Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Pháp luật về hộ kinh doanh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 75 trang )

TRẦN NGỌC TRÀ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH Ở VIỆT NAM

TRẦN NGỌC TRÀ

2014 - 2016

HÀ NỘI – 2016

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH Ở VIỆT NAM

TRẦN NGỌC TRÀ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2016
ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tài
liệu tham khảo và nội dung trích dẫn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

TS. Bùi Ngọc Cường

HỌC VIÊN CAO HỌC

Trần Ngọc Trà

iii


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu “Pháp luật về hộ kinh doanh ở
Việt Nam”, em xin cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và cán
bộ quản lý - Viện Đại học mở Hà Nội, các cán bộ, công chức đồng nghiệp Văn

phòng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La, bạn bè và gia đình đã tạo điều kiện
thuận lợi, cung cấp tài liệu và giúp đỡ em trong quá trình làm luận văn.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Bùi Ngọc Cường đã trực
tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, cung cấp những thông tin và kiến thức quý báu
trong quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của thầy, cô và các đồng
nghiệp để hoàn thiện hơn nữa luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!

HỌC VIÊN CAO HỌC

Trần Ngọc Trà

iv


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH VÀ PHÁP
LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỘ KINH DOANH ............................................................. 5
1.1 Tổng quan về hộ kinh doanh............................................................................. 5
1.1.1 Quan niệm về hộ kinh doanh ......................................................................... 5
1.1.2 Cơ sở hình thành hộ kinh doanh ở Việt Nam .............................................. 10
1.1.3 Quá trình phát triển hộ kinh doanh.............................................................. 13
1.1.4 Vai trò của hộ kinh doanh ........................................................................... 15
1.2 Pháp luật về hộ kinh doanh ............................................................................. 17
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về hộ kinh doanh .................................. 17
1.2.2 Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về hộ kinh doanh của một số nước trên thế

giới và bài học đối với Việt Nam.......................................................................... 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH Ở VIỆT
NAM .................................................................................................................... 24
2.1 Những nội dung cơ bản của pháp luật về hộ kinh doanh ................................. 24
2.1.1 Quy định về thành lập, đăng kí, hình thức tổ chức ....................................... 24
2.1.2 Quy định về quyền và nghĩa vụ ................................................................... 27
2.1.3 Quy định về trách nhiệm trả nợ của hộ kinh doanh ...................................... 31
2.1.4 Quy định về tạm ngừng, chấm dứt, chuyển đổi ............................................ 32
2.2 Đánh giá pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay............................ 34
2.2.1 Những kết quả đạt được.............................................................................. 34
2.2.2 Những hạn chế, bất cập ............................................................................... 35
v


CHƯƠNG 3. MÔT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ
KINH DOANH Ở VIỆT NAM............................................................................. 45
3.1 Quan điểm hoàn thiện ..................................................................................... 45
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở Việt Nam45
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh ........................ 48
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật trên quan điểm khuyến khích hộ kinh doanh phát triển49
3.2 Một số giải pháp về hoàn thiện pháp luật ....................................................... 51
3.2.1 Hoàn thiện chế định về hộ kinh doanh theo Luật doanh nghiệp ................... 52
3.2.2 Xây dựng và ban hành quy chế pháp lý về hỗ trợ hộ kinh doanh ................. 57
3.3 Một số giải pháp về tổ chức thực hiện ............................................................ 57
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 65

vi



MỞ ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sau gần 30 năm đổi mới, hệ thống pháp luật kinh doanh ở Việt Nam ngày càng
hoàn thiện và có những bước tiến quan trọng. Năm 2014 đánh dấu sự hoàn thiện,
đồng bộ của hệ thống pháp luật kinh doanh với một loạt các văn bản pháp luật mới
được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh doanh bất động
sản,…Các văn bản này đã tạo một khung pháp lý áp dụng tương đối thống nhất cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay còn khoảng
4,5 triệu hộ kinh doanh ở Việt Nam chưa có quy chế pháp lý rõ ràng, thống nhất.
Thậm chí các cơ quan lập pháp đang tiếp tục xây dựng cơ chế hỗ trợ cho khoảng 1
triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng “bỏ qua” với khoảng 4,5 triệu hộ kinh doanh.
Các văn bản pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được nhu cầu thực tại của nền kinh
tế đất nước mà cụ thể là nhu cầu phát triển tự nhiên của các hộ kinh doanh, đồng
thời cũng không đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng kinh doanh
giữa các thành phần kinh tế theo Hiếp pháp. Nếu có một hệ thống pháp luật phù hợp
điều chỉnh toàn diện về hoạt động kinh doanh và khuyến khích hộ kinh doanh phát
triển thì khoảng 4,5 triệu hộ kinh doanh này sẽ phát huy được tiềm năng, lợi thế
cạnh tranh, mở rộng được quy mô sản xuất, kinh doanh, từ đó tạo “đòn bẩy” cho sự
thay đổi của nền kinh tế đất nước. Trước thực trạng pháp luật và vai trò quan trọng
của hộ kinh doanh trong nền kinh tế đất nước, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về
hộ kinh doanh ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Tính thời điểm viết luận văn này, khoa học xã hội đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu về pháp luật hộ kinh doanh ở các góc độ khác nhau. Các công trình khoa
học tiêu biểu về đề tài này có thể kể đến: Tổng cục thống kê (2015), Kết quả điều
tra cơ sở sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 2014, Hà Nội; Hoàng Minh Sơn
(2012), Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật -Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Vũ Thị Ngọc Anh (2014), Địa vị pháp lý
1



