BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÙI THỊ QUẾ ANH
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÙI THỊ QUẾ ANH
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tổ tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết luận, số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TỐT NGHIỆP
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN
HƢỚNG DẪN
PGS.TS. Trần Anh Tuấn
Bùi Thị Quế Anh
PGS.TS. Trần Anh Tuấn
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
BC/TU
BLDS
BLLĐ
BLTTDS
HCTP
HĐTPTANDTC.
KHXX
NCPL
NQ-HĐTP
NQ/TW
PLTTGQCVADS
PLTTGQCVAKT
13
PLTTGQCTCLĐ
14
15
16
17
18
19
20
21
22
SL
TA
TANDTC
TTDS
TTLT
UBND
VADS
XHCN
VKSNDTC
Báo cáo/Tỉnh ủy
Bộ luật dân sự
Bộ luật lao động
Bộ luật tố tụng dân sự
Hành chính tư pháp
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Khoa học xét xử
Nghiên cứu pháp luật
Nghị quyết-Hội đồng Thẩm phán
Nghị quyết/Trung ương
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động năm 1996
Sắc lệnh
Tòa án
Tòa án nhân dân tối cao
Tố tụng dân sự
Thông tư liên tịch
Ủy ban nhân dân
Vụ án dân sự
Xã hội chủ nghĩa
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỤC LỤC
Tr
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ
ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về khởi kiện vụ án dân sự
14
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về
17
1
6
6
khởi kiện vụ án dân sự
Kết luận chƣơng 1
24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
25
2.1. Thực trạng quy định về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
2.2. Thực trạng quy định về đơn khởi kiện, quy trình tiếp nhận và
xử lý đơn khởi kiện
Kết luận chƣơng 2
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
25
38
49
50
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN VÀ KIẾN
NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về khởi kiện vụ án dân sự tại
50
Tỉnh Điện Biên
3.2. Một số kiến nghị về khởi kiện vụ án dân sự từ thực tiễn tại Tỉnh
65
Điện Biên
Kết luận chƣơng 3
73
KẾT LUẬN CHUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
74
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, vấn đề khởi
kiện vụ án dân sự đã được quy định trong ba Pháp lệnh về thủ tục tố tụng. Đó là Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ). Các quy định về khởi
kiện vụ án dân sự trong ba Pháp lệnh này là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể
có thể sử dụng bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án và cũng là cơ sở để Tòa án
xem xét thụ lý giải quyết vụ tranh chấp. BLTTDS năm 2004 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 15
tháng 6 năm 2004 đã kế thừa và phát triển các quy định của ba Pháp lệnh về thủ tục
tố tụng dân sự trước đó. BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã khắc phục được một số hạn
chế, vướng mắc của BLTTDS năm 2004 về hình thức, nội dung đơn khởi kiện; trả lại
đơn khởi kiện; Khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, một số
quy định của Bộ luật này về khởi kiện vụ án dân sự vẫn còn hạn chế và bất cập. Sự
thiếu cụ thể, rõ ràng của một số quy định của pháp luật đã làm cho đương sự khó
khăn khi xác định các điều kiện khởi kiện để nộp đơn khởi kiện, khó khăn cho Tòa
án khi thụ lý các đơn khởi kiện. Năm 2013, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 ra đời đã
ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền dân sự cơ bản của công dân, các quy định
về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự trong BLTTDS sửa đổi năm 2011 cũng cần được
sửa đổi nhằm cụ thể hoá việc thực hiện các quyền này. Do vậy, ngày 25/11/2015
Quốc hội đã thông qua BLTTDS năm 2015. BLTTDS lần này đã có nhiều thay đổi
quan trọng, bảo đảm tốt hơn quyền khởi kiện của chủ thể trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết các VADS tại tỉnh Điện Biên
trước khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực (1/7/2016) vẫn còn gặp nhiều vướng mắc,
bất cập, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc thực hiện các quy định này và chưa
được các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy đủ và thống nhất. Ngoài ra,
BLTTDS năm 2015 cũng có nhiều quy định mới cần được tìm hiểu thấu đáo cũng
như hướng dẫn để triển khai áp dụng trên thực tế. Việc nghiên cứu chuyên sâu lý
1
luận về khởi kiện vụ án dân sự giúp cho cán bộ tư pháp có nhận thức sâu sắc hơn về
các quy định hiện hành, những quy định mới cần được triển khai thực hiện cũng
như những khiếm khuyết, hạn chế của pháp luật vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, việc
nghiên cứu thực tiễn tố tụng tại địa bàn Tỉnh Điện Biên về khởi kiện vụ án dân sự sẽ
giúp học viên có một góc nhìn sâu sắc hơn về thực trạng thực hiện việc khởi kiện vụ
án dân sự, từ đó đề xuất giải pháp có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự tại các Toà án trên
địa bàn Tỉnh Điện Biên nói riêng và ngành Tòa án nói chung. Với những lý do trên
đây, tôi đã lựa chọn đề tài "Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Điện Biên" làm Luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài cho thấy, trong thời gian trước và sau
khi BLTTDS được ban hành đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề khởi
kiện vụ án dân sự. Ví dụ như công trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp cơ sở của
Trường đại học luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc
dân sự theo định hướng cái cách tư pháp” do TS. Trần Anh Tuấn chủ nhiệm năm
2010. Một số bài viết được công bố trên tạp chí như bài viết “Vấn đề khởi kiện và
