Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.04 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI NGÂN

HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Vũ Thị Hồng Yến

HÀ NỘI - 2015

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Vũ Thị Hồng Yến .
Mọi tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công
trình, thời gian, địa điểm công bố.
Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian dối,
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Học viên



Nguyễn Hải Ngân

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

1
6

VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hợp đồng dân sự vô
hiệu do giả tạo

6

1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.

6

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.

8

1.2. Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo

11


1.2.1. Hợp đồng dân sự giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác.

11

1.2.2. Hợp đồng dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba.

12

1.2.3. Hợp đồng dân sự giả tạo có yếu tố tưởng tượng.

14

1.3. Phân biệt hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo với hợp đồng
dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.

15

1.4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.

20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

23

2.1. Định nghĩa về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


23

2.2. Các điều kiện của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo

28

2.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo

35

2.4. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.

44

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG KÝ KẾT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO - CÁC GIÁI PHÁP KHẮC PHỤC

46

3.1. Thực trạng ký kết và áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả

46

tạo.
3.1.1. Thực tiễn ký kết hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.

46

3.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự do giả tạo.


54

3.2. Nguyên nhân và giải pháp khắc phục.

61

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


3.2.1. Nguyên nhân của thực trạng ký kết và áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự
do giả tạo.

61

3.2.2. Giải pháp khắc phục những bất cập của thực trạng ký kết và áp dụng pháp

64

luật về hợp đồng dân sự do giả tạo.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo

66


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TRONG LUẬN VĂN



Hợp đồng

HĐDS
GDDS

Hợp đồng dân sự
Giao dịch dân sự

BLDS
NLPLDS
NLHVDS

Bộ luật dân sự
Năng lực pháp luật dân sự
Năng lực hành vi dân sự

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến trong đời sống xã hội
hiện đại. Hầu hết pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều coi chế định hợp
đồng là một trong những chế định quan trọng bậc nhất. Khi xây dựng chế định về
hợp đồng các nhà làm luật luôn quan tâm đến hệ thống các quy định về điều kiện
để hợp đồng có hiệu lực và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Các quy định này
góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp

đồng nói riêng, của nhà nước và xã hội nói chung.
Tại Việt Nam, kể từ thời điểm Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực đến nay đã
gần 10 năm, hệ thống các quy định về hợp đồng vô hiệu vẫn còn nhiều vướng
mắc. Một số quy định của pháp luật còn mang tính chung chung, chưa cụ thể,
mang tính cứng nhắc dẫn đến cách hiểu không thống nhất. Vì lẽ đó mà quyền lợi
của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự chưa được bảo vệ, đặc biệt là khi hợp
đồng bị tuyên bố vô hiệu. Trên thực tế, không ít trường hợp hợp đồng bị tuyên bố
vô hiệu do các bên giao kết hợp đồng lợi dụng các quy định của pháp luật nhằm
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình trước Nhà nước, pháp luật và bên thứ ba.
Hợp đồng dân sự có yếu tố giả tạo là một trường hợp như thế. Hợp đồng dân sự vô
hiệu do giả tạo là một loại hợp đồng vô hiệu vi phạm về ý chí của chủ thể gây
nhiều tranh cãi và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật. Pháp luật hiện
hành không quy định riêng về hợp đồng dân sự vô hiệu có yếu tố giả tạo mà để
giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh về vấn đề này thì căn cứ vào các quy định của
BLDS 2005 tại Chương VI, Phần thứ nhất, từ điều 121 đến điều 138 về giao dịch
dân sự vô hiệu, trong đó quy định về giao dịch dân sự có yếu tố giả tạo được quy
định tại Điều 129 BLDS 2005. Theo đó khi các bên xác lập giao dịch dân sự một
cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn
giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


2
theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp xác lập giao dịch nhằm trốn tránh
nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.
Việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo
không đơn giản chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật mà còn phải căn cứ vào ý
chí của các chủ thể tham gia hợp đồng, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
Thực tiễn quá trình xét xử của các cấp Tòa án cũng cho thấy vấn đề xử lý hậu quả

pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu tương đối phức tạp, khó giải quyết triệt để,
các vụ án thường tồn đọng, kéo dài chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Nguyên nhân của thực trạng trên một phần là do một số quy định của
pháp luật liên quan đến vấn đề này còn chưa chặt chẽ, đồng bộ dẫn đến cách áp
dụng quy định của luật không thống nhất, nhiều bất cập và hạn chế.
Từ thực trạng đó, tôi nhận thấy việc nghiên cứu toàn diện vấn đề hợp đồng
dân sự vô hiệu do giả tạo dưới các góc độ lý luận và thực tiễn để từ đó đưa ra các
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp dân sự về vấn đề này nhằm đảm bảo
tính khả thi của pháp luật, bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích chính đáng của
người dân, tạo tiền để các cơ quan có thẩm quyền hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ mà Nhà nước giao là yêu cầu tất yếu, khách quan. Với ý nghĩa đó, tôi đã lựa
chọn vấn đề: “Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trước khi tác giả nghiên cứu đề tài này, đã có một số công trình nghiên cứu
và bài viết đề cập đến vấn đề này như sau:
- “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” do TS. Nguyễn Minh Tuấn chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2014 trong đó
đề cập đến vấn đề hợp đồng dân sự vô hiệu giả tạo qua việc phân tích, bình luận
khái quát hệ thống các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và quy định
cụ thể về giao vô giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo tại Điều 129 BLDS 2005.
Tuy nhiên, việc đánh giá những vấn đề lý luận và thực trạng của vấn đề còn nhiều
hạn và chưa có đánh giá chuyên sâu về hợp đồng dân sự giả tạo.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