của hộ kinh doanh- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội; TS. Ngô Huy Cương (2009), Phân tích pháp luật về hộ
kinh doanh để tìm ra các điểm bất cập”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà
Nội, Luật học, số 25; Hoàng Minh Sơn (2015), Một số vấn đề pháp lý về hộ kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và một số kiến nghị, Tạp chí Phát luật &
Phát triển, Hội luật gia Việt Nam; Trần Ngọc Dũng (2014), Hoàn thiện pháp luật
về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà
nước và Phát luật, Số 9/2014, tr.42-29; Đặng Thị Thùy Trang (2015), Hoàn thiện
quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật -Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
Khuất Thị Thu Hà, Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối
với các hộ kinh daonh trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ luật học,
Đại học Luật Hà Nội…
Nhìn chung, các công trình khoa học pháp lý nêu trên đã nghiên cứu khá cụ
thể, chi tiết các khía cạnh pháp lý về hộ kinh doanh cũng như thực tiễn áp dụng
pháp luật về hộ kinh doanh. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy
đủ, toàn diện về hộ kinh doanh trong bối cảnh thay đổi lớn về Luật doanh nghiệp và
các chương trình, chính sách ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp phát triển của Nhà
nước. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật hộ kinh doanh một cách đầy đủ, sâu sắc
trên cơ sở phân tích pháp luật của từng thời kỳ, so sánh với pháp luật thực tại và
đánh giá những yếu tố kinh tế đất nước và hội nhập quốc tế là rất cần thiết. Từ đó
đưa ra các giải pháp hoàn thiện nhằm khuyến khích các hộ kinh doanh phát triển.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về hộ kinh doanh, nội dung quy định pháp luật hiện hành về hộ kinh doanh, từ đó
tìm ra các điểm bất cập, hạn chế của pháp luật về hộ kinh doanh và đề xuất phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh;
2



Nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện hành về hộ kinh doanh và tìm ra các điểm bất cập
của pháp luật về hộ kinh doanh hiện nay; Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về hộ kinh doanh nhằm thúc đẩy hộ kinh doanh phát triển.
4. ĐỐI TƯƠNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các quy định của pháp luật về hộ
kinh doanh, trong đó trọng tâm là nghiên cứu các quy định của Luật doanh nghiệp
2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về hộ kinh doanh.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung vào nội dung các quy định của pháp luật
hiện hành về hộ kinh doanh hiện nay, từ đó tìm ra các điểm bất cập, hạn chế của
pháp luật và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật phù hợp với
điều kiện bối cảnh kinh tế của Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, tác giả cũng nghiên
cứu quan điểm điều chỉnh pháp luật về hộ kinh doanh của một số quốc gia từ đó đưa
ra liên hệ, so sánh để hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp tổng hợp và phân
tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu
lý luận…Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng
của đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Trên cơ sở tham khảo một số công trình nghiên cứu khác, luận văn thể hiện
một số điểm mới sau:
Thứ nhất, luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu và phân tích pháp luật hộ
kinh doanh trong bối cảnh Luật doanh nghiệp 2014 đã đi vào thực tế và hiện tại Nhà
nước đang tích cực xây dựng chương trình, chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp vừa
và nhỏ, cải thiện môi trường kinh doanh.

3



Thứ hai, luận văn nghiên cứu tương đối đầy đủ về hệ thống pháp luật hộ kinh
doanh tại Việt Nam qua các thời kỳ, về quan niệm của pháp luật một số nước trên
thế giới về hộ kinh doanh, các điểm bất cập của pháp luật hộ kinh doanh hiện hành
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề lí luận về hộ kinh doanh và pháp
luật điều chỉnh hộ kinh doanh; Chương 2. Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh ở
Việt Nam; Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh
ở Việt Nam.

4


CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH VÀ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỘ KINH DOANH
1.1 Tổng quan về hộ kinh doanh
1.1.1 Quan niệm về hộ kinh doanh
1.1.1.1 Khái niệm hộ kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân trong
xã hội. Pháp luật tạo ra khuôn khổ pháp lý để hướng dẫn các cá nhân lựa chọn mô
hình tổ chức phù hợp với ý tưởng và điều kiện kinh doanh của họ. Một nhóm cá
nhân hợp tác kinh doanh với nhau có thể lựa chọn hình thức thành lập doanh
nghiệp, hợp tác xã hoặc tổ hợp tác, tuy nhiên một bộ phận khác là cá nhân đơn lẻ,
các hộ gia đình lại lựa chọn hình thức đơn giản hơn để hoạt động kinh đoanh đó là
“hộ kinh doanh” hoặc “doanh nghiệp tư nhân”. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế xã hội, pháp luật Việt Nam từng thời kỳ ghi nhận mô hình kinh doanh của các cá

nhân đơn lẻ hoặc hộ gia đình với các tên gọi khác nhau như hộ cá thể, hộ kinh
doanh cá thể hoặc hộ kinh doanh.
Nghị định số 27-HĐBT của Hội đồng bộ trường ngày 09/3/1988 ban hành
“Bản quy định về chính sách đối với kinh tế cá thẻ, kinh tế tư doanh sản xuất công
nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tải” là văn bản đầu tiên quy định về các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Nghị định này thừa nhận định ba hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm hộ cá thể, hộ tiểu thủ công nghiệp (xưởng,
cửa hàng) và xí nghiệp tư doanh. Trong đó hộ cá thể được giải thích: “Hộ cá thể:
Tư liệu sản xuất và các vốn là sở hữu của người chủ đứng tên đăng ký kinh doanh;
Chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao động trực tiếp. Những người lao động
khác phải là bố mẹ, vợ chồng, các con và nếu là người thân thì phải có tên trong sổ
đăng ký hộ khẩu của chủ đăng ký kinh doanh,có thể thuê mướn thêm lao động thời
vụ; Thu nhập sau khi đã đóng thuế thuộc sở hữu của chủ hộ”. Quan niệm về hộ cá
5