thụ lý vụ án dân sự” của Ths Lê Thị Bích Lan đăng trên Tạp chí Luật học – số đặc
san về BLTTDS năm 2005; bài viết “Xây dựng quy định pháp lý đảm bảo quyền
khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tại toà án” của tác giả Lê Thế Phúc
(Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6 năm 2007); “Bàn về điều kiện khởi kiện của
các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay” của tác giả Trịnh Huy
Tân (Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao số 9/2008); “Về việc rút
đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự” của ThS Nguyễn Triều Dương
(Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 11/2009); “Về điều kiện khởi kiện tranh chấp
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong một vụ án cụ thể” của tác
giả Ngô Đình Quyến (Tạp chí Toà án nhân dân tháng 3/2008); "Quyền khởi kiện và
việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần Anh Tuấn (Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 23/2008); “ h ng vấn đề cơ ản lưu ý khi thụ lý đơn khởi khởi kiện
khởi tố đơn yêu c u trong giải quyết vụ án ân sự” của tác giả Duy Kiên đăng
2
trên tạp chí Kiểm sát số 07/2012; bài viết: “ ột số ý kiến về th i hiệu khởi kiện
theo quy định của uật s a đổi
ổ sung ộ luật tố tụng ân sự 2004” của tác giả
Lê Mạnh H ng đăng trên tạp chí Kiểm sát số 10/2012. Bài viết “
mới về khởi kiện và thụ lý vụ án ân sự theo uật s a đổi
h ng quy định
ổ sung một số điều của
ộ luật tố tụng ân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng trên Tạp chí Tòa án
số 19/2011. .. Ngoài ra, còn nhiều các bài viết riêng l khác đăng tải trên các trang
Web về luật học. Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu một cách khái quát về từng khía cạnh riêng l của khởi kiện và thụ l vụ án
dân sự.
Về Luận văn, luận án có Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Công Bình năm
2006 với đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS Việt Nam”, Luận
văn thạc sỹ luật học của học viên Liễu Thị Hạnh bảo vệ năm 2009 về đề tài “Thụ lý
vụ án dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ luật học "Quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả
Trần Đức Thành (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011); luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Thị Hương với đề tài “ hởi kiện vụ án ân sự theo quy định
của
ộ luật tố tụng ân sự năm 2004” (Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội-
2012); luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thu Hiền với đề tài “ oàn
thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án ân sự trong pháp luật tố tụng ân sự iệt
Nam” (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội- 2012); Luận văn thạc sỹ luật học của
học viên Trần Thị Lượt bảo vệ năm 2014 với đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự”.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến khởi kiện án dân sự dưới các
góc độ nghiên cứu riêng. BLTTDS năm 2015 vừa được ban hành có nhiều quy định
mới, do vậy, việc nghiên cứu đánh giá về cơ sở và sự phù hợp của các quy định về
khởi kiện vụ án dân sự với thực tiễn là cần thiết. Ngoài ra, vấn đề áp dụng quy định
của BLTTDS năm 2011, vận dụng quy định của BLTTDS năm 2015 về khởi kiện
vụ án dân sự tại các Toà án trên địa bàn miền núi như Tỉnh Điện Biên là một vấn đề
có
nghĩa sâu sắc trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý của đồng bào các dân
tộc vùng Tây Bắc. Do vậy, việc phân tích những nội dung pháp lý về khởi kiện
VADS dưới góc độ lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện tại các Toà án trên
3
địa bàn Tỉnh Điện Biên, qua đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hướng dẫn triển
khai hoặc hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật trên thực tế là cần
thiết, có
nghĩa l luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật về khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại các Toà án
trên địa bàn Tỉnh Điện Biên. Trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ luật học, với
giới hạn về thời gian nghiên cứu, thực hiện đề tài, Luận văn chỉ nghiên cứu tập
trung vào những vấn đề lý luận cơ bản của khởi kiện vụ án dân sự như khái niệm,
đặc điểm,
nghĩa và cơ sở của khởi kiện vụ án dân sự, nội dung các quy định của
BLTTDS sửa đổi năm 2011 và BLTTDS năm 2015, các văn bản hướng dẫn về khởi
kiện vụ án dân sự và giới hạn thực tiễn thực hiện việc khởi kiện đó trong phạm vi
địa bàn Tỉnh Điện Biên.
4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án
dân sự; nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân
sự và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại các Toà án trên địa bàn Tỉnh Điện Biên.
Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ xác định những hạn chế của pháp luật hiện hành, những
điểm mới của BLTTDS năm 2015 và vấn đề triển khai thực hiện trên thực tế cũng
như những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn thực hiện khởi kiện vụ án dân sự tại các
Toà án trên địa bàn Tỉnh Điện Biên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện, triển
khai pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài tập trung vào
một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự như khái niệm, đặc
điểm và
nghĩa, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định đó.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi
năm 2011, so sánh với quy định của BLTTDS năm 2015 về khởi kiện vụ án dân sự.