3
- “Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Mạnh
Bách, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1998. Trong cuốn sách tác giả làm sáng tỏ các
quy định của luật về sự tạo lập nghĩa vụ dân sự, việc thi hành nghĩa vụ dân sự và

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó tác giả cũng có đề cập
tới vấn đề hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo dưới góc độ một khía cạnh trong
quy định của pháp luật dân sự về nghĩa vụ dân sự.
- “Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp” của Ths. LS Lê Kim
giang, Nxb Tư pháp, năm 2011 đã đề cập đến vấn đề loại hợp đồng và các tranh
chấp hợp đồng dân sự thường gặp. Trong đó tác giả cũng đề cập đến quy định của
luật về vô hiệu do giả tạo nhưng không đi sâu phân tích về vấn đề này.
- “Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối” của TS. Bùi
Đăng Hiếu, Tạp chí luật học, năm 2001. Trong đó tác giả phân tích, đánh giá, so
sánh giữa giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối – giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
và nhận định giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối.
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Cường “Giao dịch dân
sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”.
Trong luận án, tác giả nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện về giao dịch dân
sự vô hiệu, làm rõ căn cứ pháp lý dẫn tới giao dịch dân sự vô hiệu và xử lý hậu
quả của nó qua đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các
quy định của pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thu Huyền “Hợp đồng dân
sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể” trong công trình của mình
tác giả chủ yếu tập trung phân tích về các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do
vi phạm điều kiện về ý chí của các chủ thể do giả tạo, nhầm lẫn, bị de dọa... và đưa
ra một số kiến nghị giải pháp về vấn đề này.
Ngoài ra thực tiễn các tranh chấp xuất phát từ hợp đồng dân sự vô hiệu do
giả tạo cũng đã có nhiều bài nghiên cứu, bình luận khoa học về vấn đề này nhưng

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


4

cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích một số khía cạnh pháp lý, rủi ro trong việc áp
dụng pháp luật dân sự về hợp đồng dân sự do giả tạo mà chưa đi sâu vào phân tích
một cách có hệ thống về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo. Vì vậy rất cần có
những công trình nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng dân
sự vô hiệu do giả tạo, thực trạng quy định của Bộ luật dân sự 2005 và thực tiễn áp
dụng pháp luật từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này.
Với mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo như:
khái niệm giả tạo và khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo; đặc điểm của
hợp đồng giả tạo; điều kiện của hợp đồng dân sự giả tạo; xử lý hậu quả pháp lý
của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng
dân sự vô hiệu do giả tạo.
- Đánh giá tình hình thực hiện, áp dụng pháp luật của các chủ thể tham gia
kí kết hợp đồng dân sự giả tạo và của tòa án nhân dân trong quá trình xét xử vụ án
có liên quan đến vấn đề này.
- Đưa ra phương án góp phần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định
hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo của pháp luật dân sự hiện hành.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
Chế định hợp đồng dân sự là một chế định lớn bao gồm nhiều nội dung:
giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, nội dung, hình thức của hợp đồng… Tuy
nhiên trong phạm vi nghiên cứu này luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh
giá những vấn đề lý luận và thực tiễn của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo. Tìm
hiểu và nghiên cứu về thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành và áp dụng quy định

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo



5
của Bộ luật dân sự 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo từ đó đưa ra các đề
xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
Trên cơ sở việc xác định phạm vi nghiên cứu như vậy nên tác giả sử dụng
tổng hợp các phương pháp khoa học để tiến hành nghiên cứu, xây dựng và hoàn
thiện đề tài. Cụ thể: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, suy luận logic, so sánh,
diễn giải, trích dẫn…
5. Kết cấu của luận văn.
Luận văn được kết cấu thành 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo và
những giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Chương 3: Thực trạng ký kết và áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô
hiệu do giả tạo - các giải pháp khắc phục.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả
tạo.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí tự nguyện của các bên chủ thể
tham gia kí kết hợp đồng. Vì thế nếu HĐ được thiết lập mà thiếu tính tự nguyện
của các bên hoặc một bên thì HĐ đó bị coi là vô hiệu và không thể làm phát sinh

quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia kí kết hợp đồng kể từ thời điểm hợp đồng
được xác lập .
“Vô hiệu” được hiểu là “không có hiệu lực, không mang lại kết quả” [8,
tr.1122]. Theo đó, HĐDS vô hiệu được hiểu là HĐDS không có hiệu lực, không
mang lại kết quả.
Dưới góc độ pháp lý, HĐDS vô hiệu là HĐ không có hiệu lực pháp luật,
không làm phát sinh (hoặc không được pháp luật thừa nhận) quyền và nghĩa vụ
dân sự của các bên do vi phạm pháp luật [9].
Điều 410 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Các quy định về GDDS vô hiệu
từ Điều 127 đến điều 138 cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu” [4]. Vì
thế, để hiểu được khái niệm HĐDS vô hiệu phải đặt chúng trong mối quan hệ với
GDDS vô hiệu.
Theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005, thì một GDDS bị coi là vô hiệu
khi không đáp ứng được các điều kiện sau:
- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


