điều 20), sử dụng phần tài sản đã được người có quyền cha mẹ
hoặc người giám hộ trẻ vị thành niên đồng ý cho sử dụng (Điều 19). Bên cạnh
đó, Bộ luật dân sự cũng quy định về các điều kiện những người này được giải
phóng khỏi người có quyền cha mẹ và hậu quả pháp lý khi được giải phóng
(được coi như là người trưởng thành) (tham khảo Điều 20 và 21);
- Đối với người được giám hộ thông thường, Bộ luật dân sự Campuchia
quy định những người trong điều kiện bình thường, không đủ khả năng nhận
thức và dự liệu kết quả mang tính pháp lý từ hành vi của chính mình do
những khiếm khuyết về mặt trí tuệ thì tòa án có thể tuyên bố việc bắt đầu
giám hộ thông thường theo đơn đề nghị của chính người đó, vợ hoặc chồng,
15
người có quan hệ huyết thống trong bốn đời, người giám hộ trẻ vị thành niên,
người giám sát việc giám hộ trẻ vị thành niên, người bảo trợ, người giám sát
việc bảo trợ, lãnh đạo ấp hoặc xã nơi người đó sinh sống, hoặc kiểm sát viên.
Tuy nhiên, không áp dụng cho trường hợp khi có đơn đề nghị mà người đó
chưa đủ 15 tuổi (Điều 24). Bên cạnh cơ chế giám hộ, Bộ luật dân sự
Campuchia còn có quy định về cơ chế bảo trợ đối với đối với những người
không đủ khả năng nhận thức và dự liệu được kết quả mang tính pháp lý từ
hành vi của mình gây ra do những khiếm khuyết về mặt trí tuệ và những
người hạn chế năng lực hành vi (tham khảo Điều 28 và 32). Có thể thấy, Bộ
luật dân sự Campuchia đưa các các cơ chế khác nhau để bảo vệ quyền và lợi
ích của nhóm đối tượng yếu thế (không đủ năng lực hành vi) và cũng phân
định cụ thể những đối tượng, với những điều kiện nào thì được áp dụng cơ
chế bảo vệ đó. Đây là một điểm tiến bộ lớn trong kỹ thuật lập pháp của các
nhà làm luật Campuchia khi xây dựng Bộ luật dân sự.
1.3.3. Nhật Bản
Pháp luật dân sự Nhật Bản khác pháp luật dân sự Việt Nam về hệ thống
người giám hộ, người trợ tá, bảo trợ… Sự khác nhau về các chế độ này là
người giám hộ có quyền đại diện cũng như quyền đồng ý. Người phụ tá, trợ tá
có sự khác biệt về quyền đại diện cũng như quyền đồng ý. Những người bổ
trợ, phụ trợ thì không có đầy đủ quyền đồng ý, chỉ có quyền đồng ý trong một
số nội dung mà Tòa án đã chấp nhận. Các chế độ về giám hộ này được Nhật
Bản áp dụng từ năm 2000, đây thực sự là một cơ chế giám hộ mới, trước đây
chỉ tồn tại 2 chế độ giám hộ. Hệ thống giám hộ này đưa ra được thực hiện trên
cơ sở tôn trọng quyền tự quyết của người giám hộ nên pháp luật Nhật Bản đã
mềm dẻo hóa bằng cách đưa ra các chế độ người trợ tá, bổ trợ (mức độ nhẹ
nhất), với mục đích áp dụng được linh hoạt chế độ về giám hộ. Ưu điểm của
cơ chế pháp luật là tính linh hoạt nhưng nhìn từ góc độ khác có thể hơi phức
16
tạp. Mặc dù có quy định pháp luật nhưng hệ thống bảo trợ, hỗ trợ hầu như là
chưa được áp dụng trên thực tiễn (Tham khảo Báo cáo Tọa đàm “Góp ý dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) – Phần các Quy định chung về Cá nhân và Đại
diện” được Bộ Tư pháp tổ chức ngày 21 và 22/11/2013). Có thể thấy các quy
định của pháp luật dân sự Nhật Bản phân định rất rõ ràng các mức độ giám hộ
đối với từng đối tượng nhưng theo quan điểm của tác giả, chế độ giám hộ
trong pháp luật Việt Nam chỉ cần bổ sung thêm đối tượng người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi sẽ là hoàn thiện về đối tượng được giám hộ
so với pháp chế định giám hộ của Bộ luật dân sự Nhật Bản.
- Về thẩm quyền giám sát giám hộ của Tòa án trong pháp luật dân sự
Nhật Bản: Trong trường hợp xử lý bất động sản của người được giám hộ thì
phải có quyết định của Tòa án, bởi nó có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của
người được giám hộ. Về điểm này có sự tương đồng với pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, Tòa còn tiến hành giám sát với người giám hộ trên một số nội dung
khác như yêu cầu nộp báo cáo, mục lục tài sản của người được giám hộ. Trên
cơ sở xem xét các báo cáo, mục lục trên, Tòa án có thể xác minh lại những
thông tin đó hoặc đưa ra mệnh lệnh xử lý.