4
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi
năm 2011về khởi kiện vụ án dân sự tại các Toà án trên địa bàn Tỉnh Điện Biên;
những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định đó tại Tòa án.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về khởi kiện vụ án dân sự nhằm góp phần giải quyết nhanh chóng,
chính xác các vụ án dân sự.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước qua
các giai đoạn lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu của khóa luận là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng thực
tiễn kiểm chứng lý luận. Ngoài ra, để thực hiện việc nghiên cứu tác giả cũng sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy
diễn lô gic.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan
đến khởi kiện vụ án dân sự. Những đóng góp mới của Luận văn:
Phân tích, luận giải có hệ thống các quy định của BLTTDS sửa đổi năm 2011
và BLTTDS năm 2015 về khởi kiện vụ án dân sự; đánh giá được thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng những quy định về khởi kiện vụ án dân sự tại các Toà án
trên địa bàn Tỉnh Điện Biên; phân tích và luận giải những khó khăn, vướng mắc nảy
sinh từ thực tiễn thực hiện pháp luật về khởi kiện vụ án trên thực tế. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu, Luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân sự cũng như bảo đảm
thực hiện các quy định của pháp luật trên thực tế.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự.
5
Chương 2: Thực trạng các quy định hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về khởi kiện vụ án dân sự tại Tỉnh
Điện Biên và kiến nghị.
6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA KHỞI KIỆN VỤ ÁN
DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự có thể hiểu dưới góc độ là một quyền tố tụng hoặc một
hành vi tố tụng. Nếu xét dưới góc độ là quyền thì quyền khởi kiện của các chủ thể
phải được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống cơ quan tư pháp, trong đó có Tòa án. Tòa
án phải tạo điều kiện và bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền khởi kiện của
mình. Nếu xét khởi kiện dưới góc độ là hành vi tố tụng của chủ thể có quyền lợi
hoặc chủ thể được pháp luật trao quyền khởi kiện thì hành vi này cần phải tuân thủ
các quy định của pháp luật về điều kiện, trình tự thủ tục, thời hạn và Tòa án là cơ
quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu các chủ thể phải thực hiện theo các quy định
này.
Trong xã hội có Nhà nước thì quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đã được
pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước quy định
bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của mình. Cổ luật La Mã đã ghi nhận quyền khởi kiện
của công dân La Mã, theo đó, người có quyền lợi bị xâm phạm có quyền khởi kiện
đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Người bị vi phạm có thực hiện
quyền khởi kiện hay không, điều này pháp luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý
chí của người đó. Trong xã hội ngày nay, khởi kiện là một trong những nhóm quyền
tố tụng thuộc quyền con người. Theo Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
năm 1948 thì “Mọi ngư i đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có
thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại nh ng hành vi vi phạm
các quyền căn ản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”.1.
Ở Việt Nam, về phương diện lý luận, TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng định
trong Giáo trình Luật tố tụng dân của trường Đại học Luật Hà Nội 1994 rằng
“Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ
chức xã hội yêu c u Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của
Trần Anh Tuấn (2008), “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng”, Tạp chí Toà án nhân
dân, (23), tr. 12.
1
7
tập thể của hà nước hay của ngư i khác đang ị tranh chấp hoặc vi phạm”1. Tiếp
theo đó, TS. Hoàng Ngọc Thỉnh cho rằng“Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố
tụng quan trọng của các chủ thể… iệc thực hiện quyền này của các chủ thể được
gọi là khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân cơ quan
tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn
yêu c u Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của
ngư i khác” 2. Theo đó, khởi kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ
sở làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. TS. Phan Chí Hiếu cho rằng
“quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ
chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu
c u Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của hà nước, tập thể hay
của ngư i khác đang ị tranh chấp hoặc bị vi phạm”3.
Theo kết quả nghiên cứu trên thì bản chất của khởi kiện là thực hiện quyền
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Khởi
kiện là thực hiện quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn và theo
nghĩa rộng thì khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn, quyền và quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của mình trước khi
nguyên đơn khởi kiện vụ án. Theo TS. Nguyễn Công Bình “Trong vụ án dân sự, lợi
ích pháp lý của ngư i có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn
độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn và ị đơn. Thông thư ng ngư i có quyền
và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ
án dân sự nhưng o vụ án dân sự đã xuất hiện gi a nguyên đơn và ị đơn nên họ
phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu không việc
bảo vệ quyền và lợi ích của họ sau đó sẽ gặp khó khăn” 4.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản khác đã cụ thể hoá và ghi
nhận quyền khởi kiện của đương sự. Cụ thể là quyền khởi kiện được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Trước khi Bộ luật tố tụng dân
1
Phan Hữu Thư (1994), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Đại học Luật HàNội giữ bản quyền, tr.109, 110.
TS. Nguyễn Công Bình (2014), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 242.
3
PGS. TS. Phan Hữu Thư, TS. Lê Thu Hà (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 305.
4
TS. Nguyễn Công Bình (2014), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 111.
2
8
sự (BLTTDS) năm 2004 ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa rất rộng.