7
- Hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.
Căn cứ vào những điều kiện có hiệu lực của GDDS được BLDS 2005 quy
định thì có thể hiểu HĐDS vô hiệu là: Hợp đồng thể hiện ý chí của các bên tham
gia mà khi xác lập có sự vi phạm ít nhất một trong những điều kiện có hiệu lực của
HĐ theo quy định của Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, chưa thể coi đây là một khái
niệm hoàn chỉnh về của HĐDS vô hiệu vì nó chưa nêu lên được bản chất, đặc

trưng của HĐ vô hiệu.
Qua những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm HĐDS vô hiệu như sau:
“Hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng không được pháp luật thừa nhận, không
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đã cam kết trong hợp đồng kể từ thời
điểm xác lập hợp đồng”.
Về khái niệm “giả tạo”, theo Từ điển tiếng việt thì “giả tạo” được hiểu là
“không thật, vì được tạo ra một cách không tự nhiên”. Trong đời sống hàng ngày
người ta thường nói nụ cười giả tạo, thương xót giả tạo...[8].
Dưới góc độ pháp lý, chưa có định nghĩa khái quát về thuật ngữ giả tạo. Bộ
luật dân sự 2005 quy định về giao dịch vô hiệu do giả tạo tại Điều 129, tại điều
luật này các nhà làm luật chỉ nêu lên cách hiểu về GDDS vô hiệu do giả tạo và ghi
nhận các hình thức của sự giả tạo.
Theo từ điển giải thích Luật học:“Giao dịch dân sự do giả tạo là giao dịch
được xác lập nhằm che giấu giao dịch có thật khác. Trong giao dịch giả tạo các
chủ thể không có ý định xác lập quyền và nghĩa vụ với nhau [9].
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên tham gia
hợp đồng, ý chí đó phải là ý chí đích thực của các bên trong quan hệ đó. Nếu như
HĐ được giao kết một cách giả tạo nhằm che giấu ý chí thật của các chủ thể thì
HĐ đó sẽ vô hiệu. Với cách hiểu giả tạo là không tự nhiên, không có thật thì có thể
hiểu HĐDS vô hiệu do giả tạo là HĐDS được xác lập không thật. Trong HĐ giả
tạo các chủ thể không có ý định xác lập quyền và nghĩa vụ với nhau. Thông

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


8
thường các chủ thể thiết lập HĐ với mục đích trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba
hoặc nhằm che giấu một giao dịch khác. Các bên có sự thông đồng với nhau từ
trước khi tham gia giao kết hợp đồng.
Dựa trên những phân tích này, có thể đưa ra khái niệm khoa học về HĐDS

vô hiệu do giả tạo như sau: “Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo là hợp đồng
được xác lập không xuất phát từ ý chí đích thực của các bên tham gia hợp đồng,
không nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật mà nhằm
che giấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba”.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.
Khi giao kết HĐDS các bên tham gia HĐ có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên
tắc, điều kiện luật định. Nếu không tuân theo HĐ sẽ bị vô hiệu và không có giá trị
pháp lý với các bên tham gia hợp đồng từ sự tuyên bố HĐ vô hiệu đó.
HĐDS vô hiệu do giả tạo là HĐ được giao kết không đáp ứng được điều
kiện về tính tự nguyện của các bên chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng. Và
HĐDS vô hiệu do giả tạo mang đặc điểm chung của HĐDS vô hiệu đó là:
- Hợp đồng luôn vi phạm một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự do pháp luật quy định.
Các điều kiện có hiệu lực của HĐDS được quy định tại phần về GDDS vô
hiệu - Bộ luật dân sự 2005 là một thể thống nhất, có quan hệ biện chứng với nhau.
Hệ thống các điều kiện có hiệu lực của HĐDS được quy định cụ thể tại Điều 122,
134 và 410 Bộ luật dân sự 2005. Đó là các điều kiện: năng lực hành vi dân sự; ý
chí của chủ thể tham gia hợp đồng; mục đích và nội dung của HĐ không trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội; hình thức của HĐ phải phù hợp nếu pháp luật có quy
định.
- Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định từ
việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu.
Vấn đề hậu quả pháp lý của HĐDS bị tuyên bố vô hiệu không được quy
định riêng mà để xử lý hậu quả pháp lý của HĐDS vô hiệu thì cần căn cứ vào quy