- Một số quy định cụ thể về giám hộ trong pháp luật dân sự Nhật Bản:
+ Điều kiện về người giám hộ cho người chưa thành niên theo Luật dân
sự Nhật Bản
Người đại diện theo pháp luật, người hỗ trợ hoặc người trợ tá được
được tòa án gia đình chỉ định, người bị phá sản, người khởi kiện hoặc đã khởi
kiện người chưa thành niên, người được giám hộ, người phối ngẫu, họ hàng
trực hệ, người không biết tung tích không thể trở thành người giám hộ của
người chưa thành niên (Điều 847). Pháp nhân có thể trở thành người giám hộ
của người chưa thành niên (khoản 3 Điều 840). Có thể lựa chọn nhiều người
giám hộ (khoản 1 Điều 857.2)
17
+ Lựa chọn người giám hộ cho người vị thành niên theo Luật dân sự
Nhật Bản
Người có quyền làm cha mẹ cuối cùng đối với người chưa thành niên
có thể chỉ định trong di chúc về người giám hộ người chưa thành niên (khoản
1 Điều 839). Nếu không có người làm người giám hộ người chưa thành niên
thì tòa án gia đình sẽ lựa chọn người giám hộ người chưa thành niên dựa trên
yêu cầu của người được giám hộ chưa thành niên hoặc gia đình của người đó
hoặc người có quan hệ quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác (khoản 1 Điều 840).
+ Người giám sát việc giám hộ người chưa thành niên theo Luật dân sự
Nhật Bản
Người phối ngẫu, người có huyết thống trực hệ và anh em chị em
không thể là người giám sát việc giám hộ (Điều 850).
Người có quyền làm cha mẹ sau cùng đối với người chưa thành niên có
thể chỉ định trong di chúc người giám sát việc giám hộ (điều 848). Tòa án gia
đình khi thấy cần thiết có thể cử người giám sát việc giám hộ theo yêu cầu
của người được giám hộ, gia đình của người đó, hoặc của người gám hộ hoặc
theo chức quyền của mình (Điều 849).
+ Công bố việc giám hộ người chưa thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Người giám hộ người chưa thành niên, người giám sát việc giám hộ
người chưa thành niên được chỉ định theo di chúc của người có quyền làm cha
mẹ phải thông báo cho chủ tịch xã phường thị trấn trong vòng 10 ngày kể từ
ngày đảm nhận công việc đó (khoản 1 Điều 81, Điều 85 Luật Hộ tịch). Kể từ
khi việc xét xử của tòa án gia đình về việc cử người giám hộ người thành
niên, người giám sát việc giám hộ người thành niên có hiệu lực thì thư ký tòa
án phải không chậm trễ ủy thác cho người quản lý công việc hộ tịch ghi vào
hộ tịch (khoản 1 điều 116 Luật thủ tục vụ việc gia đình). Người được ghi
trong hộ tịch, người cần xác nhận nội dung ghi trong hộ tịch để thực hiện
quyền của mình hoặc thực hiện nghĩa vụ của mình có thể yêu cầu giao bản
sao hộ tịch (Điều 10, khoản 1.1 Điều 11 Luật Hộ tịch).
18
+ Chấm dứt việc giám hộ người chưa thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Khi người chưa thành niên đã thành niên, khi đã kết hôn, khi đã chết,
khi bố mẹ khôi phục quyền làm cha mẹ, khi trở thành con nuôi, thì việc giám
hộ người chưa thành niên đương nhiên chấm dứt (không có qui định). Người
được giám hộ chưa thành niên phải thông báo cho chủ tịch xã phường thị trấn
trong vòng 10 ngày (điều 84 Luật Hộ tịch).
+ Giám hộ người thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Người thường xuyên trong tình trạng thiếu năng lực nhận thức do
khuyết tật về tâm thần (Điều 7). Theo yêu cầu của bản thân người đó, người
phối ngẫu, người thân thích, người giám hộ người chưa thành niên, người
giám sát việc giám hộ người chưa thành niên, người trợ tá, người giám sát
việc trợ tá, người hỗ trợ, người giám sát hỗ trợ, công tố viên, tòa án gia đình
quyết định việc bắt đầu giám hộ (Điều 7). Khi quyết định việc bắt đầu giám
hộ thì tòa án sẽ cử ra người giám hộ người thành niên theo chức quyền của
mình (khoản 1 Điều 843).
