Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Lịch sử hình thành của các biểu tượng quốc gia Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.02 KB, 32 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, trước hết xin chân thành
cảm ơn cô ThS. Đinh Thị Hải Yến – Giảng viên bộ môn Nghi thức nhà nước đã
tận tình truyền đạt kiến thức, hướng dẫn em làm đề tài trong thời gian qua. Tuy
nhiên do còn hạn chế về thời gian, phương tiện và kinh nghiệm nên còn rất
nhiều thiếu sót về nội dung, hình thức. Rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của các thầy, cô và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Em cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của em trong thời gian qua. Các tư
liệu, nghiên cứu trong đề tài đều trung thực, mọi sự tham khảo trong đề tài
nghiên cứu đều được trích dẫn nguồn vào danh mục tài liệu tham khảo. Em xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước là tiếng gọi thiêng liêng muôn thửa, muôn nơi và bao triệu trái
tim con người. Đất nước đi vào lòng chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm
dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và
rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Đất nước đi vào trái tim của con người Việt
Nam từ những điều bình dị nhất đó là lũy tre làng, ao sen, cánh đồng, đặc biệt là
hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, hình ảnh bông lúa vàng, bánh răng
cưa, lời ca hùng tráng của bài “Tiến quân ca”…


Trải qua hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, con người Việt
Nam luôn tự hào về quê hương, đất nước và mảnh đất nơi mình sinh ra. Bởi nơi
đây những trang sử hào hùng, những truyền thống dân tộc đã được ghi dấu lại,
sự dân chủ, văn minh và nền văn hóa chính là kết quả của một quá trình dài gây
dựng, tồn tại và phát triển của biết bao lớp anh hùng đã ngã xuống.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, thì biểu tượng quốc gia Việt Nam gắn bó
chặt chẽ với lịch sử. Nếu được hỏi: “ Nghĩ đến đất nước, bạn sẽ nghĩ đến biểu
tượng gì của đất nước mình”. Con người Việt Nam sẽ không ngần ngại mà trả
lời rằng: “Đó là Quốc kỳ tươi thắm, Quốc huy toàn diện, Quốc hiệu, Quốc ca
hùng tráng.” Đó chính là những biểu tượng thiêng liêng, cao quý và tự hào của
đất nước Việt Nam.” . Những biểu tượng đó đã đi vào lòng người Việt Nam theo
một lẽ tự nhiên.
Như chúng ta đã biết, mỗi một đất nước trên thế giới đều có những biểu
tượng quốc gia của riêng mình. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu về
lịch sử các biểu tượng quốc gia Việt Nam. Giới thiệu hệ thống biểu tượng
quốc gia của một số nước trên toàn thế giới.”
2. Lịch sử nghiên cứu
Trải qua hơn 4000 năm lịch sử, đất nước Việt Nam phải bao nhiêu đời
dựng nước và giữ nước: công cuộc dựng nước của các vua Hùng , công cuộc
bảo vệ và xây dựng đất nước của các triều đại phong kiến Đinh – Lê – Trần –
Nguyễn,… rồi đến sự nghiệp đánh tan giặc ngoại xâm, bọn đế quốc, thực dân
4


của nhân dân và các anh hùng liệt sỹ. Tính theo thời gian lịch sử thì các biểu
tượng quốc gia Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ thời Văn Lang – Âu Lạc, mở đầu
là nhà nước Văn Lang (690 TCN) cho đến công cuộc đánh đuổi đế quốc Mỹ giải
phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước năm 1976 cho đến
nay.
Bài viết “Quốc kỳ và Quốc ca Việt Nam” của cố giáo sư Nguyễn Ngọc

Huy ( 1924 – 1990 ) đã nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của Quốc
kỳ và Quốc ca Việt Nam và đưa ra một số ý nghĩa về Quốc kỳ và Quốc ca đối
với Việt Nam… và một số tác giả khác cũng nghiên cứu về các biểu tượng quốc
gia Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về các biểu tượng quốc gia Việt Nam
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Nước Việt Nam và một số nước trên thế giới.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu lịch sử và ý nghĩa về biểu tượng quốc gia Việt Nam, qua đó làm
rõ các biểu tượng quốc gia là yếu tố khẳng định vị thế cũng như chủ quyền của
một nước, tìm hiểu theo chiều dài của lịch sử dựng nước và cứu nước. Bên cạnh
đó còn tìm hiểu hệ thống biểu tượng quốc gia của một số nước trên thế giới
(Lào, Mỹ).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về biểu tượng quốc gia và giới thiệu khái quát
về biểu tượng quốc gia Việt Nam
Lịch sử hình thành của các biểu tượng quốc gia Việt Nam
Giới thiệu hệ thống biểu tượng quốc gia của một số nước trên thế giới
(Lào, Mỹ).
5. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu, phân tích và chọn lọc nó theo các nguồn lịch sử trong sách, các
5