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


9
định của Bộ luật dân sự 2005 về hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu vì HĐ là một

loại GDDS. Một HĐDS được các bên giao kết mà không tuân thủ các điều kiện có
hiệu lực của HĐ sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường,
tài sản và hoa lợi, lợi tức có thể bị tịch thu [4, điều 137].
HĐDS vô hiệu do giả tạo là HĐ được giao kết không tuân thủ nguyên tắc tự
nguyện của các bên chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng. Các chủ thể tham gia
giao kết HĐ không thể hiện ý chí thực của mình mà thiết lập quan hệ trên một ý
chí sai lệch. Đôi khi các bên tham gia HĐDS vì những lý do khác nhau đã xác lập
với nhau một HĐ không phải với ý chí chủ quan đích thực của họ. Mục đích của
các bên giao kết HĐ giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh
nghĩa vụ với người thứ ba.
Sự giao kết HĐDS giả tạo với mục đích nêu trên làm cho HĐ xác lập giả
tạo có những điểm riêng biệt với các trường hợp HĐDS vô hiệu khác. Đó là những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, về ý chí các bên tham gia hợp đồng xác lập hợp đồng trên cơ sở ý
chí không đích thực.
Xét việc xác lập HĐDS giả tạo, ý chí được bày tỏ của các bên trong HĐDS
giả tạo là hoàn toàn không thật, không đúng với ý chí nội tâm của chủ thể. Các bên
cùng nhau bày tỏ gian ý của mình trong việc xác lập HĐ với nội dung hoàn toàn
giả tạo khác với ý chí ban đầu. Hợp đồng giả tạo bị xác định vô hiệu là do không
đảm bảo được tính tự nguyện về ý chí giữa các bên tham gia. Tính tự nguyện ở
đây không phải do sự cưỡng ép, đe dọa mà bởi vì nó không đảm bảo giữa ý chí
bên trong và sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài khi giao kết hợp đồng. Sự tự nguyện ở
đây không chỉ là sự tự nguyện ở việc xác lập giao dịch mà tự nguyện trong chính
bản thân các chủ thể. Các bên phải biểu hiện ý chí một cách thoải mái và trung
thực với mong muốn của họ. Yếu tố tự nguyện phải được hiểu một cách rõ ràng và

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo



10
đúng đắn như vậy mới đảm bảo cho việc xác lập giao dịch giữa các bên không vi
phạm pháp luật.
Thứ hai, có sự thông đồng từ trước khi giao kết hợp đồng giả tạo giữa các
bên chủ thể.
Điểm đặc biệt của HĐDS có yếu tố giả tạo là có sự thông đồng, nhất chí
của cả hai bên chủ thể từ trước khi xác lập HĐDS. Để xác định một HĐDS là giả
tạo cần căn cứ vào ý chí giả tạo tồn tại ở các chủ thể. Ý chí giả tạo đó không chỉ
xuất phát từ một phía, không xuất hiện khi HĐ giả tạo đang được xác lập mà nó có
từ trước khi có sự xác lập HĐ giả tạo trên cơ sở sự thông đồng giữa các chủ thể.
Nếu không có sự thông đồng trước giữa các bên thì dù có bị tuyên vô hiệu cũng
không thể khẳng định HĐ đó vô hiệu do giả tạo.
Thứ ba, luôn có ít nhất hai giao dịch cùng tồn tại khi các chủ thể xác lập
hợp đồng dân sự giả tạo.
Hợp đồng dân sự giả tạo có một điểm nổi bật để phân biệt với các giao dịch
khác là các giao dịch bình thường chỉ giao kết dưới dạng một hợp đồng, các quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này. Với HĐ giả tạo, các bên xác lập HĐ không
nhằm mục đích phát sinh quyền và nghĩa vụ. Trong việc xác lập HĐDS giả tạo
luôn tồn tại hai giao dịch song song. Hợp đồng giả tạo được thể hiện ra bên ngoài
nhưng lại không có giá trị trên thực tế. Một giao dịch có thật, có giá trị trên thực tế
lại bị che giấu bởi HĐ giả tạo. Theo quy định của pháp luật thì HĐ giả tạo sẽ bị
tuyên vô hiệu còn giao dịch bị che giấu vẫn có giá trị pháp lý. Trường hợp giao
dịch bị che giấu không đáp ứng những điều kiện để một giao dịch có hiệu lực theo
quy định của pháp luật thì khi đó cả HĐ giả tạo và giao dịch bị che giấu đều bị
tuyên bố vô hiệu.
Việc xem xét đặc điểm của HĐDS vô hiệu do giả tạo là cơ sở cho việc phân
tích các quy định của pháp luật thực định về HĐDS vô hiệu do giả tạo. Qua đó đưa
ra các đề xuất thích hợp trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật


Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


11
dân sự để đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân
sự.
1.2. Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.
1.2.1. Hợp đồng dân sự giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác.
Điều 129 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Khi các bên xác lập GDDS một
cách giả tạo nhằm che giấu một GDDS khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu còn giao
dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo
quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu” [4].
Theo điều luật này, ta nhận thấy có hai hình thức của sự giả tạo.
Hình thức thứ nhất, là HĐDS được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu
một giao dịch khác trong đó ý chí của các đương sự hoàn toàn giả tạo. Nói cách
khác là “hai bên giao kết lập một chứng thư mật (chứng thư che giấu) nhằm mục
đích loại bỏ hoặc thay đổi một chứng thư khác” [20, tr.64].
Với trường hợp này, luôn có một giao dịch bị che giấu song song tồn tại với
HĐ giả tạo, nó thể hiện ý chí thực của các bên giao kết. Ví dụ: A cho con gái là B
một mảnh đất với giá 300 triệu đồng nhưng do sợ mâu thuẫn, ghen tị giữa các con
nên A giao kết một HĐ mua bán đất. Ở đây, hợp đồng tặng cho đất giữa A và B
mới là HĐ thể hiện ý chí thực. Hợp đồng mua bán giữa A và B là HĐ giả tạo
nhằm che giấu HĐ tặng cho tài sản. Việc giao kết HĐ trong trường hợp này để che
giấu một giao dịch khác vì những động cơ khác nhau. Bản thân nội dung của HĐ
giả tạo có thể hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nhưng vì nội dung của
nó không đúng với ý chí thực của các bên giao kết HĐ vì thế hợp đồng bị coi là vô
hiệu.
Cũng có trường hợp các bên tham gia HĐ không muốn phủ nhận hoàn toàn
chứng thư giả tạo mà chỉ muốn thay đổi một vài chi tiết, nội dung trong HĐ đó. Sự