Theo đó, quyền khởi kiện được hiểu là khả năng Nhà nước cho phép công dân được
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho rằng
quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện
pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về xác định thẩm quyền xét xử về dân sự và
thương sự của Toà án sơ cấp, Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư
pháp và tố tụng... thuật ngữ vụ kiện dân sự được sử dụng để chỉ những tranh chấp
dân sự có yêu cầu Toà án giải quyết. Đến năm 1959, khi mà Hiến pháp 1959 ra đời,
thuật ngữ vụ kiện trước đây được thay thế bằng thuật ngữ vụ án, cụ thể theo Điều 1
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 quy định “Toà án nhân ân xét x nh ng
vụ án hình sự và dân sự...”. Khái niệm vụ án dân sự ở đây được d ng để chỉ những
vụ kiện dân sự và cả những việc dân sự đặc biệt – bao gồm cả những việc trong đó
có tranh chấp hay không có tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự. Theo ba Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động thì
khi các đương sự có nhu cầu đưa các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động để giải quyết
theo thủ tục tố tụng thì tất cả các vụ việc, tranh chấp hay không tranh chấp vẫn được
gọi chung là vụ án.
Theo BLTTDS 2004, thì có hai loại thủ tục riêng biệt là thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự có tranh chấp và thủ tục giải quyết việc dân sự không có tranh chấp.
Theo đó, lần đầu tiên khái niệm vụ việc dân sự và việc dân sự đã được BLTTDS ghi
nhận chính thức. Khái niệm vụ việc dân sự đã thay thế cho khái niệm vụ án dân sự
trước đây, nếu các cá nhân, cơ quan tổ chức có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ thì
gọi là vụ án dân sự, nếu cơ quan cá nhân tổ chức không có tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ nhưng có yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự thì là việc
dân sự. Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động. Theo BLTTDS 2004, BLTTDS sửa đổi năm 2011
thì khởi kiện được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước đây. Theo đó, khởi kiện là thực
hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh
chấp trong vụ án dân sự. Còn yêu cầu là thực hiện quyền của chủ thể trong việc yêu
cầu Tòa án xem xét về việc công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý
9
hoặc các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
không có tranh chấp.
Theo quy định tại Điều 14 Hiến pháp 2013 thì “Ở nước Cộng hoà X C
am các quyền con ngư i về chính trị
ân sự kinh tế văn hóa và xã hội được tôn
trọng thể hiện ở các quyền công ân và được quy định trong
Trong đó quyền dân sự có
iệt
iến pháp và luật”.
nghĩa rất quan trọng. Khi quyền và lợi ích của chủ thể
bị xâm phạm hay tranh chấp thì họ có quyền thực hiện những biện pháp mà pháp
luật cho phép để bảo vệ và một trong những biện pháp đó chính là khởi kiện VADS.
Về nguyên tắc, chỉ có chủ thể có quyền lợi ích bị xâm phạm mới có quyền
khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình như cá nhân, pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác và các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định
các trường hợp khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Điều 162 BLTTDS sửa đổi
năm 2011 đã ghi nhận những chủ thể có quyền khởi kiện mặc d không có quyền
lợi tranh chấp hay vi phạm. Theo đó, Cơ quan về dân số, gia đình và tr em, Hội
liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình
quy định. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao
động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Điều 187 BLTTDS năm 2015 về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước đã kế thừa các quy định tại Điều 162 BLTTDS sửa đổi năm 2011 đồng thời có
những sửa đổi bổ sung về quyền khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ
chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các
chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích
công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị xâm phạm hay
có tranh chấp với chủ thể khác. Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi tố tụng đầu tiên
10
của chủ thể có quyền lợi hoặc người đại diện của họ làm phát sinh các quan hệ pháp
luật TTDS. Việc thực hiện quyền khởi kiện VADS thể hiện bằng việc nguyên đơn
nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, là sự kiện thực tế có
nghĩa pháp l làm
phát sinh quá trình tố tụng dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện VADS được xem là công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ các
phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước d ng để giải quyết các tranh chấp
và mâu thuẫn lợi ích. Hoạt động khởi kiện VADS có những đặc điểm sau:
- Khởi kiện là hoạt động do các chủ thể có quyền lợi hoặc được pháp luật trao
quyền thực hiện theo quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng quy định.
Về nguyên tắc thì trừ các trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy định thì chủ
thể có quyền khởi kiện thường là chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động có tranh chấp. Cụ thể là khởi kiện
được pháp luật ghi nhận dưới dạng quyền khởi kiện tại Điều 161, Điều 162
BLTTDS sửa đổi năm 2011 và Điều 186, Điều 187 BLTTDS năm 2015, theo đó cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp
khởi kiện VADS (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền
để yêu cầu bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài đương sự thì việc
khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cũng được trao cho một số chủ
thể khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của người khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng. Khởi kiện vụ án phải do các chủ thể trên thực hiện.
- Khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động tố tụng mà các đương sự được tự do
định đoạt trong việc bảo vệ quyền lợi của mình
Khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động trong đó các đương sự được tự do định
đoạt, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm hại có quyền thực hiện hoặc không thực hiện hoạt động khởi kiện vụ
án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm
quyền dân sự phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc theo thỏa
thuận của các bên. Đây là đặc điểm đặc trưng của hoạt động này. Việc khởi kiện
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do của cá nhân, đồng thời pháp
luật cũng ghi nhận việc tự định đoạt và tự thỏa thuận của các chủ thể. Điều này xuất
phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động nên trong tố tụng dân sự thì các đương sự có quyền tự
11
định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình.Các đương được tự do lựa chọn các
phương thức để bảo vệ quyền lợicủa mình như trung gian hòa giải, trọng tài hoặc
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Khởi kiện vụ án dân sự được pháp luật ghi nhận là hoạt động tố tụng đ u
tiên bảo vệ quyền dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
và các chủ thể được pháp luật trao quyền
Cụ thể khởi kiện được pháp luật ghi nhận dưới dạng quyền cầu viện công lý
bảo vệ quyền lợi của chủ thể và đây là hoạt động tố tụng đầu tiên trong quá trình
bảo vệ quyền lợi. Xuất phát từ yêu cầu của việc cần đảm bảo quyền con người, khi
quyền hay lợi ích bị xâm phạm thì chủ thể có quyền hoặc được pháp luật trao quyền
có thể nhờ sự can thiệp của Tòa án thông qua việc làm đơn khởi kiện. Việc làm đơn
khởi kiện là bước đầu tiên trong hoạt động khởi kiện, từ việc làm đơn gửi Tòa án sẽ
phát sinh những thủ tục tố tụng tiếp theo như đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý hay
không thụ lý, nếu đơn được chấp nhận Tòa án sẽ ra các quyết định tố tụng khác để
giải quyết vụ án…Chính vì vậy, khởi kiện được coi là hoạt động không thể thiếu để
làm phát sinh vụ án dân sự.
- Khởi kiện VADS là tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự
Xét dưới góc độ là quyền thì việc khởi kiện phải được bảo đảm thực hiện bởi
các hoạt động khác do các cơ quan tố tụng thực hiện như Cơ quan thi hành án dân
sự thực hiện việc thu tạm ứng án phí, lệ phí; Tòa án xem xét thực hiện việc thụ lý,
chuẩn bị xét xử, hòa giải, xét xử vụ án để ra phán quyết, Viện kiểm sát thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự. Khởi kiện VADS được
thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Hoạt động ngay sau việc nộp
đơn khởi kiện là hoạt động xem xét đơn khởi kiện. Tòa án sau khi nhận đơn khởi
kiện sẽ xem xét đơn và trong thời hạn luật định phải ra một trong các quyết định thụ
lý nếu thuộc thẩm quyền; chuyển đơn nếu không thuộc thẩm quyền và trả lại đơn.
Khởi kiện chính là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác
nhau tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
12
- Khởi kiện là phương thức bảo vệ kịp th i quyền, lợi ích dân sự trên cơ sở
quyền tự định đoạt của các chủ thể
Theo đó, khởi kiện là phương thức để các chủ thể có thể hành động ngay tức
khắc để tự bảo vệ các quyền dân sự của mình, tránh nguy cơ bị xâm phạm như đòi
bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe, khởi kiện yêu cầu thực hiện đúng hợp
đồng, khởi kiện để yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực
hiện quyền dân sự. Để ngăn chặn kịp thời hậu quả của hành vi vi phạm, người khởi
kiện còn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời c ng
lúc với việc nộp đơn khởi kiện. Từ việc khởi kiện, các cơ quan tố tụng sẽ có hành
động can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, thiệt
hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi
phục lại mối quan hệ thiện chí, cởi mở, giao hòa giữa các bên trong đời sống dân
sự.
- hởi kiện vụ án ân sự là hành vi đ u tiên của cá nhân pháp nhân và các
chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng ân sự là cơ sở pháp lý làm
phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng ân sự tạo tiền đề cho các hoạt động tố tụng
tiếp theo tại Tòa án
Bản chất của việc khởi kiện là triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một
trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của
người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp. Khởi kiện
được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Chủ thể thực hiện hoạt
động khởi kiện nhằm bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hoặc của người khác bằng
việc nộp đơn, chứng cứ và tài liệu đi kèm nếu có tại Tòa án. Khi đơn được nộp tại
Tòa án thì người có thẩm quyền sẽ thực hiện việc tiếp nhận đơn và xem xét trong
thời hạn do pháp luật quy định để đưa ra quyết định thụ lý hay không thụ l . Không
có hoạt động khởi kiện thì cũng không có quá trình tố tụng dân sự cho các giai đoạn
tiếp theo. Tòa chỉ thụ l giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ
thể đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Khi người khởi kiện thực hiện
quyền khởi kiện của mình bằng việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền,
Toà án có trách nhiệm nhận đơn, vào sổ theo dõi để xem xét giải quyết. Toà sẽ phải
xem xét việc khởi kiện có đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật như tư cách pháp
lý của người khởi kiện; người khởi kiện có năng lực hành vi TTDS, có quyền và lợi
13
ích hợp pháp bị xâm phạm hay đang tranh chấp không, trong trường hợp người đại
diện khởi kiện thì phải tuân thủ các quy định về đại diện; nội dung đương sự yêu
cầu giải quyết có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình không; sự việc đã
được giải quyết bằng án, quyết định đã có hiệu lực chưa... Khi việc khởi kiện đáp
ứng được các yêu cầu thì Toà án tiến hành thụ l VADS. Trong trường hợp người
khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng phí thì Toà án sẽ thông báo để họ biết và đi nộp
tiền tạm ứng án phí. Sau khi nhận được biên lai thu tiền tạm ứng án phí do đương sự
nộp, Toà án sẽ vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết. Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là
cơ sở, tiền đề để Tòa án nhân danh nhà nước giải quyết các vụ án dân sự. Các phán
quyết của Tòa án buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tôn trọng và triệt
để thi hành nên việc thực hiện quyền khởi kiện sẽ bảo đảm cho việc bảo vệ có hiệu
quả quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
- hởi kiện vụ án ân sự c n là cơ sở để T a án tính th i hiệu khởi kiện của
chủ thể c n hay đã hết
Quyền khởi kiện mặc d là một quyền dân sự được pháp luật ghi nhận và đảm
bảo thực hiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức nhưng không phải họ có quyền thực
hiện quyền này bất kỳ khi nào. Đối với m i loại tranh chấp, pháp luật quy định cụ
thể thời hiệu khởi kiện mà hết khoảng thời gian đó, chủ thể không thực hiện quyền
thì sẽ bị hết thời hiệu khởi kiện. Và khoảng thời gian này được tính kể từ khi quyền
và lợi ích bị xâm phạm cho đến khi khởi kiện có thể là hai năm, ba năm… t y thuộc
vào tính chất của m i loại tranh chấp khác nhau. Với mốc thời gian chủ thể nộp đơn
khởi kiện, Tòa án sẽ có căn cứ để xác định việc khởi kiện đó có đảm bảo về thời
hiệu khởi kiện hay không.