tác phẩm nghiên cứu của các nhà sử học vì biểu tượng quốc gia là một chủ đề rất
rộng và có nhiều tài liệu khác nhau nói về chủ đề này. Sử dụng phương pháp lịch
sử, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp. Từ đó

phân tích, chứng minh và chỉ ra lịch sử hình thành, ý nghĩa của biểu tượng quốc
gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa về mặt lý luận: Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử hình thành
và phát triển, ý nghĩa của biểu tượng quốc gia Việt Nam và biết thêm về một số
biểu tượng quốc gia trên thế giới.
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Có thể tổ chức các hoạt động thực tế, các buổi
giao lưu, tham quan đề biết hơn về hệ thống biểu tượng quốc gia.
7. Cấu trúc của đề tài
Gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về biểu tượng quốc gia và giới thiệu khái quát về
biểu tượng quốc gia Việt Nam
Chương 2. Lịch sử hình thành của các biểu tượng quốc gia Việt Nam
Chương 3. Giới thiệu hệ thống biểu tượng quốc gia của một số nước trên
thế giới (Lào, Mỹ).

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận về biểu tượng quốc gia và giới thiệu khái quát về
biểu tượng quốc gia Việt Nam
1.1. Biểu tượng quốc gia
1.1.1. Khái niệm
Biểu tượng quốc gia hình ảnh tượng trưng và đại diện cho một quốc gia.
Ngoài ra nó còn được thể hiện với các hình thức phong phú và đa dạng. Những
loại hình cơ bản của biểu tượng quốc gia gồm: Quốc hiệu (thường kèm theo
khẩu hiệu hoặc tiêu ngữ), Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc thiều, Quốc phục,
Quốc hoa, Quốc thú hoặc Quốc điểu... và những biểu tượng không chính thức
khác.

1.1.2. Đặc điểm
Biểu tượng quốc gia có 3 đặc điểm chính:
- Là sự kết tinh các giá trị văn hóa, chính trị, xã hội của một quốc gia
được khái quát hóa thông qua các phương tiện thể hiện như âm nhạc, hội họa
hay ngôn ngữ.
- Là biểu tượng đặc trưng của mỗi quốc gia, thể hiện tinh thần tự tôn dân
tộc và bản sắc văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia.
- Là hình ảnh đại diện của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế, là biểu
hiện của tính chính thức trong quan hệ giữa nhà nước với công dân và các tổ
chức.
1.1.3. Khái niệm các biểu tượng quốc gia
1.1.3.1. Quốc hiệu
Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu
thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại
giao, biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng
tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân
tộc.
1.1.3.2. Quốc kỳ
Quốc kỳ là loại cờ được dùng làm biểu trưng cho một 1quốc gia. Những
7


công trình công cộng và tư nhân như trường học và cơ quan chính phủ thường
treo quốc kỳ. Ở một vài nước, quốc kỳ chỉ được treo ở những công trình phi
quân sự vào những ngày treo cờ cụ thể. Có ba loại quốc kỳ phân biệt để sử dụng
trên đất liền, và ba loại để sử dụng trên biển, mặc dù nhiều nước sử dụng cùng
một kiểu thiết kế cho vài loại cờ.
1.1.3.3. Quốc huy
Quốc huy là một trong những biểu tượng của một quốc gia. Quốc huy là
một biểu tượng thể hiện chế độ, hình ảnh đặc trưng của quốc gia đó. Quốc huy

thường được sử dụng trên các ấn phẩm quốc gia như %tiền tệ, hộ chiếu, giấy
tờ,...
1.1.3.4. Quốc ca
Quốc ca nói chung là một bài hát 1ái quốc khơi gợi và tán dương lịch sử,
truyền thống và đấu tranh của nhân dân quốc gia đó, được chính phủ của một đất
nước công nhận là bài hát chính thức của quốc gia, hoặc được người dân sử
dụng nhiều thành thông lệ.
1.2. Khái quát về biểu tượng quốc gia Việt Nam
1.2.1. Quốc hiệu
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã dùng nhiều quốc hiệu khác nhau. Bên
cạnh đó, cũng có những danh xưng được dùng chính thức hay không chính thức
để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quốc gia Việt Nam.
Danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử bao
gồm:
- Văn lang
- Âu lạc
- Vạn Xuân
- Đại Cồ Việt
- Đại Việt
- Đại Ngu
- Việt Nam
- Đại Nam
8


- Việt Nam Dân chủ cộng hòa
Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc
được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.
1.2.2. Quốc kỳ


