Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi , nhìn song nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Aó chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
(Trích "Việt Bắc"- Tố Hữu)
Gợi ý:
I. Mở bài :
- Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Cách mạng Việt Nam.
- “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài
thơ “tống biệt” của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi
“Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ
kháng chiến vào tháng 10/1954.
- Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc
chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa
cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình.
- Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những
rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân l:
“Mình về mình có nhớ ta
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
II. Thân bài:
1. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ
nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày
nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại.
2 . Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu thơ đầu là lời ướm hỏi chân
thành của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của
cuộc chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta.
…
Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”.
- Giọng thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao.
+ Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân
gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai
con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu
để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân.
+ Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ” được láy lại
2 lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.
+ Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…”
làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm nămvừa mang nghĩa
thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm
chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ
chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc (như mối tình Kim- Kiều
qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau).
+Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây…núi”; “sông…
nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm . Các cặp hình ảnh “cây-núi”;
“sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo => gợi được
không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó còn gợi
lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra,
nhớ về nhân dân như nhớ về cội nguồn.
+ Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ đã nới rộng về không gian của nỗi
nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng lớp lớp.
3.Tiếp theo, 4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến,
bịn rịn của người đi với người ở lại:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
- Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những
cảm xúc ghìm nén trong tâm trạng của người đi :
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ
(như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…).
+ Những từ láy “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễn tả chính xác
con sóng lòng đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân li.
+ Hình ảnh hoán dụ “aó chàm” (chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình
cảm gắn bó của nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà
sâu đậm ân tình.
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách
thân tình cái ngập ngừng ,bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở
vẫn quyến luyến không thể rời xa.
III. Kết bài :
- Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt
Bắc, bởi lẽ :
+ Nhà thơ đã miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con
người ở vào giờ phút chia li: nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và
không gian mênh mông. Nhớ nhau , người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở
đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng
đã bâng khuâng , lưu luyến.
+ Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô
khan, trừu tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người. Chính
vì thế, đoạn thơ (nói riêng) ; “Việt Bắc” (nói chung) đã vượt qua ranh giới của
thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
(Trích "Việt Bắc"- Tố Hữu)
Gợi ý:
I.Mở bài:
- Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng
chiến chống thưc dân Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc
đến “Việt Bắc” của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm đà màu sắc dân tộc,
tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, tác giả thể hiện niềm nhớ
thương tha thiết và tình cảm sắt son đầm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách
mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán
bộ kháng chiến với thiên thiên, núi rừng và con người Việt Bắc.
- Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi
đẹp nhất về cảnh và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ cách mạng
miền xuôi:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
II. Thân bài: Đoạn thơ được viết theo thể thơ lục bát với giọng thơ ngọt ngào
tha thiết , diễn tả sâu sắc nỗi nhớ của người đi với Việt Bắc:
1. Hai câu đầu : Khái quát nỗi nhớ.
- Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc.“hoa” là cách
nói của nghệ thuật tượng trưng cho thiên nhiên và cũng là một bộ phận của
thiên nhiên.
- Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện,
soi chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên; người là sản
phẩm kỳ diệu tuyệt vời của tạo hoá. Vì vậy, khi nhớ người thì hiện lên bong
hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người à ngụ ý ngợi ca vẻ đẹp người ở lại.
2. Tám câu sau : Một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc phong phú, rực rỡ,
tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa:
a.Trước hết, bức tranh mùa đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”:
- Mùa đông xuất hiện bằng màu một gam màu lạnh- nền xanh mênh mông
tĩnh lặng của rừng già à gợi ra một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, xa vắng…Trên cái
nền màu lạnh ấy lại nổi lên một gam màu nóng của “hoa chuối đỏ tươi” (ở đây
có thể liên tưởng : màu đỏ của hoa chuối gợi ra ý nghĩa tượng trưng cho màu đỏ
của cách mạng mới được nhen nhóm, như xua đi cái lạnh ngàn năm của núi
rừng mùa đông).
b.Tiếp theo,bức tranh mùa xuân với “Mơ nở trắng rừng” - một mùa xuân
tràn ngập màu trắng của hoa mơà gợi sự dịu dàng, tinh khiết, thanh bạch, mộng
mơ của tạo vật. Hai tiếng “trắng rừng” như làm cho khắp núi rừng bừng sáng
hẳn lên. Đây là hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng thấp thoáng ý nghĩa tượng
trưng: nó như gợi lên nét đẹp trong sáng trong tâm hồn của con người Việt Bắc.