Việc ghi nhận quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể và sự bảo đảm của Nhà nước trong việc thực hiện quyền khởi kiện
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Thông qua các quy định của
pháp luật về quyền khởi kiện và khởi kiện VADS sẽ góp phần nâng cao ý thức tuân
thủ pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động đồng thời có ý nghĩa răn đe, ngăn chặn các hành vi
xâm phạm quyền lợi của các chủ thể, đảm bảo sự ổn định của các quan hệ xã hội.
- Khởi kiện VADS là một phương thức x sự văn minh thay thế cho việc các cá
nhân tự do hành x trong việc giải quyết tranh chấp
14
Do địa vị pháp lý của các bên trong quan hệ pháp luật nội dung là bình đẳng
nên một bên không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ của mình,
họ cần phải tìm đến một chủ thể có địa vị pháp l cao hơn, có quyền năng đặc biệt
để can thiệp giúp họ khôi phục lại quyền hay lợi ích bị xâm hại và chủ thể đặc biệt
đó chính là Nhà nước. Thay vì hành xử bằng các hành vi, lời nói giữa các bên thì
việc lựa chọn khởi kiện tại cơ quan có thẩm quyền là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn,
tránh đẩy mâu thuẫn, tranh chấp đến mức xử sự thiếu văn minh, thậm chí tiếp tục
làm phương hại tới nhau. Vì vậy, việc khởi kiện với nghĩa là hoạt động của chủ thể
có quyền triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để
bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay
lợi ích này bị xâm phạm được coi là một hoạt động mang tính chất văn minh.
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHỞI KIỆN
VỤ ÁN DÂN SỰ
- Việc xây dựng các quy định về khởi kiện vụ án dân sự dựa trên cơ sở ghi
nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con ngư i về dân sự
Quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền con người trong Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền năm 1948 và các Công ước quốc tế khác, cụ thể Điều 8 Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận “Mọi ngư i đều có quyền được bảo
vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương iện pháp lý có hiệu lực
chống lại nh ng hành vi vi phạm các quyền căn ản đã được Hiến pháp và pháp
luật công nhận”. Kế thừa các quy định về quyền con người, Điều 14 Hiến pháp
2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định “Ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa iệt Nam, các quyền con ngư i về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công ân và được quy định
trong Hiến pháp và luật”. Tại Chương V Hiến pháp năm 2013 quy định “Khi quyền
dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ … hoặc yêu
cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: Công nhận quyền dân sự của mình; Buộc chấm
dứt hành vi vi phạm…". Như vậy, khởi kiện VADS tại TA chính là công cụ pháp lý
hữu hiệu để bảo vệ các quyền dân sự của công dân. TA là cơ quan sẽ giải quyết các
tranh chấp dân sự của công dân khi họ thực hiện quyền khởi kiện của mình. Trên cơ
sở quy định về quyền con người của Hiến pháp 2013, pháp luật tố tụng dân sự cũng
cụ thể hóa cơ chế bảo vệ các quyền này thông qua phương thức khởi kiện tại Tòa án.
Do đó, việc ghi nhận khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động triển khai thực hiện quyền
15
khởi kiện của chủ thể có quyền trong TTDS trước hết phải dựa trên cơ sở ghi nhận
và bảo đảm các quyền con người về dân sự.
Ngoài việc ghi nhận quyền khởi kiện thì một vấn đề quan trọng là quyền khởi
kiện này sẽ được Toà án tiếp nhận ra sao, với những điều kiện cụ thể nào, trong thời
hạn nào... nếu không được quy định cụ thể thì sẽ không đảm bảo quyền này được
thực thi thực sự trong cuộc sống, cũng như việc thực hiện nó sẽ trở nên thiếu thống
nhất, kém hiệu quả... Do đó, pháp luật cần đặt ra các quy định cụ thể về việc tiếp
nhận yêu cầu khởi kiện đảm bảo sự công khai, minh bạch, theo cơ chế rõ ràng, ràng
buộc trách nhiệm của cả Toà án trong việc bảo đảm thực thi quyền khởi kiện. Ngoài
ra, quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp được ghi nhận là một
nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên tắc này được ghi nhận
trong pháp luật tố tụng dân sự. Các quy định cụ thể về khởi kiện VADS phải hiện
thực hóa và bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.