giả tạo đôi khi đơn giản là sự mượn tên tuổi nhằm che giấu nhân thân của người
thực sự muốn giao kết hợp đồng. Ví dụ: một người muốn mua một tài sản của

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


12
người khác nhưng người này lại chính là người mà họ là người giám hộ. Trong
tình huống này, người đứng ra ký kết HĐ lại không phải là người thực sự muốn
giao kết, không có chủ ý đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
HĐ mà mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh lại do người giám hộ tiếp nhận. Nhưng về
mặt hình thức thì người đứng tên tham gia giao kết HĐ được coi là chủ thể của
HĐ mà bản thân họ không hề có chủ đích tham gia.
Sự cho mượn tên có thể nhằm mục đích: “người mượn người khác đứng tên
muốn che giấu tông tích của mình trong việc ký kết hợp đồng” [20, tr.65]. Ở đây,
có một sự lừa dối nhằm che giấu và trốn tránh quy định của pháp luật. Nếu các bên
tham gia có sự thông đồng thỏa thuận với nhau từ trước thì đó là HĐDS giả tạo,
còn nếu sự che giấu kia xuất phát từ một phía thì đó là HĐDS bị lừa dối. Theo quy
định của pháp luật, các HĐ trên đều bị coi là vô hiệu nhưng phương thức vô hiệu
của từng HĐ là khác nhau.
1.2.2. Hợp đồng dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba.
Điều 129 Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam quy định: “Khi các bên xác
lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó
vô hiệu” [4]. Như vậy, hình thức thứ hai của sự giả tạo khi xác lập HĐ là nhằm
trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Thỏa thuận ý chí vốn là nguyên tắc nền tảng để hình thành một hợp đồng
dân sự. Hợp đồng có hiệu lực với các bên chấp nhận nó. Nhưng ngoài các bên chủ
thể HĐ còn có những người được hưởng quyền lợi khác. Hợp đồng tạo ra tình
trạng pháp lý ảnh hưởng tới người ngoài. Pháp luật gọi chung những chủ thể này

là “người thứ ba”.
Trong HĐDS giả tạo, việc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thể hiện ở
hai trường hợp:
Thứ nhất, giao kết hợp đồng giả tạo để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
khi bản thân chủ thể tham gia HĐ đã tồn tại một nghĩa vụ với một chủ thể khác.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


13
Ví dụ: A nợ B số tiền 500 triệu đồng. Nay đã đến hạn mà A không thể trả
nợ. A có tài sản duy nhất là căn nhà 3 tầng trong thành phố T. Với mục đích trốn
tránh việc trả nợ và để ngôi nhà của mình không bị xử lý cho việc bảo đảm nghĩa
vụ với B. A bàn với M là em ruột của A về việc A sẽ kí một HĐ mua bán ngôi nhà
này trên danh nghĩa với M. M không phải thanh toán tiền mua nhà với A. Và A
thực chất vẫn là chủ sở hữu nhà. M chỉ là người đứng tên hộ A trong một thời
gian. Hợp đồng mua bán nhà giữa A và M được kí kết và công chứng theo quy
định. Trong tình huống này, dù HĐ mua bán nhà đã qua công chứng nhưng vẫn bị
coi là HĐ giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba theo quy định tại
Điều 129 BLDS 2005.
Thứ hai, giao kết hợp đồng giả tạo để không phải thực hiện một nghĩa vụ
nhất định đối với Nhà nước.
Ví dụ: Để nhằm trốn tránh việc bị Nhà nước tịch thu tài sản do hành vi
tham nhũng của mình, ông A đã thỏa thuận ký HĐ mua bán nhà đất cho B. A và B
chỉ thực hiện việc mua bán về mặt hình thức. Họ không xác lập với nhau bất kỳ
quyền và nghĩa vụ nào trong bản HĐ mua bán. Trường hợp này, HĐ mua nhà đất
giữa ông A và B là một HĐ giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước và do
đó sẽ bị tuyên vô hiệu tuyệt đối.
Trên thực tế tình trạng xác lập giao dịch giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ với
Nhà nước đang ngày càng phổ biến. Đặc biệt là để trốn tránh nghĩa vụ nộp

thuế.Các chủ thể thường ký HĐ tặng cho tài sản giữa người thân trong gia đình
thay cho HĐ mua bán hoặc ký hợp đồng mua bán giữa các chủ thể nhưng giá cả
thể hiện trong HĐ thì thấp hơn rất nhiều so với giá thực tế.
Ví dụ: K có bán một căn nhà mặt tiền cho một người bạn. Giá bán thỏa
thuận trên HĐ bằng giấy tay là 4,5 tỷ. K đã nhận thanh toán đợt 1 là 1,5 tỷ. Sau
khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bên mua sẽ thanh toán phần còn lại
là 3 tỷ. Trong HĐ mua bán đi công chứng K và bên mua thỏa thuận là 2,8 tỷ, nhằm
giảm bớt đóng thuế thu nhập cá nhân và phí trước bạ. Sau khi hồ sơ hoàn tất, K