Hình 1.2.2. Quốc kỳ của Việt Nam
Quốc kỳ Việt Nam hiện nay được công nhận chính thức từ 1976, là lá cờ
đại diện cho nước Việt Nam thống nhất. Lá cờ có hình chữ nhật, chiều rộng
bằng 2/3 chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Ý nghĩa là cờ thể
hiện trong nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống
tượng trưng cho 2dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng
màu đỏ nền cờ tượng trưng dòng máu đỏ, màu vàng ngôi sao tượng trưng da
vàng, và năm cánh tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp bao gồm sĩ ,
4nông, 4công, thương, binh trong đại gia đình các 2dân tộc Việt Nam.
1.2.3. Quốc huy

Hình 1.2.3 Quốc huy của Việt Nam
Quốc huy biểu tượng cho quốc gia, cho độc lập, chủ quyền, cho bản sắc
9


dân tộc. Tại kỳ họp thứ năm của Quốc hội khoá I (15 – 20/9/1955), sau khi xem
xét, cân nhắc nhiều mẫu, Tiểu ban Nghiên cứu ba vấn đề Quốc kỳ, Quốc ca,
Quốc huy đã quyết định trình mẫu Quốc huy do Chính phủ đề nghị và đã được
đa số đại biểu Quốc hội tán thành. Mẫu Quốc huy này do các danh hoạ Bùi
Trang Chước và Trần Văn Cẩn đồng sáng tác (họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ mẫu
Quốc huy để làm cơ sở lựa chọn và họa sĩ Trần Văn Cẩn đã chỉnh sửa hoàn thiện
mẫu Quốc huy theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo để trình Quốc hội phê duyệt).
1.2.4. Quốc ca

Hình 1.2.4. Hình ảnh bài hát Tiến quân ca
Nếu Quốc kỳ, Quốc huy biểu trưng cho quốc gia bằng hình ảnh đặc thù
thì Quốc ca lại biểu trưng bằng âm thanh, nhạc và lời. Quốc hội khoá I của nước
ta đã quyết định lấy bài Tiến quân ca do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác làm Quốc ca
Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam (1946), tại điều 3 cũng ghi rõ:

“Quốc ca là bài Tiến quân ca”. Kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá I đã quyết định
cùng tác giả sửa một số chỗ về lời của bài Quốc ca.
10


Bài “Tiến quân ca” được nhạc sĩ Văn Cao sáng tác vào cuối năm 1944 tại
căn nhà số 171 phố Mông Grăng, Hà Nội (nay là nhà số 45 phố Nguyễn Thượng
Hiền, Hà Nội). Ngay khi mới ra đời, bài hát đã được đội ngũ chiến sĩ cách mạng
nồng nhiệt đón nhận rồi trở thành bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh.
Ngày 2/9/1945 (ngày tuyên bố độc lập), Tiến quân ca được cử hành, hàng triệu
người hát vang lời ca theo tiếng nhạc của hành khúc hùng tráng đó.
1.2.5. Một số biểu tượng không chính thức
Ngoài các biểu tượng chính thức quốc kỳ, quốc huy, quốc ca..., Việt
Nam còn có nhiều biểu tượng tượng trưng cho đất nước, con người chưa được
công nhận chính thức. Một số biểu tượng không chính thức được một số ý kiến
đồng thuận, được quần chúng thừa nhận rộng rãi trong và ngoài nước, bao gồm:


Chim lạc



Hoa sen



Cây tre




Con trâu



Quốc phục



Quốc tửu



Linh vật

+ Rồng
+ Rùa

Chương 2. Lịch sử hình thành của các biểu tượng quốc gia Việt Nam
11


2.1. Biểu tượng chính thức
2.1.1. Quốc hiệu
2.1.1.1. Lịch sử hình thành của quốc hiệu
Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sống chủ yếu ở
miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở
miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với
nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.


Do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh
tế, văn hoá ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng
tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng
mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc
Lạc Việt, dựng lên nước.
♦ Văn Lang - Tồn tại 2671 năm (2876 trước CN - 258 trước CN)
Văn Lang, tự xưng là vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương và con cháu ông
nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.
Căn cứ vào các tài liệu sử học, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn
Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng với
một phần phía nam Quảng Ðông, Quảng Tây (Trung Quốc).
12


♦ Âu Lạc - Tồn tại 50 năm (257 trước CN - 207 trước CN)
Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các
nhóm người Việt. Thục Phán - thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt - được tôn
làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần phải rút lui.
Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các
bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
Năm 207 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm
Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó,
mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta thành
nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không
xoá nổi cái tên "Âu Lạc" trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của
nhân dân ta.
♦ Vạn Xuân - Tồn tại 58 năm (544-602)
Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương, giải phóng
lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân,
khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được

bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các
triều đại phong kiến Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập
và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến
thắng Bạch Ðằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
♦ Ðại Cồ Việt - Tồn tại 86 năm (968-1054)
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia,
lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (nước Việt lớn). Quốc
hiệu này duy trì suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý
(1010-1053).
♦ Ðại Việt - Tồn tại 748 năm (1054-1804)
Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói
nhiều ngày mới tắt, nhà Lý liền cho đổi tên nước là Ðại Việt và quốc hiệu Ðại
Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần…
13


Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của
Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh
thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế).
Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời
Tây Sơn (1788-1802).
♦ Ðại Ngu - Tồn tại 7 năm (1400-1406)
Tháng 3/1400, Hồ Quý Ly phế Trần Thiếu Ðế, lập ra nhà Hồ và cho đổi
tên nước thành Ðại Ngu ("ngu" tiếng cổ có nghĩa là "sự yên vui"). Quốc hiệu đó
tồn tại đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
♦ Việt Nam - Tồn tại 80 năm (1804-1884)
Năm 1802, Nguyễn Ánh đăng quang, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên
nước là Việt Nam, Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại
giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại

thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có
một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí do trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên
soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15) nhiều lần nhắc đến hai
chữ "Việt Nam". Ðiều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của
trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), chẳng hạn ngay trang mở đầu tập
Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng
tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia
chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa
Phúc Thành (1664) ở Bắc Ninh.... Ðặc biệt bia Thuỷ Môn Ðình (1670) ở biên
giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa
ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa,
phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố:
chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
♦ Ðại Nam - Tồn tại trên lý thuyết 107 năm (1838-1945)
Ðến đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành Ðại
Nam. Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam" vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác
phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.
14


♦ Việt Nam
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách
thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà.
Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia
cắt, hai tiếng "Việt nam" vẫn được phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân
thiết, thiêng liêng với mọi người.
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối.
Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất,

toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hiến pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc
hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.
2.1.1.2. Ý nghĩa của quốc hiệu Việt Nam hiện nay
Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia , không chỉ có ý nghĩa biểu
thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại
giao; biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng
tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân
tộc.
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta đã dùng nhiều
quốc hiệu khác nhau. Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông
quy về một mối. Từ ngày 2/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định đổi thành quốc hiệu “Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho đến ngày nay. Hiến pháp năm 1980 và hiến
pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả
về pháp lý và trên thực tế.
Tên quốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có ý nghĩa rất quan
trọng về cả mặt chính trị, ngoại giao, pháp lý và bản chất của nhà nước Việt
Nam hiện nay. Bên cạnh đó, tên Quốc hiệu còn có ý nghĩa về mặt thẫm mỹ đối
với các văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản hành chính của cơ quan quyền
15


lực nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ quan lập pháp, cơ quan có thẩm quyền ban
hành.
2.1.2. Quốc kỳ
2.1.2.1. Lịch sử hình thành quốc kỳ
- Thời phong kiến
+ Quốc kỳ là lá cờ đại biểu cho chủ quyền quốc gia, xuất hiện trước tiên ở
các quốc gia chủ quyền phương Tây cận đại. Trước thế kỷ 16 không tồn tại khái

niệm "quốc gia dân tộc" và "chủ quyền", do đó không có quốc kỳ tượng trưng
cho quốc gia chủ quyền dân tộc. Thời bấy giờ, cờ của hoàng gia hoặc hoàng đế
được coi là biểu tượng chung của cả quốc gia đó.
+ Tại Việt Nam, triều đại đầu tiên có sử dụng quốc kỳ là nhà Tây Sơn
(1778 - 1802). Trong khi các triều đại phong kiến Việt Nam có hoàng kỳ màu
vàng thì cờ Tây Sơn là cờ đỏ, viền tua vàng. Trong tác phẩm "Ai Tư Vãn" của
công chúa Ngọc Hân có câu "Mà nay áo vải cờ đào, giúp dân dựng nước xiết
bao công trình". Sau đó, Nguyễn Huệ đặt thêm một chấm lớn màu vàng trên nền
cờ, gọi là Quang Trung Đế kỳ.
+ Quốc kỳ là nền đỏ, ở giữa là hình tròn màu vàng. Thời đó hình tròn
màu vàng là biểu tượng của mặt trời hoặc ngôi sao, tượng trưng cho chính khí.
Có một số nguồn cho rằng lá cờ của nhà Tây Sơn, một triều đại có nhiều chiến
tích chống ngoại xâm chính là cảm hứng để sáng tác nên lá Cờ đỏ sao vàng
(quốc kỳ hiện nay).
- Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (1883 - 1945)
Trong 1thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ Pháp trên toàn 4Liên
bang Đông Dương sử dụng lá cờ có nền vàng và ở góc trái trên cao là hình quốc
kỳ Pháp, từ năm 1923 đến khi bị Nhật lật đổ vào 9 tháng 3 năm 1945.
- Việt Nam Đế quốc (1945)
+ Sau khi Đế quốc Nhật đảo chính 21thực dân Pháp, hoàng đế Bảo Đại
tuyên bố độc lập trên danh nghĩa, dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày %111 tháng
3 năm 1945, ông tuyên bố hủy bỏ %29Hòa ước Quý Mùi 1883 và 212Hòa ước
Giáp Thân 1884. Chính phủ mới được thành lập ngày 314%117 tháng 4 năm
16