thể theo Nghị định này được hiểu là các cá nhân tự kinh doanh, thương nhân, thể
nhân thực hiện hoạt động kinh doanh và là người lao động cho chính mình.
Nghị định số 66/HĐBT ngày 03/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và
nhóm kinh doanh có mức vốn thấp hơn vốn pháp định được quy định tại Nghị định
số 221-HĐBT ngày 23/7/1991 hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp tư nhân năm
1990 quy định “Người kinh doanh có mức vốn thấp hơn vốn pháp định được quy
định của Luật doanh nghiệp tư nhân bao gồm cá nhân kinh doanh, nhóm kinh
doanh, nhóm kinh doanh phải có ít nhất hai người trở lên”. Nghị định 66/HĐBT
không có tên gọi cụ thể cho nhóm cá nhân, hộ gia đình thực hiện hoạt động kinh
doanh nhỏ lẻ.
Khái niệm hộ kinh doanh cá thể xuất hiện lần đầu tiên tại Điều 123 Luật doanh
nghiệp năm 1999: “Chính phủ hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh
doanh cá thể có quy mô lớn đang hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 02
tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng chuyển thành doanh nghiệp, đăng ký

kinh doanh và hoạt động theo quy định của Luật này”. Điều 17 Nghị định số
02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh quy định
cụ thể về khái niệm hộ kinh doanh cá thể: “Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân
hoặc một hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường
xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Điều 24 Nghị định 109/2004/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 02/4/2004 về đăng ký kinh doanh tiếp tục ghi nhận khái niệm hộ
kinh doanh cá thể theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP.
Luật doanh nghiệp năm 2005 và Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006
của Chính phủ về đăng ký kinh doanh quy định tên gọi thống nhất “hộ kinh doanh”
để chỉ cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình thực hiện hoạt động kinh doanh. Nghị
định 88/2006/NĐ-CP đưa ra khái niệm đầy đủ, toàn diện về hộ kinh doanh: “Hộ
kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một
hộ gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá
6


mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Khoản 2 Điều 212 Luật Doanh nghiệp năm 2015 quy định: “Hộ kinh doanh sử
dụng thường xuyên từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp
hoạt động theo quy định của Luật này. Hộ kinh doanh có quy mô nhỏ thực hiện
đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của Chính phủ”. Nghị định
78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ hướng dẫn về đăng ký doanh
nghiệp giữ nguyên khái niệm về hộ kinh doanh theo Nghị định 88/2006/NĐ-CP.
Theo pháp luật hiện hành, hộ kinh doanh được chia thành ba loại gồm hộ kinh
doanh do một cá nhân làm chủ, hộ kinh doanh do một nhóm cá nhân làm chủ và hộ
kinh doanh do hộ gia đình làm chủ:
- Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ bản chất là thương nhân thể nhân,
đây chính là hình thức hộ cá thể theo quy định của Nghị định Nghị định số 27HĐBT ngày 09/3/1988. Điều kiện để cá nhân thành lập hộ kinh doanh là công dân

Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ
- Hộ kinh doanh do nhóm cá nhân thành lập, hình thức này tương ứng với
nhóm kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 03/2/1991.
- Hộ kinh doanh do hộ gia đình thành lập. Việc quy định hộ gia đình được
quyền thành lập hộ kinh doanh xuất phát từ việc công nhận hộ gia đình là chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự theo Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm
2005.
Có thể thấy rằng, quan niệm về hộ kinh doanh qua các thời kỳ pháp luật có sự
khác biệt đáng kể. Nếu như các văn bản pháp luật ở thời kỳ đầu đổi mới, quan niệm
về hộ kinh doanh còn mang dấu ấn rõ nét của nền kinh tế gia đình và sự phân biệt
giữa các thành phần kinh tế nhà nước, tư nhân thì pháp luật hiện nay đã hoàn thiện
hơn. Khái nhiệm về hộ kinh doanh theo pháp luật hiện hành thể hiện khá đầy đủ bản
chất pháp lý và đặc điểm của hộ kinh doanh, đồng thời cũng kế thừa nội dung về hộ
7