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


14
bàn giao sổ nhà cho bên mua, nhưng bên mua chỉ đồng ý trả phần còn lại là 1,3
tỷ (theo HĐ đã công chứng). Lẽ ra phải trả phần còn lại là 3 tỷ ( theo HĐ viết tay
thỏa thuận giữa các bên). Khi K yêu cầu bên mua thực hiện đúng cam kết ban đầu
thì bên mua cố tình phớt lờ và yêu cầu thực hiện theo HĐ đã công chứng và chỉ
chấp nhận trả phần còn lại là 1,3 tỷ. Do không thể thỏa thuận được, K khởi kiện ra
tòa yêu cầu giải quyết.
Trong trường hợp này, HĐ mua bán trị giá 2,8 tỷ là HĐ giả tạo nên đương
nhiên vô hiệu. HĐ mua bán trị giá 4,5 tỷ vẫn có giá trị nếu đáp ứng được điều kiện
có hiệu lực của HĐDS theo quy định của pháp luật. Nếu không HĐ này cũng sẽ bị
coi là vô hiệu.
Đối với loại HĐ giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao
dịch này xét về nội dung không có sự vi phạm pháp luật. Tuy nhiên giữa ý chí và
bày tỏ ý chí không có sự thống nhất, mặt khác, mục đích xác lập giao dịch là có sự
vi phạm pháp luật, chủ thể HĐ không thực hiện nghĩa vụ đã tồn tại trước đó mặc
dù có điều kiện thực hiện. Trường hợp này được coi là vi phạm ý chí Nhà nước.
Theo đó, pháp luật quy định HĐ giả tạo sẽ đương nhiên vô hiệu mà không cần có
yêu cầu của chủ thể có quyền lợi liên quan và thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố

HĐ vô hiệu do giả tạo không bị giới hạn như các trường hợp HĐ vô hiệu do vi
phạm ý chí chủ thể khác.
1.2.3. Hợp đồng dân sự giả tạo có yếu tố tưởng tượng.
Bộ luật dân sự 2005 chỉ đề cập đến GDDS được xác lập giả tạo trong đó có
ít nhất một giao dịch tồn tại đằng sau giao dịch giả tạo. Đối với HĐDS giả tạo,
cũng giống các quy định về GDDS giả tạo, các nhà làm luật hiện tại vẫn xác định
hai hình thức của sự giả tạo đó là: HĐ giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác và HĐ
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Trên thực tế, tồn tại những HĐDS được giao kết và thể hiện ra bên ngoài
nhưng hoàn toàn không có thực và cũng không nhằm che giấu bất kỳ một giao
dịch nào. HĐDS đó được xác lập bởi sự tưởng tượng.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


15
HĐDS giả tạo có yếu tố tưởng tượng là HĐ không có thật, các bên xác lập
HĐ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo HĐ. Các chủ thể thông đồng lập
ra HĐ để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý hoặc để che đậy một sự thật khác, đó có
thể là một hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: A ký hợp đồng bán nhà cho B, nhưng thực chất B không thanh toán
tiền và việc B đứng tên chỉ là danh nghĩa, tạm thời trong một thời gian. Hợp đồng
mua bán này không nhằm làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐ
mà nó được các chủ thể lựa chọn để lách luật. Đây chính là loại hợp đồng tưởng
tượng, các bên hoàn toàn không có ý định tạo lập nên sự ràng buộc pháp lý với
nhau dựa trên nội dung của hợp đồng. Thường các bên xác lập HĐ đó để trốn
tránh việc bị kê biên nhà thi hành án hoặc tránh việc các cơ quan điều tra về tài sản
để hòng thoát tội tham ô, tham nhũng.
Có rất nhiều vụ việc như trên phát sinh trên thực tế, khi các bên phát sinh
tranh chấp và tòa án giải quyết vụ việc thì các HĐDS mà các bên ký kết bị tuyên

bố là vô hiệu do không đáp ứng đủ điều kiện có hiệu lực của GDDS được quy định
tại Điều 122 BLDS 2005. Nhưng việc chứng minh thực sự rất khó khăn và phức
tạp.
1.3. Phân biệt hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo với hợp đồng dân sự
vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Tự do ý chí là một những nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của pháp luật dân
sự. Khi tham gia giao kết HĐDS các bên chủ thể có quyền tự do thỏa thuận các
điều khoản của hợp đồng. Nhưng sự tự do đó không là vô hạn.
Pháp luật của hầu hết các nước đều đưa ra những giới hạn nhất định đối với
việc thể hiện ý chí của các chủ thể. Điều 134 Bộ luật dân sự Đức quy định: “Mọi
giao dịch pháp lý vi phạm một điều cấm của pháp luật thì vô hiệu, trừ khi đạo luật
đó quy định khác”[12, tr.27]. Bộ luật dân sự Nhật bản cũng quy định về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng nghĩa vụ, theo đó “Muốn cho các quan hệ về nghĩa vụ
phát sinh trên cơ sở hợp đồng, các nghĩa vụ đó phải hợp pháp, không trái đạo đức