- iệc xây ựng các quy định về khởi kiện vụ án ân sự phải trên cơ sở trách
nhiệm của T a án trong việc ảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công ân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt
động của Toà án nhân dân các cấp, trong đó có việc “đổi mới thủ tục hành chính
trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngư i dân tiếp cận
công lý; ngư i dân chỉ nộp đơn đến Toà án, Toà án có trách nhiệm tiếp nhận và thụ
lý đơn…”1. Khi công dân thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu TA giải quyết tranh
chấp để bảo vệ quyền lợi cho họ thì TA – một cơ quan của Nhà nước, phải có trách
nhiệm với việc khởi kiện đó của công dân. Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm
2013 quy định: “T a án nhân ân là cơ quan xét x của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa iệt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của công dân
khi họ khởi kiện TA phải bố trí cán bộ, thời gian và địa điểm để tiếp nhận đơn, hồ sơ
khởi kiện của công dân, hướng dẫn cụ thể cho công dân khi họ đến liên hệ khởi kiện
VADS. Thẩm phán để giải quyết được vụ án phải nghiên cứu hồ sơ khởi kiện của
công dân cần kiểm tra các điều kiện khởi kiện, đối chiếu với các quy định của pháp
luật…Như vậy, trách nhiệm của TA đối với yêu cầu khởi kiện của công dân vô cùng
quan trọng. Việc TA nhận trách nhiệm giải quyết vụ án góp phần tạo niềm tin cho
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, tr. 5.
1
16
quần chúng nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật. Việc xây dựng các quy
định về điều kiện khởi kiện vụ án phải hướng tới việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
người dân thực hiện quyền khởi kiện của mình. Nếu đặt ra nhiều điều kiện không hợp
lý hoặc căn cứ trả lại đơn khởi kiện không rõ ràng sẽ làm hạn chế quyền khởi kiện
của chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm.
- Việc đặt ra các quy định về khởi kiện vụ án dân sự còn xuất phát từ nguyên
tắc ình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
Các chủ thể khi tham gia quan hệ TTDS hoàn toàn bình đẳng về việc được
hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ, địa vị pháp lý, một người có nhiều tiền hơn, hay
có địa vị xã hội cao hơn khi tham gia một quan hệ dân sự với người khác không có
nghĩa là họ có quyền coi thường quyền của người kia, có quyền coi nhẹ, thiếu trách
nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình... Do vậy, việc ghi nhận các quy định
cụ thể về khởi kiện vụ án dân sự chính là góp phần đảm bảo sự bình đẳng của các
đương sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, dù họ có là ai, ở địa vị xã hội
nào... thì khi khởi kiện vụ án dân sự vẫn phải thực hiện đầy đủ và tuân thủ các yêu
cầu của pháp luật, như phải cung cấp chứng cứ để chứng minh việc khởi kiện của
mình là chính đáng, phải nộp tiền tạm ứng án phí. Tuy nhiên, các quy định của pháp
luật cũng cần phải hướng tới việc tạo thuận lợi cho đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người yếu thế.
- Việc xây dựng các quy định về khởi kiện vụ án dân sự phải trên cơ sở phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam
Các quan hệ dân sự trong xã hội ngày càng trở nên phức tạp, kéo theo đó là
các tranh chấp cũng ngày càng đa dạng phức tạp hơn nhưng trình độ hiểu biết pháp
luật của người dân nói chung còn chưa cao, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa
nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, do vậy khi xảy ra tranh chấp khó
tránh khỏi lúng túng khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó, việc
quy định rõ ràng, cụ thể và chi tiết về vấn đề khởi kiện vụ án dân sự sẽ giúp cho
người dân có thể dễ dàng hơn trong việc khởi kiện đồng thời giúp cho họ có thể dễ
dàng hơn trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa án
trong quá trình tố tụng.
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.3.1. Giai đoạn trƣớc năm 1945
17
Vấn đề khởi kiện vụ án dân sự đã được quy định trong Bộ Quốc triều hình luật
và Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ. Bộ Quốc triều hình luật của Nhà Lê không chỉ
quy định về pháp luật nội dung mà còn là bộ luật đầu tiên quy định khá chi tiết về
thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, do các nhà làm luật thời kỳ này không có sự phân biệt
pháp luật về tố tụng hình sự và dân sự nên những quy định về tố tụng cũng không
được phân định về tố tụng dân sự và tố tụng hình sự nên tất cả những quy định về
thủ tục tố tụng đều được quy định tại 02 chương là Bộ vong và Đoản ngục.
Thủ tục về đơn kiện (khởi kiện), đơn tố cáo được quy định tại Điều 508 Quốc
triều Hình luật “Đơn kiện hoặc đơn tố cáo phải o các đương sự làm và nộp tại nha
môn có thẩm quyền phân x loại việc đó. ếu đương sự không biết ch thì có thể
nh ngư i khác viết hộ”. Pháp luật quy định con không được kiện hoặc tố cáo ông
bà cha mẹ, vợ không được kiện cáo chồng. Hay Điều 1 Khám tụng điều lệ quy định
khi nhận được đơn các quan x án phải xem xét thủ tục xem đã đ y đủ hay chưa.