kinh doanh cá thể, hộ cá thể. Điểm chung của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
đều coi hộ kinh doanh là mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh có quy mô nhỏ hơn
doanh nghiệp, không có con dấu, không có tư cách pháp nhân và phải chịu trách
nhiệm vô hạn về hoạt động kinh doanh. Sự phân biệt giữa hộ kinh doanh và doanh
nghiệp là một đặc thù của hệ thống pháp luật Việt Nam so với các nước khác. Bộ
luật Dân sự Nga 1994 xem doanh nghiệp là một tổ hợp tài sản sử dụng cho một
hoặc một số hoạt động thương mại nhất định. Pháp luật của các nước theo Civil
Law có quan niệm tương tự. Ở Hoa Kỳ, thuật ngữ doanh nghiệp được sử dụng để
chỉ toàn bộ các thực thể kinh doanh không kể tới quy mô và phạm vi của chúng
[26].
1.1.1.2 Đặc điểm của hộ kinh doanh
Giống như doanh nghiệp, hộ kinh doanh có bản chất là một đơn vị kinh tế có
đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Hộ
kinh doanh có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh có quy mô rất nhỏ. Quy mô
kinh doanh thể hiện trên các các phương diện: số lượng lao động, số lượng địa điểm
kinh doanh, vốn đầu tư, doanh thu….Đây cũng là đặc điểm cơ bản để phân biệt hộ
kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trên thực tế, hộ kinh doanh được thành lập bởi
một cá nhân, hoặc hộ gia đình thực hiện kinh doanh chủ yếu ở nông thôn trong các
lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, quy mô sản xuất nhỏ, vốn đầu tư thấp. Sản xuất của
hộ kinh doanh đơn giản, chủ yếu dựa vào sức lao động thủ công và công cụ lao
động truyền thống, năng suất lao động thấp. Nghị định 66/HĐBT phân biệt việc
kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh và các doanh nghiệp tư nhân bằng mức
vốn pháp định, theo đó người kinh doanh có mức vốn thấp hơn mức mức vốn pháp
định quy định cho doanh nghiệp tư nhân [12] . Hiện nay, tiêu chí vốn pháp định
không còn là cơ sở phân biệt hộ kinh doanh hay doanh nghiệp theo pháp luật hiện
hành bởi vì chỉ có doanh nghiệp tư nhân, công ty hoạt động trong các ngành nghề
kinh doanh có điều kiện mới phải tuân thủ quy định về mức vốn pháp định. Khoản 2
8


Điều 212 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Hộ kịnh doanh sử dụng thường xuyên
từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp hoạt động theo quy
định của Luật này. Hộ kinh doanh có quy mô nhỏ thực hiện thực hiện đăng ký kinh
doanh và hoạt động theo quy định của Chính phủ. Luật doanh nghiệp năm 2014
phân biệt hộ kinh doanh và doanh nghiệp qua quy mô sử dụng lao động, nếu hộ
kinh doanh sử dụng thường xuyên mười lao động thì phải đăng ký thành lập doanh
nghiệp, đây là quy định bắt buộc đối với hộ kinh doanh.
Thứ hai, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân. Điều 84 Bộ luật dân sự
năm 2005, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có các điều kiện: “Được
thành lập hợp pháp; Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; Nhân danh mình tham gia các
quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân
bởi vì hộ kinh doanh không có tài sản độc lập với người thành lập. Hộ kinh doanh

do một cá nhân làm thành lập có bản chất là cá nhân kinh doanh, mọi tài sản của hộ
kinh doanh cũng đồng thời là tài sản của cá nhân tạo lập hộ kinh doanh. Sau khi
hoàn thành các nghĩa vụ tài chính và thanh toán theo quy định của pháp luật, cá
nhân tạo lập hộ kinh doanh được hưởng toàn bộ lợi nhuận đồng thời cũng phải gánh
chịu mọi nghĩa vụ và rủi ro. Hộ kinh doanh do hộ gia đình thành lập có bản chất là
hộ gia đình kinh doanh. Tài sản của hộ gia đình thống nhất với hộ kinh doanh. Hộ
kinh doanh được tạo lập bởi một nhóm cá nhân không có tư cách pháp nhân. Thực
hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, loại hình này tương đồng với công ty hợp danh
và tổ hợp tác.
Thứ ba, chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của
mình. Như trên đã phân tích hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân, người
thành lập hộ kinh doanh và hộ kinh doanh không phải là hai chủ thể độc lập, tách
biệt nên họ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Nếu hộ kinh doanh
do một cá nhân làm chủ thì cá nhân đó phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với khoản
nợ của hộ kinh doanh, trách nhiệm trả nợ của hộ kinh doanh đồng nhất với trách
nhiệm của cá nhân thành lập hộ. Nếu hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ thì hộ
9


gia đình phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của hộ gia đình. Theo quy định
của Bộ luật dân sự, hộ gia đình chịu trách nhiệm bằng tài sản chung của hộ, nếu tài
sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung thì các thành viên phải chịu trách
nhiệm liên đới bằng tài sản của mình. Về nguyên tắc, nhóm cá nhân thành lập hộ
phải chịu trách nhiệm vô hạn về nghĩa vụ của hộ kinh doanh. Nghĩa vụ của họ là
nghĩa vụ liên đới, tuy nhiên hiện nay Nghị định 78/2015/NĐ-CP cũng như Bộ luật
dân sự chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
1.1.2 Cơ sở hình thành hộ kinh doanh ở Việt Nam
Cơ sở hình thành và phát triển các hộ kinh doanh ở Việt Nam dựa trên những
điều kiện kinh tế, xã hội và pháp lý cụ thể sau:
Về kinh tế- xã hội, thời kỳ phong kiến, pháp luật thương mại không được biết