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


16
xã hội và trật tự công cộng, đồng thời phải xác định được và có thể thực hiện
được. Ngoài ra, hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật” [13,
tr.499].
Trong pháp luật Việt Nam sự hạn chế đó được quy định như sau: “Mục đích
và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái
đạo đức xã hội” [4, khoản 1 Điều 122] và “GDDS có mục đích và nội dung vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” [4, Điều 128].
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Mục đích” là “Cái mà người ta cố gắng đạt
cho được” [8]. Trong Bộ luật dân sự Việt Nam thì “ mục đích của HĐDS được
hiểu là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập, thực hiện
HĐDS” [4, Điều 123].

Mục đích khác với động cơ. Động cơ được hiểu là cái có tác dụng chi phối,
thúc đẩy các chủ thể suy nghĩ, hành động. Động cơ xác lập HĐ không quyết định
tới hiệu lực của HĐ trừ trường hợp các bên tham gia HĐ thỏa thuận về việc động
cơ là điều khoản bắt buộc quyết định tới hiệu lực của HĐ được giao kết.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, “Nội dung” là “Cái thể hiện bên trong của
sự vật” [8]. Theo khoa học pháp lý, nội dung được hiểu là tổng hợp các điều khoản
mà các thể tham gia giao kết HĐ đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những
quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng [35, tr.120].
Mục đích và nội dung là hai yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi
tham gia giao kết hợp đồng, các bên muốn đạt được mục đích của mình thì phải
đạt được sự thỏa thuận về mặt nội dung.
Trong giao kết hợp đồng, để HĐ có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội
dung của HĐ không được vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. Điều
cấm ở đây không chỉ là pháp luật dân sự mà được hiểu là điều cấm được quy định
trong tất cả các văn bản pháp luật nói chung.
“Đạo đức xã hội” được hiểu là “những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời dống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


17
trọng”[4, Điều 128]. Không trái với đạo đức xã hội tức là mục đích và nội dung
của HĐ không được trái với những quy tắc ứng xử chung giữa người với người đã
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Đạo đức xã hội khác với pháp luật. Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, mang tính giai cấp và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà
nước. Đạo đức xã hội là quy tắc ứng xử chung được cộng đồng thừa nhận, việc
thực hiện dựa vào tính tự giác, tự nguyện của chủ thể. Đạo đức xã hội không được
biểu hiện dưới dạng văn bản cụ thể mà tồn tại dưới dạng truyền miệng.

Có nhiều quan hệ xã hội vừa là đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp
luật, vừa là đối tượng điều chỉnh của quy phạm đạo đức. Vì lẽ đó mà pháp luật và
đạo đức có sự bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh các hành vi của con
người.
Mục đích và nội dung của HĐ là hai yếu tố quan trọng và không thể thiếu
trong HĐDS. Để HĐDS có hiệu lực thì mục đích và nội dung của hợp đồng phải
đảm bảo là không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nếu
không HĐDS sẽ bị coi là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức
xã hội. Ví dụ : A và B giao kết HĐ mua bán chất ma túy… Đây là HĐ vi phạm
điều cấm của pháp luật vì ma túy là mặt hàng cấm lưu thông do tầm quan trọng
của nó đối với an ninh quốc gia.
Trên thực tế, có những cách hiểu nhầm lẫn về HĐDS vô hiệu do giả tạo với
HĐDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Ví dụ: A bán cho B một ngôi nhà trị giá 5 tỷ đồng. A và B lập hợp đồng
viết tay nhưng không làm thủ tục công chứng. Với mục đích trốn thuế, A và B ký
thêm một hợp đồng mua bán chính căn nhà đó với giá 500 triệu đồng. Hợp đồng
này có công chứng tại Phòng Công chứng. Trong tình huống này, cần xác định
hợp đồng mua bán nhà mà A và B ký kết là HĐDS vô hiệu do giả tạo hay HĐDS
vi phạm điều cấm của pháp luật.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


18
Với những tình huống phát sinh như trên, còn tồn tại những quan điểm khác
nhau:
Cách hiểu thứ nhất, là những quan điểm xác định hợp đồng mua bán nhà
trị giá 500 triệu được ký giữa A và B là HĐDS giả tạo do được ký kết nhằm che
giấu một giao dịch khác là hợp đồng mua bán nhà với trị giá 5 tỷ. Hợp đồng giả
tạo sẽ bị tuyên bố vô hiệu còn hợp đồng mua bán nhà bị che giấu vẫn có hiệu lực