Những quy định như trên đã cho thấy việc điều tra xác minh xét hỏi được bắt đầu từ
khi có đơn kiện nên pháp luật đã rất chú trọng đến những thủ tục khởi kiện.
Đến thời nhà Nguyễn, hoạt động lập pháp của triều Nguyễn cũng đã đạt được
những thành tựu đáng nể, tiêu biểu nhất là sự ra đời của bộ Hoàng Việt Luật Lệ (Bộ
luật Gia Long). Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến nước ta thì bộ
luật Gia Long là một bộ luật tiêu biểu nhất, đặc biệt là những quy định về pháp luật
tố tụng đã có sự phân biệt rõ ràng hai thủ tục (thưa kiện) khởi kiện và thụ lý. Ngoài
ghi nhận việc khởi kiện tại một số điều luật trong Hoàng Việt luật lệ, còn ghi nhận
tại chiếu, chỉ, lệnh, dụ của nhà Vua được ghi chép lại trong sách: “ hâm định Đại
nam hội điển sự lệ”. Về việc khởi kiện, Bộ luật Gia Long quy định từ Điều 301 đến
Điều 311, trong đó có một số nội dung sau: Chỉ cho phép một đơn thưa một việc,
việc đó phải liên hệ trực tiếp với mình và phải có bằng chứng. Nếu thưa kiện về
việc quân lương hoặc quản l quân đội thì dân chúng phải công khai đồng loạt thưa
kiện. Bộ luật quy định cấm kiện vượt cấp, cấm gửi thư nặc danh và nghiêm trị hành
vi vu cáo, hành vi xúi giục, người tù không có quyền tố cáo người khác trừ tố ngục
quan, ngục tốt đối xử tàn tệ, hành hạ, xâm hại tù nhân.
Dưới thời Pháp thuộc thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự được quy định
trong luật dân sự thương sự tố tụng và Pháp viện biên chế. Theo luật dân sự thương
sự tố tụng thì một vụ tranh chấp dân sự xảy ra, người có quan hệ trực tiếp đến vụ
tranh chấp có quyền viết đơn đến Tòa án khởi kiện. Như vậy, có thể khẳng định các
18
quy định về khởi kiện đã xuất hiện từ khá sớm trong pháp luật Việt Nam, mặc dù
các quy định này còn khá đơn giản. Tuy nhiên, đó cũng là những cơ sở đầu tiên để
hình thành các quy định về khởi kiện trong pháp luật Việt Nam sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc Việt Nam, lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam châu Á. Cùng thời gian đó, vào cuối năm 1946, bản Hiến pháp đầu
tiên của nước ta ra đời. Hiến pháp 1946 đã ghi nhận một loạt quyền cơ bản của công
dân Việt Nam. Các quy định của Hiến pháp 1946 tạo ra chính là những viên gạch cơ
sở đầu tiên, là điều kiện tiên quyết, là nền tảng cơ bản để hình thành quyền khởi
kiện và viêc thụ lý vụ án dân sự.
Ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL cho phép áp dụng
luật lệ cũ để xét xử nhưng “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và
chính thể Cộng hoà”, trong đó có Điều 11 quy định về thủ tục tố tụng cho phép tạm
thời giữ thủ tục tố tụng của chế độ cũ. Ngày 17/4/1946, Nhà nước đã ban hành Sắc
lệnh số 51/SL có quy định về việc kiện, khởi tố thụ lý vụ án, tuy nhiên thực chất lại
không có quy định thụ l như thế nào. Đến ngày 22/5/1950 Sắc lệnh số 97/SL được
ban hành quy định về việc sửa đổi một số nguyên tắc mới để áp dụng điều kiện dân
chủ, vẫn cho phép tiếp tục áp dụng các luật lệ cũ nhưng với điều kiện không được
trái với nguyên tắc do chính Sắc lệnh này quy định. Điều này có
nghĩa đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển của Luật Dân sự nói chung và quyền dân sự của chủ
thể về việc khởi kiện vụ án dân sự nói riêng. Sắc lệnh này đã đặt cơ sở, cũng như
đặt ra các nguyên tắc cơ bản cho việc hình thành và phát triển quyền khởi kiện của
các chủ thể trong giao lưu dân sự.
Từ năm 1955 đến năm 1958 Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
tố tụng như Thông tư 141/HCTP ngày 5/2/1957, Thông tư 1507/HCTP ngày
24/8/1956, Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1958... nhưng nhìn chung chỉ mới dừng
lại ở việc quy định về nguyên tắc giải quyết vụ án dân sự mà chưa có quy định cụ
thể về thủ tục tiếp nhận đơn khởi kiện vụ án dân sự. Sau khi Luật hôn nhân và gia
đình năm 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960 ra đời đã có một khối lượng đáng
kể các văn bản hướng dẫn thủ tục giải quyết các tranh chấp về dân sự, đặc biệt là
thủ tục giải quyết ly hôn. Theo đó, "... đương sự có quyền đưa đơn trực tiếp đến Toà
án, mặc dù việc bất hoà trong gia đình chưa được tổ hoà giải hoặc Ủy ban hành
19