đến, kinh doanh buôn bán không phát triển do chính sách nông nghiệp, bế quan tỏa
cảng và ảnh hưởng của Khổng giáo, chế độ đại gia đình gia trưởng. Do vậy, thời kỳ
này các hình thức kinh doanh không được chủ ý, nếu như có quan hệ mua bán
thương mại thì hộ gia đình là thành phần lấn át. Đến thời kỳ Pháp thuộc, Bộ luật
thương mại Pháp được áp dụng ở Nam Kỳ năm 1864 và Bắc Kỳ năm 1988. Thời kỳ
này xuất hiện các thương nhân đơn lẻ, hình thành và hoạt động theo chế định của
Luật thương mại Pháp. Khi xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp, với chế độ công hữu hóa về tư liệu sản xuất, tầng lớp thương nhân không
có cơ hội phát triển thậm chí bị dập tắt. Xã hội thời kỳ này chỉ còn một số người
chay chợ lo cơm ăn hàng ngày, người bán hàng rong và một số người kinh doanh
nhỏ lẻ ở một số ngành nghề liên quan đến tiêu dùng hoặc thành phần đang trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa. Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, việc cải
tạo công thương nghiệp để xây dựng nên kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp đã dần đến nhiều hệ luy và nan giải về kinh tế. Nhân dân túng thiếu, đói
kém, kinh tế trị trệ, lạc hậu. Việc xây dựng nên kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã đi
ngược lại quy luật phát triển, không đảm bảo được nguyên tắc tự nguyện, cùng có
lợi và quản lý dân chủ, thủ tiêu quyền tài sản thiêng liêng của mỗi công dân, làm
10


mất đi động lực phát triển kinh tế xã hội. Sai lầm về đường lối làm cho nền kinh tế
suy kiệt, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông rối ren, nhân dân đói
kém. Đứng trước tình hình đó, Đảng đã phân tích nguyên nhân và xây dựng đường
lối, chính sách khắc phục. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đưa ra giải pháp:
“Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng khả năng tích cực của kinh tế
tiểu tư sản xuất hàng hóa, đồng thời vận dụng và tổ chức những người lao động cá
thể vào các hình thức làm ăn tập thể để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải
tạo và sử dụng tiểu thương, giúp đỡ những người không cần thiệt trong lĩnh vực lưu
thông chuyển sang sản xuất và dịch vụ. Sử dụng kinh tế tư bán tư nhân (tư sản nhỏ)
trong một số ngành, nghề, đi đôi với cải tạo họ từng bước bằng nhiều hình thức tư

bản Nhà nước, xóa bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân. Mở rộng nhiều hình thức liên
kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi”. [19]
Thi hành đường lối của Đại hội VI, tại Hội ghị lần thứ hai của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VI, trong lời khai mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói:
“Không phải ngẫu nhiên mà đề tài trung tâm của Hội nghị Trung ương lần thứ
hai là vấn đề phân phối, lưu thông. Từ năm 1981 đến nay, đã nhiều lần Trung ương
bàn bạc và quyết định, nhưng tình hình chẳng những không được cải thiện, mà
ngày càng trầm trọng hơn. Hiện nay, nó đang là vấn đề cấp bách và cơ bản, là tụ
điểm của những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã giao cho Ban chấp hành Trung ương mới tập trung sức giải quyết vấn
đề này. Trách nhiệm của chúng ta, của mỗi ủy viên trung ương và toàn thể Ban
chấp hành Trung ương là phải trả lời thẳng vào những vấn đề bức xúc nói trên của
cuộc sống, đáp ứng được lòng mong đợi nóng bỏng và chính đáng của nhân dân”
[20]. Tiếp đó Báo cáo của Bộ Chính trị về giải quyết những vấn đề cấp bách về
phân phối, lưu thông đã kiến nghị như sau:
“Ban hành văn bản thể chế hóa và cụ thể hóa chính sách đối với kinh tế cá thể
và kinh tế tư bản tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI để họ an tâm bỏ vốn
sản xuất, kinh doanh… Đối với các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp (tập thể,
11


gia đình, cá thể, và tư bản tư nhân), Nhà nước bán vật tư, mua sản phẩm theo giá
thỏa thuận thông qua hợp đồng kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng” [21]. Hội nghị
đã ra Nghị quyết chỉ đạo: “Thể chế hóa và cụ thể hóa chính sách đối với kinh tế cá
thể và kinh tế tư bản tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng để mọi
người yên tâm bỏ vốn sản xuất, kinh doanh. Theo hướng dẫn của Trung ương, các
tỉnh, thành phố qui định những ngành nghề và phạm vi hoạt động của các thành
phần kinh tế nói trên. Khuyến khích các hình thức hùn vốn, hợp tác, làm ăn tập thể
từ thấp đến cao và các hình thức liên kết với các thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa”[22].

Về pháp lý, để đáp ứng nhu cầu bức bách của toàn xã hội, ngay sau Hội nghị,
Hội đồng Bộ trưởng lúc đó đã ra Nghị định số 27- HĐBT ngày 9/3/1988 ban hành
Bản qui định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công
nghiệp, dịch vụ công nghiệp xây dựng, vận tải “Để thể chế hóa các chủ trương mới
đã nêu trong Nghị quyết Đại lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với kinh tế cá thể, kinh
tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải; Để giải
phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, huy
động khả năng của nhân dân phát triển sản xuất hàng hóa và dịch vụ sản xuất phục
vụ đời sống và phục vụ xuất khẩu; Để phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh, kết
hợp chặt chẽ kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể” [13]. Nghị định này đưa ra các tuyên ngôn có tính cách mạng rằng: (i) Công
nhận sự tồn tại và các tác dụng lâu dài của các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư
doanh; (ii) Nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này hoạt động và
phát triển; (iii) Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản
và thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế và của công dân thuộc thành phần kinh
tế này; và (iv) “Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân của các đơn vị kinh tế thuộc
các thành phần kinh tế này trong xã hội” [13]. Theo Bản qui định ban hành kèm
theo Nghị định 27- HĐBT, các đơn vị kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh được xem là
các đơn vị kinh tế tự quản có tư liệu sản xuất và các vốn khác, tự quyết định mọi
12