1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim. Quốc hiệu được đổi thành Đế quốc
Việt Nam và, ngày %18 tháng 5 năm 1945, quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly.
Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly là một trong
8 quẻ của 11bát quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền; bề

rộng của các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.
+ Cờ quẻ Ly về danh nghĩa là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong thực
tế Nhật vẫn cai trị Nam kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam
Kỳ mới được trao trả ngày %114 tháng 8 năm 1945, nhưng 16 ngày sau đó
Hoàng đế Bảo Đại thoái vị (chiều ngày 30/8/1945). Nam Kỳ, trên thực tế, chưa
bao giờ dùng cờ quẻ Ly.
- Liên bang Đông Dương (1945 - 1975)
+ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1976)
Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy mẫu từ hiệu kỳ Cờ đỏ sao
vàng (hay còn gọi là cờ sao mai) của Mặt trận Việt Minh ở Bắc kỳ từ trước
1%tháng 8 năm 1945.
Lá cờ đỏ sao vàng được lực lượng Việt Minh sử dụng hiệu triệu nhân dân
đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tháng 8 năm 1945, Quốc dân Đại hội tại Tân
Trào đã quyết nghị lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập.
Trong thời gian 11Cách mạng tháng 8, tại Bắc Bộ và Trung Bộ, nhân dân hầu
hết các nơi dưới sự lãnh đạo của Việt Minh sử dụng lá cờ này. Riêng tại một số
nơi Nam Bộ, Thanh niên Tiền phong là tổ chức chính tham gia giành chính
quyền, lúc này đã gia nhập Việt Minh nên tùy từng nơi sử dụng lá cờ đỏ sao
vàng, hay sử dụng cả hai lá cờ (của Việt Minh và lực lượng Thanh niên tiền
phong) hay sử dụng cờ vàng sao đỏ của Thanh niên tiền phong, hoặc kết hợp với
cờ búa liềm của 4Đảng Cộng sản Đông Dương.
Sau khi giành được chính quyền, thì cờ Việt Minh được sử dụng biểu
tượng một nước Việt Nam mới. Ngày %12 tháng 9 năm 1945, cờ đỏ sao vàng
chính thức xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập tại quảng trường Ba Đình.
Ngày %15 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời 22Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa 13Hồ Chí Minh ký sắc lệnh quyết định quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao
17


vàng.

Kỳ họp thứ I, 122Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
ngày %12 tháng 3 năm 1946 đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ
của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và xác nhận bởi %122Hiến pháp Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa 1946.
Sau năm 1954, 122Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959 cũng xác
nhận lại cờ đỏ sao vàng là cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi Việt
Nam thống nhất năm 1976, lá cờ này được sử dụng làm quốc kỳ của chính
thể 23Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến tận ngày nay.
+ 2Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (1946 - 1948)
Lá cờ này chỉ tồn tại được hai năm do chính quyền Nam kỳ quốc giải
thể và sáp nhập vào Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu
(ngày 2 tháng 6 năm 1948).
+ Liên bang Thái tự trị (1948 - 1955)
Quốc kỳ của Liên bang Thái tự trị được ấn định vào ngày 4 tháng 3 năm
1948, tỉ lệ 2:3 với sọc trắng chen giữa hai sọc lam, chính giữa sọc trắng có thêm
ngôi sao đỏ 16 cánh (ban đầu là 12 cánh). Kết cấu lá cờ dựa trên quốc kỳ Cộng
hòa Pháp, màu sắc lấy từ trang phục lễ hội của phụ nữ Thái Đen (Táy Đăm),
ngôi sao 16 cánh tượng trưng cho 16 châu liên minh. Trong khoảng từ 1946 đến
1949, lá cờ này được sử dụng làm chiến kỳ của binh sĩ người Thái trong quân
đội Pháp.
Năm 1950 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại,
chiếu theo Dụ số 6 ký ngày 15 Tháng Tư thì Khu tự trị Thái được gom vào cùng
với tỉnh Hải Ninh và Xứ Thượng Nam Đông Dương ở Cao nguyên Trung phần
để thành Hoàng triều Cương thổ (tiếng Pháp: Domaine de la Couronne). Theo
đó thì xứ Thái có vị khâm mạng cai trị nhân danh hoàng đế Bảo Đại. Khi người
Pháp thất trận tại Đông Dương thì thực thể này tan rã.
- Quốc gia Việt Nam và Việt Nam cộng hòa (1949 – 1975)
Vua 01Thành Thái đã thay thế cờ Đại Nam bằng cờ 0quẻ Càn có nền vàng
ba sọc đỏ trong việc ủng hộ các phong trào chấn hưng quốc gia và chống Pháp
18