Có thể nói, màu trắng của hoa mơ là màu sắc đặc trưng của núi rừng Việt Bắc.
c. Bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ người đi không chỉ có màu sắc,
đường nét, ánh sang mà còn có cả âm thanh ngân vang của tiếng ve gọi hè :
“ve kêu rừng phách…”. Ve kêu gọi hè, hè về là rừng phách chuyển màu. Sống ở
Việt Bắc, con người thường hay có cảm xúc bang khuâng trước những hình ảnh
kỳ lạ của rừng phách: trong những ngày cuối xuân, nụ hoa vẫn náu kín trong
những kẽ lá. Khi tiếng ve cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Cách dùng từ
“đổ” khá tinh tế, nhấn mạnh sự mau lẹ đột ngột của quá trình chuyển đổi của
cây lá, nó diễn tả sức mạnh của những trận mưa hoa vàng khi gió thổi, ve kêu
gọi hè.
d. Bộ bức tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh thu : đêm thu có ánh
trăng rọi qua vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này thích hợp
với việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho thời
điểm kết thúc những cuộc hát giao duyên . Câu thơ gợi không khí thanh
bình,yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp
giữa thiên nhiên (rừng thu) với vũ trụ (trăng) với cuộc sống thanh bình yên vui
trong sự hoà hợp của những tấm lòng nhân ái giữa người đi và người ở lại.
3. Hình ảnh con người Việt Bắc:
Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc. Con người là
hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với thiên nhiên. Sau mỗi câu
lục nói về hoa là đến câu bát nói về người . Con người gắn bó khăng khít với
thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt vẻ hoang sơ và thêm có hồn. Giữa thiên
nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, đáng yêu và luôn gắn bó với lao
động :
- Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên với một dáng vẻ, tư thế hiên
ngang trong lao động “ dao gài thắt lưng”; mùa xuân lại gắn với bàn tay dịu
dàng, cần mẫn của các cô gái “chuốt từng sợi giang” (hình ảnh giống như cảnh
phim quay chậm, không chỉ giúp người đọc thấy rõ đường nét, hình khối, động
tác của người lao động mà còn thấy cả ý nghĩ đắn đo, thận trọng, tỉ mỉ trong
từng công việc).
- Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” trong mùa hạ vừa gợi sự cần cù,
chăm chỉ, kiên nhẫn lại vừa gợi cái không gian bao la, mênh mông của núi rừng
Việt Bắc.
- Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “tiếng hát ân tình thuỷ chung” .
Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm chỉ với công
việc, lặng lẽ mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước
cuộc đời.
3. Thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
4. Bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm
hưởng chung của nghệ thuật ca dao:
+ Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt
trong lòng người ra đi và người ở lại.
+ Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để
xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ “rừng” lặp lại là khoảng không
gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ
lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm
thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn.
Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc.
+ Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm
hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm.
=> Có lẽ khúc hát này không của ai khác là của “ta” và cho người nhận là
“mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung "Tiếng hát ân
tình" và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn
chung thủy.
III. Kết bài :
- Trong bộ tranh bốn màu này, hoa - người đều đẹp lung linh, rạng rỡ, gắn
bó mật thiết với nhau : hoa đứng cạnh người, người đứng cạnh hoa …tất cả như
càng làm tôn lên vẻ đẹp của nhau.
- Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh
thiên nhiên và con người ở đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn
ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một
bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân
dân, quê hương Việt Bắc.
Đề 3 : Phân tích đoạn thơ sau đây:
Những đường Việt Bắc của ta
………
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng
(Trích "Việt Bắc"- Tố Hữu)
Bài tham khảo
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách
mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng
mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và
hoa… Trong đó, Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống
Pháp nói chung. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi Trung ương Đảng và
Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội.
Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động
viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn
về nội dung và giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất trong bài thơ Việt Bắc:
Những đường Việt Bắc của ta
………
Vui lên VB đèo De núi Hồng
Nếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đến cho người đọc vẻ đẹp
của tình nghĩa quân dân qua những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó. Thì ở đoạn thơ
này, nhà thơ đã đột ngột chuyển dòng. Không còn những dòng thơ ngọt ngào
như ca dao nữa mà đoạn thơ này đã mang âm hưởng của cảm hứng sử thi hùng
tráng. Đó là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc
trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là
hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ hình ảnh những đoàn dân
công, là hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng
những đêm kháng chiến. Đó là khí thế của "40 thế kỷ cùng ra trận" ngời sáng
trong trận chiến sinh tử với kẻ thù.
Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng
chiến với “những đường VB của ta... đất rung”. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm
hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ
“đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”. Những từ ấy
đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ - “đêm đêm”), những phụ âm
rung (r - “rầm rập”). Ấn tượng ở những câu thơ này còn được nổi bật lên bởi ý
nghĩa khái quát, ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh con đường. Khi tác giả nói
“những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng
viết “đường ta rộng thênh thang tám thước”. Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái
Nguyên, đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên… những con đường mở ra
cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa
tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng.
Con đường đang dẫn tới thành công.
Hình ảnh một đất nước trong kháng chiến, của Việt Bắc trong tháng năm hào
hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh những đoàn quân ra trận:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”
Còn nhớ ngày 22.12.1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp
đã làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Tiền thân
của QĐND Việt Nam). Khi ấy, đội quân mới chỉ có 34 người. Vậy mà mấy năm
sau từ 34 người với trang bị vũ khí thô sơ, quân đội ta dã phát triển thành tinh
nhuệ với “điệp điệp trùng trùng”. Điệp ngữ “điệp điệp trùng trùng” gợi lên sự
đông đảo, lớn mạnh, đoàn quân như trải dài vô tận, vươn ra khắp núi rừng Việt
Bắc. Sự tinh nhuệ ấy là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự trưởng thành của quân
dân ta, đồng thời cũng cho thấy, quân đội ta đã thực sự lớn mạnh cả về chất và
lượng, có thể đương đầu với mọi kẻ thù to lớn.
Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc
vũ trụ bởi hình ảnh ánh sao đầu súng, một hình ảnh rất thực nhưng đã vụt lớn
lên bởi cảm hứng lãng mạn. Ba hình ảnh: súng – sao – mũ như đi cùng nhau.
Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói
hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm vóc vươn tới sao
trời của người lính. Ánh sao là hình ảnh chỉ ngôi sao trên mũ người chiến sĩ.
Sao cũng là biểu tượng của tổ quốc. Người lính ra chiến trận mang theo cả tổ
quốc bên mình:
Anh vào bộ đội sao trên mũ
Vẫn mãi là sao sáng dẫn đường
Em mãi là hoa thơm trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Núi đôi - Vũ Cao)
Nhà thơ đã dùng thước đo vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách
mạng. Những người chiến sĩ đang hành quân ra trận. Đó là âm hưởng của
những chữ “đi”, “điệp điệp”, “trùng trùng”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng
lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một dải
ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.
Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến,
Tố Hữu còn dùng một màu sáng, một màu sáng chói loà để làm bừng lên vẻ
đẹp hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân, dù chỉ qua một chi tiết về đoàn dân
công. Đó là hình ảnh:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”
Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn
thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của
câu thơ. Tác giả không viết “từng đoàn dân công đỏ đuốc”, mà mở đầu câu thơ
là hai chữ “dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc ấy gợi ra
sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh “bước chân
nát đá muôn tàn lửa bay”. Hình tượng bàn chân là hình tượng biểu trưng cho
sức mạnh của con người gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng.
Ở đây hình ảnh bàn chân đã được thủ pháp phóng đại, cường điệu làm bừng
sáng lên ánh sáng lãng mạn nhưng đầy khí thế oai hùng lẫm liệt tựa như “tam
quân tì hổ khí thôn ngưu” (thế mạnh ba quân như hổ báo nuốt trôi trâu). Sức
mạnh bàn chân ấy cũng đã từng được Tố hữu nhắc đến trong bài Ta đi tới:
Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!.
Với hai dòng thơ tiếp theo, bức tranh kháng chiến hiện lên với những hình
ảnh mới. Đó là hình ảnh “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, hình ảnh của
những đoàn xe cơ giới ra trận. Sự hùng vĩ của nó được đo bằng thước đo của
nghìn đêm lịch sử, “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” đã bị xua đi bởi “Đèn
pha bật sáng như ngày mai lên”. Sự tương phản giữa quá khứ “thăm thẳm
sương dày” với ánh sáng của “ngày mai lên” là sự tương phản làm nổi bật giá
trị của nghìn đêm kháng chiến. Chữ “bật sáng” nhằm nhấn mạnh cái khoảnh
khắc chói loà, kháng chiến chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chiến thắng.
Bốn câu thơ cuối khép lại bằng niềm vui chiến thắng :
Tin vui chiến thắng trăm miền
…
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Tố Hữu sử dụng bốn câu thơ để miêu tả không khí chiến thắng đang dồn dập
trên khắp đất nước. Cũng là một thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở đây
không gắn với chữ “nhớ” như ở những dòng thơ mở đầu của đoạn mà gắn với
những chữ “vui” để thấy tin vui đang như bay lên từ khắp trăm miền. Kết cấu
của bốn câu thơ này cũng là một kết cấu khá chặt chẽ. Câu một là cảm xúc bao
quát: “Tin vui chiến thắng trăm miền”, còn ở câu sau nhằm thể hiện sự lan toả
của những tin vui khắp trăm miền ấy. Vì thế những địa danh liên tiếp xuất hiện
gắn liền với các tin vui chiến thắng. Sự liệt kê các địa danh chiến thắng cũng
chứa đựng những giá trị tư tưởng-nghệ thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm làm nổi bật
tin vui như bay đi trong một tốc độ “siêu tốc”. Vừa mới đó là Hòa Bình - Tây
Bắc – Điện Biên, tiếp sau đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây Nguyên),
lại đã là Việt Bắc, đèo De núi Hồng.
Tóm lại, đoạn thơ đã rất thành công khi thể hiện niềm vui chiến thắng của
quân và dân ta trong những ngày kháng chiến chống thực dân pháp gian khổ
nhưng rất đỗi hào hùng. Thành công ấy là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật
thể hiện: thể thơ lục bát truyền thống; ngôn ngữ sử thi hào hùng; hình ảnh thơ
giàu sức sống; nhịp thơ dồn dập, nhiều điệp từ, điệp ngữ… tất cả đã tạo nên một
đoạn thơ hùng tráng về những ngày sục sôi đánh Pháp. Hơn nửa thế kỷ trôi qua
rồi mà sức sống mãnh liệt của thời đại ấy vẫn còn rực lửa trong trái tim mỗi con
người Việt Nam