vấn đề sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về thu nhập, lỗ, lãi. Các đơn vị kinh
tế này được tổ chức theo những hình thức: (i) hộ cá thể; (ii) hộ tiểu công nghiệp; và
(ii) xí nghiệp tư doanh. Từ các hình thức này dần dà tiến tới hộ kinh doanh, doanh
nghiệp tư nhân và các công ti ngày nay ở Việt Nam. Theo Bản qui định này, hộ cá
thể có các điều kiện sau: (i) tư liệu sản xuất và các vốn khác thuộc quyền sở hữu của
người đứng tên đăng ký kinh doanh; (ii) chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao
động trực tiếp; (iii) những người lao động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, con hoặc

những người thân khác có tên trong sổ đăng ký hộ khẩu của người đứng tên đăng ký
kinh doanh; (iv) thu nhập sau khi đóng thuế thuộc quyền sở hữu của chủ hộ. Có thể
hiểu đây chính là cá nhân kinh doanh hay thương nhân thể nhân tiến hành hoạt động
kinh doanh cho chính mình. Dấu ấn gia đình Việt Nam và dấu ấn quan niệm về các
thành phần kinh tế trong cơ chế cũ vẫn còn đó. Và thậm chí cho đến ngày nay,
người ta vẫn gọi cá nhân kinh doanh là “hộ kinh doanh”. Văn bản này chính nền
tàng, cơ sở pháp lý đầu tiên để hình thành, phát triển hộ kinh doanh ở Việt Nam.
1.1.3 Quá trình phát triển hộ kinh doanh
Kể từ khi Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TW ngày 5/4/1988 về
“đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” với mục đích giải phóng sức sản xuất trong
nông nghiệp, nông thôn, chuyển giao đất đai và cá tư liệu sản xuất khác cho hộ
nông dân quản ý và sử dụng lâu dài thì các hộ nông dân đã trở thành các đơn vị tự
chủ trong sản xuất nông nghiệp, tức là thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế. Từ
đó, hộ gia đình được tự chủ trong sản xuất kinh doanh, được toàn quyền trong điều
hành sản xuất, sử dụng lao động, mua sắm vật tư kỹ thuật, hợp tác sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm của họ làm ra. Sau 28 năm thừa nhận, quá trình phát triển hộ kinh
doanh đạt được các kết quả sau:
Một là, số lượng hộ kinh doanh cá thể tại khu vực nông thôn tăng nhanh, tốc
độ tăng của giai đoạn sau (2006-2011) cao hơn giai đoạn trước (2001-2005) tương
ứng 11,5% so với 5,38% [29]. Tính đến năm 2014, cả nước có tổng cộng 4.658 triệu
hộ kinh doanh cá thể [35]. Sự gia tăng các hộ kinh doanh diễn ra khá đồng đều trên
13


phạm vi cả nước, trong đó cao nhất là vùng Đông Nam Bộ (26.74%), thấp nhất ở
vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ (8.31%) [29].
Hai là, cơ cấu hộ kinh doanh có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng hiện đại.
Điều này thể hiện ở sự giảm xuống khá nhanh về số lượng và tỷ trọng của nhóm hộ
nông, lâm nghiệp, thủy sản, và sự tăng lên của nhóm hộ công nghiệp, xây dựng.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, sự chuyển dịch cơ cấu hộ

diễn ra theo chiều hướng tích cực. So sánh năm 2011 với 2001, số hộ thuần nông
giảm 2,6% về tỷ trọng và 6,2% về số hộ, tương ứng hộ lâm nghiệp tăng 0,3% và
10,5%; hộ thủy sản tăng 2,3% và 38,8%. [29]
Thứ ba, lĩnh vực hoạt động của các hộ kinh doanh ngày càng đa dạng, nhờ đó
cơ cấu thu nhập của hộ có sự thay đổi theo hướng bền vững hơn. Ngoài những
ngành nghề truyền thống, các hộ kinh doanh đã chủ động chuyển đổi ngành nghề,
thay đổi cơ cấu kinh tế tạo nguồn thu nhập cao và ổn định hơn. Nguồn thu nhập của
các hộ kinh doanh thu từ nông nghiệp giảm và nguồn thu chủ yếu từng hoạt động
phi nông nghiệp tăng lên. Từ đó cho thấy các hộ kinh doanh ngày càng thoát khỏi
sự lệ thuộc và tự nhiên, giảm bớt được rủi ro trong sản xuất
Thứ tư, nhiều hộ kinh doanh có quy mô sản xuất khá lớn, với lượng vốn kinh
doanh lên tới hàng trăm triệu động, thậm chí chục tỷ đồng, trong đó một bộ phận
đáng kể hộ kinh doanh đã thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một bộ phận
khác thành lâp các tổ hợp tác và hợp tác xã. Sự liên kết, mở rộng quy mô, tăng hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các hộ đã thể hiện xu hướng phát triển của nền sản
xuất theo hướng hiện đại.
Thứ năm, ngày càng xuất hiện nhiều hộ kinh doanh khẳng định được vị trí
trong nền kinh tế thị trường và đóng góp không nhỏ và sự nghiệp xóa đói giảm
nghèo bền vững của địa phương. Các hộ kinh doanh lớn tạo công ăn việc làm cho
người dân địa phương, hướng dẫn phổ biến kinh nghiệm sản xuất cho các hộ kinh
doanh và các cá nhân trong xã hội.