khi đó. Lá cờ này đã được sử dụng từ 1890 tới 1920 dưới thời 0Nhà Nguyễn và
được coi là tiền thân cho lá cờ vàng ba sọc đỏ sau này.
Nhiều nguồn cho rằng cờ này do họa sĩ %Lê Văn Đệ vẽ và đã trình cho
vua Bảo Đại chọn trong một phiên họp ở 4Hồng Kông năm 1947, với ý nghĩa
màu vàng và đỏ của lá cờ vì người Việt Nam "da vàng máu đỏ" và ba sọc tượng
trưng cho ba miền Bắc, Trung, Nam. Cờ có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc
vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho 0quẻ Càn trong 11Bát
Quái, màu vàng thuộc 0hành thổ và ở vị trí trung ương thể hiện cho chủ quyền
quốc gia, màu đỏ thuộc 0hành hỏa và chỉ phương Nam. Bề ngang của mỗi sọc
đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề
ngang chung của lá cờ.
Ngày %12 tháng 6 năm 1948, 2Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt
Nam của Thủ tướng 2Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ
làm quốc kỳ. Lá cờ vàng ba sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ dưới thời Quốc
gia Việt Nam (1949-1955), và sau đó là quốc kỳ cho suốt thời Đệ Nhất và Đệ
Nhị 2Việt Nam Cộng hòa (1955-1975).
- Cộng hòa miền Nam Việt Nam ( 1969 – 1976)
Khi 23Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập vào
ngày %%120 tháng 12 năm 1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt
Minh hoạt động ở miền Nam Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ
trang, chống Mỹ và tiến tới thống nhất đất nước, đã sử dụng hiệu kỳ cờ có nền
gồm nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng.
Theo một số văn bản của Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975 và sau đó năm 1975 thì khi Quân giải phóng
tiến vào Sài Gòn sử dụng cờ Chính phủ CMLT, ngày mừng chiến thắng sử dụng
hai cờ CPCMLT và VNDCCH; các ngày lễ sau đó cả 2 miền sử dụng treo hai
cờ, miền bắc cờ Mặt trận treo các công sở, cơ quan, còn ngày thường miền Nam
sử dụng cờ MT.

- Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay ( 1976 đến nay)
Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Quốc hội Việt Nam khóa VI đã
19


lấy quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm quốc kỳ của nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với vài thay đổi nhỏ so với mẫu cờ nguyên thủy.
Đây chính là lá quốc kỳ chính thức đại diện cho nước Việt Nam thống nhất từ
1976 đến nay.
2.1.2.2. Ý nghĩa của quốc kỳ việt nam hiện nay
Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có Quốc kỳ riêng của mình. Việt Nam
là một dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Quốc kỳ Việt Nam là lá
cờ đỏ sao vàng, là biểu tượng của hồn nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời
bền vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam và là biểu tượng thiêng liêng
nhất, thể hiện nhiệt huyết cách mạng, sự hy sinh anh dũng của toàn thể nhân dân
Việt Nam trong cuộc chiến đánh đuổi quân xâm lược, giành chính quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ. Lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng chung nhất của dân tộc
Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi một người dân Việt Nam và đã
được cộng đồng quốc tế công nhận và tôn trọng.
Lá cờ đỏ sao vàng là một minh chứng khẳng định sự thống nhất, độc lập,
tự chủ và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định và lịch sử kiểm chứng trong gần một thế kỷ qua, đó là: "Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn
nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
Lịch sử và ý nghĩa của lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam gắn liền với những
năm tháng đấu tranh kiên cường, bất khuất, đổ máu hy sinh anh dũng của nhân
dân Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi của Tổ quốc, giành chính
quyền, thống nhất đất nước, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó
khăn để có được cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc ngày nay.
Lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ duy nhất đại diện cho dân tộc Việt Nam,

điều đó đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi một người dân Việt Nam như Chủ
tịch Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã khẳng định tại
cuộc họp Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm
1946: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa
năm 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn chính phủ đi từ châu á sang châu
20