pháp luật.
Cách hiểu thứ hai Quan điểm thứ hai, là những quan điểm cho rằng HĐ
mua bán nhà được giao kết với giá 500 triệu là loại HĐ được ký do vi phạm điều
cấm của pháp luật vì mục đích giao kết HĐ này là để trốn tránh việc đóng thuế với
nhà nước.
Như vậy, thực tế cho thấy đôi khi việc phân biệt giữa HĐDS vô hiệu do giả
tạo và HĐDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật còn chưa thống nhất.
Việc phân biệt rõ hai loại HĐ này là cơ sở cho quá trình áp dụng pháp luật được
thực hiện chính xác. Nói đến phân biệt người ta nghĩ ngay đến việc tìm ra các tiêu
chí nhằm chỉ ra sự khác biệt của từng loại HĐ vô hiệu này.
Thứ nhất, về ý chí các bên tham gia hợp đồng.
- HĐDS vô hiệu do giả tạo: Các bên mong muốn xác lập HĐ trên cơ sở ý
chí không đích thực.
- HĐDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội:
Các bên thiết lập quan hệ HĐ với ý chí thực của các chủ thể nhưng ý chí đó được
thể hiện với mục đích, nội dụng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội.
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng.
- HĐDS vô hiệu do giả tạo: Mục đích và nội dung của HĐ này không phù
hợp với mong muốn đích thực của các bên, không nhằm làm phát sinh các quyền
và nghĩa vụ pháp lý đích thực.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


19
- Hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội: Mục đích
và nội dung phù hợp với mong muốn của các bên, nội dung và mục đích đó trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, về cách thức xác lập hợp đồng.

- HĐDS vô hiệu giả tạo: việc xác lập HĐDS giả tạo luôn có ít nhất hai giao
dịch cùng tồn tại là giao dịch che giấu và giao dịch bị che giấu.
- Hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật: chỉ có một HĐ tồn tại.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
- HĐDS vô hiệu do giả tạo: Hợp đồng giả tạo vô hiệu còn giao dịch bị che
giấu vẫn có hiệu lực pháp luật.
- HĐDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội:
Hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội sẽ vô hiệu.
Dựa vào những tiêu chí phân biệt nêu trên, quay trở lại tình huống mua bán
nhà đã đề cập. Theo tôi, HĐ mua bán nhà được ký giữa A và B với giá trị 500 triệu
đồng nhằm che giấu HĐ mua bán nhà thực sự với giá bán 5 tỷ đồng nhằm mục
đích trốn thuế Nhà nước là HĐ vô hiệu do giả tạo mà không phải là vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật. Lý do như sau: Hợp đồng mua bán nhà với giá 5 tỷ
được giao kết trên cơ sở sự thông đồng, nhất chí của A và B. Hợp đồng này không
phản ánh ý chí thực sự của các bên, không nhằm làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ theo hợp đồng; Mục đích của việc ký kết hợp đồng này là nhằm che giấu hợp
đồng mua bán thật sự với giá 5 tỷ và nhằm trốn thuế; Có 2 hợp đồng cùng tồn tại
song song là HĐ mua bán nhà giá 5 tỷ (hợp đồng bị che giấu) và hợp đồng mua
bán giá 500 triệu (hợp đồng giả tạo); Về hậu quả pháp lý thì HĐ mua bán giá 500
triệu sẽ bị tuyên bố vô hiệu và HĐ mua bán thật sự vẫn có hiệu lực pháp luật. Tuy
nhiên, theo ví dụ thì HĐ này không được các bên công chứng, chứng thực nên nó
có thể sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu các bên không tuân thủ và hoàn thiện thủ tục đó
theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo


20
1.4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả
tạo.

Hệ thống các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về HĐDS vô hiệu do giả
tạo là nền tảng pháp lý cơ bản giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh có liên quan.
Theo đó, quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ HĐDS được bảo vệ tốt
hơn. Góp phần to lớn trong việc duy trì ổn định trật tự xã hội, củng cố vai trò quản
lý xã hội của Nhà nước.
Các quy định về HĐDS vô hiệu do giả tạo có ý nghĩa như sau:
- Thứ nhất, các quy định về HĐDS vô hiệu do giả tạo góp phần định hướng,
tạo khuôn mẫu cho các chủ thể pháp luật dân sự.
Khi tiến hành xác lập HĐDS, các chủ tham gia giao kết HĐ có quyền tự do,
tự nguyện giao kết nhưng sự tự do đó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Ký kết
một HĐDS giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hay trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba là sự vi phạm nguyên tắc tự nguyện mà pháp luật dân sự quy định.
Các bên không bày tỏ ý chí thực của mình, không nhằm xác lập các quyền và
nghĩa vụ đích thực từ HĐ giao kết. Sự thông đồng đó làm xâm phạm tới lợi ích
của các chủ thể khác trong xã hội, lợi ích của nhà nước. Vì lẽ đó, pháp luật quy
định HĐDS giả tạo sẽ vô hiệu.
Quy định của pháp luật về HĐDS vô hiệu do giả tạo đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong việc ngăn chặn, phòng ngừa các
HĐDS mà pháp luật không cho phép giao kết là HĐDS vô hiệu do giả tạo, góp
phần bảo vệ trật tự công, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia
HĐDS.
- Thứ hai, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp các bên hợp đồng hoặc người thứ
ba ngay tình và bảo đảm tính công bằng khi giải quyết hậu quả của HĐDS vô hiệu
do giả tạo.
Khi một HĐ giao kết có yếu tố giả tạo, hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu. Hợp
đồng vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự

Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo



×