14


Mặc dù hoạt động kinh doanh của các hộ kinh doanh có phát triển đáng kể, tuy
nhiên hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Quy mô sản xuất kinh doanh của hộ kinh
doanh còn manh mún nhỏ lẻ, khó áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Cơ cấu ngành
nghề kinh doanh còn lạc hậu, hộ kinh doanh vẫn hoạt động kinh doanh nông nghiệp
là chủ yếu nên rủi rõ rất dễ gặp phải, đời sống của các hộ kinh doanh còn nhiều bấp

bênh. Thị trường sản phẩm bị hạn hẹp, bị động. Các hộ kinh doanh nông nghiệp
phải đối mặt với thực tế sản phẩm làm ra khó tiêu thụ. Tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà
hộ kinh doanh cung ứng ra thị trường thường không không qua hợp đồng mà chỉ
bằng lời nói, dễ gặp rủi ro và bị ép giá hoặc thanh toán chậm trễ.
1.1.4 Vai trò của hộ kinh doanh
Với nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta hiện nay, mọi thành phần kinh tế đều được Đảng và Nhà nước khuyến khích
phát triển. Trong những năm qua, hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam có
nhiều thuận lời từ thủ tục thành lập đơn vị kinh doanh đến cải cách quản lý thuế đối
tượng này theo hình thức thuế khoán, không cần tập hợp hóa đơn, ghi chép sổ sách
đã tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển mạnh mẽ, ngày càng khẳng định vai
trò to lớn trong nền kinh tế xã hội.
Thứ nhất, hoạt động của hộ kinh doanh góp phần khơi dậy một phận quan
trọng tiềm năng của đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển kinh tế quốc
dân. Kinh tế hộ kinh doanh xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan
hệ quản lý và phân phối làm cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt, phù hợp với lực
lượng sản xuất vốn còn thấp và phát triển không đều giữa các vùng, các ngành trong
cả nước. Nhờ vậy đã khơi dậy và phát huy tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh
nghiệm sản xuất của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, hoạt động của các hộ kinh doanh góp phần quan trọng thu hút vốn
nhàn rỗi của các nhân, hộ gia đinh trong xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực của
15


địa phương. Điều này tạo điều kiện, cơ hội cho đông đảo tầng lớp nhân dân có thể
tham gia đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, hộ kinh doanh có thể dễ dàng
huy động vốn vay dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt
động của hộ kinh doanh là phương tiện tối ưu trong việc huy động vốn, sử dụng các

khoản tiền đang phân tán, nằm im trong khu dân cư thành khoản vốn kinh doanh.
Những điều kiện khách quan từ môi trường và truyền thống của nền văn hóa Việt
Nam tạo điệu kiện thuận lợi cho kinh tế hộ kinh doanh phát triển nhờ tận dung được
các bị quyết sản xuất truyền thống và kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ. Điều
này cho phép phát huy những ngành nghề truyền thống để tạo ra sản phẩm độc đáo
phục vụ cho nhu cầu của xã hội.
Thứ ba, hộ kinh doanh đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà
nước. Từ trước đến nay, khu vực kinh tế nhà nước là khu vực có tỷ trọng đóng góp
cao nhất trong GDP. Tuy nhiên, Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2014), nếu
như kinh tế Nhà nước đóng góp 32.2% vào GDP thì kinh tế ngoài Nhà nước đóng
góp tới 48,3% vào GDP trong đó riêng kinh tế hộ kinh doanh đóng góp 32,3%, kinh
tế tư nhân 10,9%, kinh tế tập thể 5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 19.5% [35].
Như vậy, trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, kinh tế cá thể, hộ kinh doanh có tỷ
trọng đóng góp cao nhất trong GDP (xấp xỉ 33%) cao hơn khu vực kinh tế Nhà
nước và hơn hẳn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh góp phần thu hút một phận
lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động. Lợi
thế nổi bật của hoạt động kinh doanh hộ gia định là có thể thu hút một lực lượng
đông đảo, đa dạng, phong phú cả về mặt số lượng cũng như chất lượng từ lao động
thủ công đến lao động chất lượng cao ở tất cả mọi vùng, miền đất nước, ở tất cả mọi
tầng lớp dân cư…Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2014, cả
nước có tổng cộng 4.658 triệu hộ kinh doanh cá thể với số lượng lao động gần là
7.950.000 người, chiếm 41,15 % lực lượng lao động toàn xã hội [35]. Việc sử dụng
số lượng lớn lao động hộ gia đình ở các địa phương, tạo ra các chủng loại sản phẩm
hàng hóa dịch vụ đa dạng, phong phút, các hộ kinh doanh cá thể không những giải
16


quyết việc làm, tăng thu nhập…mà còn là mạng lưới rộng lớn, phát triển về những
vùng xa, vùng khó khăn mà các loại hình kinh doanh khác không đáp ứng được.