Âu, từ châu Âu về châu á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì...
trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền đòi thay đổi Quốc kỳ và Quốc
ca...". Đó là hồn nước, niềm tự hào, biểu tượng thiêng liêng bất khả xâm phạm
của bản sắc dân tộc Việt Nam.
2.1.3. Quốc huy
2.1.3.1. Lịch sử hình thành của quốc huy
Quốc huy biểu tượng cho quốc gia, cho độc lập, chủ quyền, cho bản sắc
dân tộc. Tại kỳ họp thứ năm của Quốc hội khoá I (15 – 20/9/1955), sau khi xem
xét, cân nhắc nhiều mẫu, Tiểu ban Nghiên cứu ba vấn đề Quốc kỳ, Quốc ca,
Quốc huy đã quyết định trình mẫu Quốc huy do Chính phủ đề nghị và đã được
đa số đại biểu Quốc hội tán thành. Mẫu Quốc huy này do các danh hoạ Bùi
Trang Chước và Trần Văn Cẩn đồng sáng tác (họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ mẫu
Quốc huy để làm cơ sở lựa chọn và họa sĩ Trần Văn Cẩn đã chỉnh sửa hoàn thiện
mẫu Quốc huy theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo để trình Quốc hội phê duyệt).
Năm 1976, khi Việt Nam thống nhất, mẫu Quốc huy được sửa đổi phần
quốc hiệu (theo phê chuẩn của Quốc hội Việt Nam khóa VI).
2.1.3.2. Ý nghĩa của quốc huy
Quốc huy Việt Nam hình tròn với nền đỏ tươi, ở giữa có ngôi sao vàng
năm cánh tượng trưng cho lịch sử cách mạng, tinh thần đoàn kết của dân tộc ta;
bông lúa vàng bao quanh tượng trưng cho nền nông nghiệp vững chắc; dòng chữ
tên nước phía dưới và bánh xe răng cưa tượng trưng cho nền nông nghiệp cũng
như xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Quốc huy Việt Nam thường được sử dụng trên nhiều văn bản, tài liệu như
bằng huân - huy chương, bằng khen, các chứng chỉ, trên sách, báo chí, hộ chiếu,
trang thông tin điện tử, trên các trụ sở cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương...
Quốc huy là một biểu tượng cô đọng, súc tích và đầy đủ về đất nước và
con người Việt Nam, nó hàm chứa khát vọng tha thiết của một dân tộc yêu
chuộng hòa bình và khẳng định chủ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.
2.1.4. Quốc ca
21


2.1.4.1. Lịch sử hình thành của quốc ca
- Bản quốc ca đầu tiên
Theo Nguyễn Ngọc Huy, đến thời Chiến tranh thế giới thứ hai, hoàng
đế Bảo Đại xuống chiếu chọn một quốc kỳ và quốc ca. Quốc kỳ là cờ long
tinh còn quốc ca là bài 0Đăng đàn cung.
Bài Đăng đàn cung được dùng cho nước Đại Nam, gồm Trung kỳ và Bắc
kỳ, chứ không dùng cho Nam kỳ vì Nam kỳ là đất thuộc địa, một lãnh thổ hải
ngoại của Pháp.
Khi được chọn làm quốc ca, bài Đăng đàn cung có lời bắt đầu với:
Bên núi sông hùng vĩ trời Nam.
Đã bao đời vết anh hùng chưa hề tan.
Vì đâu máu ai ghi ngàn thu.
Còn tỏ tường bên núi sông.
Xác thân tan tành.
Vì nước quên mình.
- Giai đoạn 1945- 1954
Năm 1945, Nhật đảo chính 1Pháp, chính quyền Nhật tuyên bố "trao trả
độc lập" cho Việt Nam. Chính phủ Đế quốc Việt Nam được thành lập, tuyên bố
độc lập trên danh nghĩa, và đổi quốc kỳ ra cờ Quẻ Ly nhưng vẫn giữ quốc ca là

bài Đăng đàn cung.
Đồng thời, tại Nam kỳ, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì tại đây dấy
lên 0Đoàn Thanh niên Tiền phong, quy tụ thanh niên yêu nước muốn giành độc
lập thật sự. Nhiều người từng là sinh viên tại Viện đại học Hà Nội, là đại học
duy nhất cho toàn cõi Đông Dương khi đó. Tại đây, họ đã quen với bài “Sinh
viên hành khúc” hay “Tiếng gọi sinh viên”, bài nhạc tranh đấu của Tổng hội sinh
viên. Do đó, phong trào Thanh niên Tiền phong lấy bài “Tiếng gọi sinh viên”,
đổi chữ "sinh viên" thành "thanh niên," và dùng làm 0đoàn ca. 0Đoàn kỳ là cờ
vàng sao đỏ. Đoàn Thanh niên Tiền phong sau đó gia nhập Việt Minh để chống
Pháp dưới sự lãnh đạo của 4Đảng Cộng sản Đông Dương.
Sau 111Cách mạng tháng Tám, khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ
22