Khi thấy đặc biệt cần thiết đối với người cao tuổi, người khuyết tật về
trí tuệ, người khuyết tật về tâm thần, thì chủ tịch xã phường thị trấn có thể yêu
cầu quyết định bắt đầu giám hộ (Điều 31 Luật Phúc lợi người già, Điều
51.11.2 Luật về bảo vệ sức khỏe tâm thần và phúc lợi của người khuyết tật
tâm thần, Điều 27.3 Luật Phúc lợi người khuyết tật trí tuệ)
+ Điều kiện về người giám hộ người thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Giống như người giám hộ người chưa thành niên (Điều 847, khoản 4
Điều 843, khoản 1 Điều 859.2)
+ Cử người giám hộ người thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Tòa án gia đình cử theo chức quyền (khoản 1 Điều 843)
+ Người giám sát việc giám hộ người thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
19
Giống như với người chưa thành niên trừ trường hợp chỉ định theo di
chúc của người có quyền làm cha mẹ (Điều 850, Điều 849)
+ Công bố việc giám hộ người thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Khi quyết định của tòa án gia đình về việc bắt đầu giám hộ có hiệu lực
thì thư ký tòa án phải không chậm trễ ủy thác cho cơ quan đăng ký theo pháp
luật về đăng ký giám hộ (điểm 1 Điều 116 Luật Thủ tục vụ việc gia đình)
Người được giám hộ thành niên, người giám hộ người thành niên,
người giám sát việc giám hộ người thành niên có thể yêu cầu cấp văn bản
chứng minh về nội dung đăng ký liên quan đến mình. Ai cũng có quyền yêu
cầu cấp văn bản chứng minh rằng không có đăng ký về mình (khoản 2 Điều
10 Luật về đăng ký giám hộ)
+ Quyền đại diện của người giám hộ người thành niên theo Luật dân sự
Nhật Bản
Người giám hộ quản lý tài sản của người được giám hộ và đại diện cho
người được giám hộ về hành vi pháp lý về tài sản đó (khoản 1 Điều 859).
Việc mua bán, cho thuê, hủy bỏ việc cho thuê hoặc thế chấp hoặc các
xử lý đối với nhà cửa và đất đai dùng để ở khác phải được sự đồng ý của tòa
án gia đình (Điều 859.3)
+ Hiệu lực của hành vi pháp lý mà người thành niên được giám hộ đã
thực hiện, quyền lợi của phía bên kia theo Luật dân sự Nhật Bản
Hành vi pháp lý của người thành niên được giám hộ có thể bị hủy bỏ
(Điều 9). Trừ việc mua sắm các vật dụng thường ngày và các hành vi liên
quan đến đời sống sinh hoạt hàng ngày khác (Điều 9). Người thành niên được
giám hộ, người giám hộ người thành niên có thể chấp nhận bổ sung không
hủy bỏ (Điều 122). Quyền lợi của phía bên kia cũng giống như giám hộ người
chưa thành niên.
20
+ Chấm dứt giám hộ người thành niên theo Luật dân sự Nhật Bản
Khi nguyên nhân giám hộ không còn thì tòa án gia đình phải hủy quyết
định bắt đầu giám hộ theo yêu cầu của bản thân người đó, người phối ngẫu,
người thân thích, người giám hộ, người giám sát việc giám hộ, công tố viên
(Điều 10).
Khi quyết định bắt đầu giám hộ bị hủy hoặc phát sinh hiệu lực thì thư
ký tóa án ủy thác cho cơ quan đăng ký đăng ký (điểm 1 Điều 116 Luật thủ tục
vụ việc gia đình).
Hiện nay, chúng ta đang sửa đổi Bộ luật dân sự 2005 trong đó có chế
định giám hộ, do vậy việc nghiên cứu, vận dụng những qui định tiến bộ của
pháp luật nước ngoài để sửa đổi một số qui định về giám hộ trong Bộ luật dân
sự là cần thiết.
21
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ GIÁM HỘ
2.1. Người giám hộ
Người giám hộ có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật quy
định hoặc được cử làm người giám hộ để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
+Về điều kiện của cá nhân làm giám hộ
Theo quy định của Điều 60 Bộ luật dân sự 2005 thì cá nhân có đủ các
điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị Tòa án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (tham khảo Điều 19).
- Có tư cách đạo đức tốt, không phải là người đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong
các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản của người khác.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người giám hộ phải có tư
cách đạo đức tốt vì người cần được giám hộ là người chưa thành niên và
người mất năng lực hành vi dân sự. Người chưa thành niên về mặt nhận thức
xã hội kinh nghiệm cuộc sống còn ít. Người mất năng lực hành vi thì không
có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Người giám hộ ngoài
việc là đại diện cho người được giám hộ trong các quan hệ với Nhà nước,
trong hầu hết các giao dịch dân sự còn là người chăm sóc, bảo vệ quyền lợi
cho người được giám hộ. Do đó, nếu đạo đức của người giám hộ không tốt sẽ
ảnh hưởng đế sự hình thành nhân cách của người chưa thành niên, dễ xâm
phạm đến quyền lợi của người mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, Bộ
luật dân sự 2005 cũng như các văn bản pháp luật hiện hành không hề giải