Đây là kênh phân phối và lưu thông hàng hóa quan trọng, giúp cân đối thương mại
và phát triển kinh tế địa phương.
Thứ năm, hoạt động của hộ kinh doanh có đóng góp quan trọng vào việc
thúc đây tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển
nhanh của hoạt động kinh doanh hộ gia đình góp phần không nhỏ và thúc đẩy tăng
trưởng của cả nước. Trên thế giới cũng như Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước
thường được ưu tiên xây dựng thành các cụm công nghiệp, dịch vụ tổng hợp và các
vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. Điều đó dẫn đến tình trạng mất cân đối
nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng của quốc gia. Chính hoạt động phát triển của hộ kinh doanh góp
phần tạo lập sự cân đổi trong phát triển giữa các vùng, giúp các vùng sâu, vùng xa,
các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng, thế mạnh của mình để phát
triển nhanh các ngành sản xuất và dịch vụ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các vùng miền.
Ngoài ra, các hộ kinh doanh có lợi thế quy mô nhỏ nên có tình năng độ, linh hoạt,
sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, góp phần làm năng động nền kinh tế.
1.2 Pháp luật về hộ kinh doanh
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về hộ kinh doanh
Năm 1988, nhằm thể chế hóa các chủ trương đã nêu trong Nghị quyết Đại hội
thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp
hành Trung Ương Đảng đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công
nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng và vận tải, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định số 27-HĐBT. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định mô hình kinh tế
cá thể, ghi nhận hình thức hộ kinh doanh ở Việt Nam. Bản quy định về chính sách
đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp,
xây dựng, vận tải ban hành kèm theo Nghị định số 27-HĐBT đã quy định các
17


nguyên tắc, chính sách cơ bản về kinh tế cá thể như khái niệm, nguyên tắc thành lập

và hoạt động, ngành nghề kinh doanh, các chính sách của Nhà nước về vật tư, tiêu
thụ sản phẩm, tài chính, tín dụng, khoa học kỹ thuật, lao động và xã hội đối với kinh
tế cá thể, các quyền, nghĩa vụ của kinh tế cá thể. Sự ra đời của văn bản đã giải
phóng mọi lực lượng sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải
đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy khả năng của mọi thành phần
kinh tế, huy động khả năng của nhân dân phát triển sản xuất hàng hóa và dịch vụ
sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Nghị định số 66-HĐBT là văn bản tiếp theo quy định về hộ kinh doanh. Nghị
định này điều chỉnh về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định
của doanh nghiệp tư nhân được quy định trong Nghị định số 221-HĐBT. Trình tự,
thủ tục xin phép kinh doanh và cấp giấy phép kinh doanh đối với hộ kinh doanh đã
được quy định cụ thể trong Nghị định số 66-HĐBT. Ngoài ra Nghị định cũng quy
định các vấn đề về thay đổi nội dung, tạm ngưng và chấm dứt hoạt động kinh doanh
của hộ kinh doanh, về quyền nghĩa vụ của hộ kinh doanh cũng như việc kiểm tra,
xử lý vi phạm của cơ quan Nhà nước đối với hộ kinh doanh.
Sau khi Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời, Chính phủ tiếp tục ban hành 02
Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 và Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày
2/4/2004 về đăng ký kinh doanh. Tên gọi "hộ kinh doanh" được hai nghị định này
đổi thành "hộ kinh doanh cá thể". Hai nghị định này tiếp tục kế thừa các quy định
về hộ kinh doanh của các văn bản pháp luật trước đây và hoàn thiện các quy định
khác về đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh cá thể. Khái niệm hộ kinh doanh
cá thể đã được ghi nhận tại Điều 17 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP: “Hộ kinh doanh
cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố
định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Việc đăng ký kinh
doanh đối với hộ kinh doanh cá thể được quy định trong Nghị định về đăng ký kinh
doanh áp dụng chung với doanh nghiệp và hộ kinh doanh. Hai Nghị định này cũng
quy định cụ thể về quyền đăng ký kinh doanh, về trình tự thủ tục đăng ký kinh
18



doanh, về thời điểm kinh doanh và việc đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh
doanh. Việc phân biệt hộ kinh doanh và doanh nghiệp ở pháp luật thời kỳ này dựa
trên khoản 2 Điều 123 của Luật doanh nghiệp năm 1999: “Chính phủ hướng dẫn và
tạo điều kiện để hộ kinh doanh cá thể có quy mô lớn đang hoạt động theo Nghị định
số 66 ngày 02 tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng chuyển thành doanh
nghiệp, đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của Luật này”.
Khoản 4 Điều 170 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Hộ kinh doanh sử dụng
thường xuyên từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp hoạt
động theo quy định của Luật này”. Khái niệm hộ kinh doanh chính thức được ghi
nhận trong văn bản luật. Không giống như Luật doanh nghiệp năm 1999, Nhà nước
có quy định tùy nghi “hướng dẫn và tạo điều kiện” cho hộ kinh doanh có quy mô
lớn thành lập doanh nghiệp, thì Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định bắt buộc các
hộ kinh doanh có quy mô lớn phải thành lập doanh nghiệp, nội hàm quy mô lớn đã
được thể hiện rõ là hộ kinh doanh sử dụng 10 lao động trở lên. Cụ thể hóa Luật
doanh nghiệp 2005, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP
quy định chi tiết về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký hộ kinh doanh và quản lý Nhà
nước về đăng ký hộ kinh doanh. Luật doanh nghiệp năm 2014, Nghị định
78/2015/NĐ-CP tiếp tục kế thừa các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005,
Nghị định 43/2010/NĐ-CP về hộ kinh doanh.
Tóm lại, pháp luật về hộ kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà
nước quản lý tổ chức, hoạt động của hộ kinh doanh, các quan hệ về tổ chức, hoạt
động của hộ kinh doanh và các quan hệ giữa hộ kinh doanh với các chủ thể khác.
Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đối tượng điều chỉnh của pháp luật hộ kinh doanh chính là các hộ
kinh doanh. Hộ kinh doanh là đơn vị kinh tế có quy mô nhỏ, có mô hình tổ chức
đơn giản do cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình thành lập, không có tư cách pháp
nhân và phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình trong hoạt động kinh
19



×