Cộng hòa thì bài “Tiến quân ca” được chọn làm quốc ca Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Điều này được ghi vào hiến pháp ngày 9 tháng 11 năm 1946.
Trong khi đó, năm 1946, tại Nam kỳ, Pháp thành lập Nam Kỳ quốc.
Chính phủ 2Nam kỳ Cộng hòa quốc được thành lập ngày 23 tháng 6 do Nguyễn
Văn Thinh lãnh đạo. Chính phủ này dùng quốc ca là một bài hát của giáo sư Võ
Văn Lúa, lời dựa trên đoạn đầu 2Chinh phụ ngâm khúc. Chính phủ này tồn tại
hai năm.
Năm 1948, chính phủ Quốc gia Việt Nam ra đời, với Bảo Đại làm quốc
trưởng và tướng 2Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Chính phủ này sau đó đã
chọn bài “Tiếng gọi thanh niên”, đồng thời thay chữ "thanh niên" bằng chữ
"công dân", thành bài “42Tiếng gọi công dân”, làm quốc ca.
- Giai đoạn 1954 – 1976
Năm 1956, Quốc hội Lập Hiến tại miền Nam lập nên chế độ cộng hòa,
hiến pháp 1956 thành lập nước 2Việt Nam Cộng Hòa, bài “Tiếng gọi công
dân” vẫn giữ làm quốc ca.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ,

bài “Giải phóng miền Nam” trở thành quốc ca cho cả miền Nam trong nước
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cho tới khi hai miền thống nhất ngày 2 tháng 7
năm 1976 thành nước 23Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và quốc ca
là Tiến quân ca.
2.1.4.2. Ý nghĩa của quốc ca
Mỗi chúng ta ai cũng đã rất nhiều lần nghe và hát bài Quốc ca mỗi khi
chào cờ, một bản nhạc như hồn đất nước. Đó chính là bài “Tiến quân ca” của
Nhạc sỹ Văn Cao.
Quốc ca Việt Nam chính là niềm tự hào của người dân Việt Nam, khi
tiếng hát “Tiến quân ca” cất lên từ trái tim mỗi người Việt Nam cũng là lúc
niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước trào dâng mạnh mẽ. Và như
vậy, mỗi lần hát Quốc ca là một lần người Việt Nam tự bồi đắp tinh thần yêu
nước, tinh thần tự tôn dân tộc để nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mỗi công dân
đối với đất nước, nâng cao ý thức phụng sự Tổ quốc, phúng sự nhân dân qua
23


từng việc làm cụ thể ở từng vị trí công việc cụ thể. Nguyện vọng của cả dân tộc
chất chứa trong “Tiến quân ca” phải được chuyển thành hành động để “Nước
non Việt Nam vững bền”.
Quốc ca được sử dụng trong các buổi lễ chào cơ tại các công sở nhà nước,
trường học, các nghi lễ sinh hoạt chính trị của đất nước, các đoàn thể, các lễ hội
quốc gia,…
2.2. Biểu tượng không chính thức
2.2.1. Quốc phục

Người Việt Nam chúng ta thường tự hào về chiếc áo dài, thậm chí nó
được nâng lên thành quốc phục, mang trong đó bản sắc văn hoá, hương vị dân
tộc thể hiện giá trị thẩm mỹ, cái đẹp được bảo lưu và đổi mới theo suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc. Áo dài Việt Nam từ lâu đã thu hút sự chú ý của không biết

bao nhiêu thế hệ nghệ sỹ Việt Nam. Tà áo dài mỏng manh, gợi cảm là thế,
nhưng nó vẫn giữ được nét kín đáo và duyên dáng và tôn nên vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt Nam, nó thu hút con mắt nghệ thuật của biết bao nhiêu họa sỹ, và là
24


nguồn cảm hứng cho rất nhiều bài hát, bài thơ ca ngợi quê hương và con người
Việt Nam.
2.2.2. Quốc hoa
- Trong cuộc sống hằng ngày, người ta tặng nhau đóa hoa sen để bày tỏ
lòng tôn kính, để tán dương phẩm chất trong sáng, thuần khiết của đối phương.
Và cũng giống như những loài hoa khác, mỗi màu sắc của hoa sen lại bày tỏ một
ý nghĩa sâu sắc riêng, trên cái nền thanh nhã, mộc mạc ban đầu.
- Với Sen Trắng: người ta dễ dàng cảm nhận được nét bình dị, thanh cao,
thuần khiết, phảng phất cả nét tôn nghiêm. Màu trắng của hoa sen, mang lại cho
ta sự thanh thoát và bình yên cho tâm hồn. "Yêu thương sen trắng tươi màu Sống đời đức hạnh thanh cao tâm hồn"

- Với Sen Xanh - một loài hoa đặc biệt, bởi thực chất, hoa sen xanh chính
là sen trắng, vốn có màu hồng nhưng rất nhạt, phần dưới của cánh có màu trắng,
phần ngọn có màu hồng nhạt. Và khi hoa sen trắng mới nở, những cánh hoa bên
ngoài có màu hơi xanh nên người ta gọi là sen xanh. Tuy vậy, giữa sen trắng và
sen xanh lại có những ý nghĩa khác nhau mà con người đã gửi gắm. Nếu bên
trên chúng ta đã biết được sen trắng tượng trưng cho sự trong sáng tuyệt đói, sự
25


×