Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá trong thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 74 trang )

PHẠM BÁ TIẾN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA
TRONG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

PHẠM BÁ TIẾN
2014 - 2016

Hà Nội - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA
TRONG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

PHẠM BÁ TIẾN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn của Tiến sỹ Trần Thị Bảo Ánh. Các nôi dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là
trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các
ví dụ phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các
nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn có sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu
của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và có chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội
dung luận văn của mình. Viện Đại học Mở Hà Nội không liên quan đến những vi phạm
tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn

Phạm Bá Tiến


LỜI CẢM ƠN
Qua 2 năm học tập và rèn luyện sau đại học tại Viện Đại Học Mở Hà Nội, được sự
chỉ bảo và giảng dậy nhiệt tình của quý thầy cô, đặc biệt là quý thầy cô Khoa sau Đại
Học, ngành Luật Kinh tế đã truyền đạt cho tôi những kiến thức về lý thuyết và thực hành
nâng cao trong suốt thời gian học ở trường. Cùng với sự nỗ lực của bản thân, tôi đã hoàn
thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Từ những kết quả đạt được này, tôi xin chân thành cảm ơn:
Quý thầy cô Viện Đại Học Mở Hà Nội, Quý thầy cô Khoa sau Đai Học, ngành

Luật Kinh tế của Viện Đại Học Mở Hà Nội và Trường Đại học luật Hà Nội đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức bổ ích trong thời gian qua. Đặc biệt, là Tiến sỹ Trần Thị Bảo
Ánh, giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành tốt
Luận văn tốt nghiệp này.
Do kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những thiếu sót trong cách hiểu,
lỗi trình bày. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý cô và Ban lãnh đạo, để
báo cáo tốt nghiệp đạt được kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn

Phạm Bá Tiến


MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 3
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ........................................................... 3
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................................ 3

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN
HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA
.................................................................................................................................... 5
1.1. Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường .... 5
1.2. Bản chất pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ......................................... 16

1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ...................................... 21

Chương 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY
THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM...................................................... 291
2.1. Chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa..................................................... 291
2.2. Giao kết hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa .......................................................... 323
2.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa................................ 368
2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa ....................... 401
2.5. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ................................. 446
2.6. Chấm dứt hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ........................................................ 502

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM ..................................... 52
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam.
...................................................................................................................................... 524
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở
Việt Nam ....................................................................................................................... 547

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 69


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với những ưu điểm của mình đang
ngày càng trở thành hoạt động thương mại phổ biến trong nền kinh tế thị trường. So
với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 đã sửa đổi một số quy
định để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của loại hoạt động thương mại này
cũng như để bảo vệ quyền lợi của thương nhân và các bên thứ ba tham gia quan hệ ủy
thác mua bán hàng hóa theo hướng tăng cường nguyên tắc tự do thỏa thuận của các

bên. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thi hành, những quy định về hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa tại Luật Thương mại năm 2005 cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập
cần phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn phát triển của các
hoạt động thương mại ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội nhập kinh
tế quốc tế cũng như khắc phục những mâu thuẫn, không thống nhất giữa Luật Thương
mại với các văn bản pháp luật có liên quan. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp
cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, thì việc hoàn thiện
các quy định của Luật Thương mại về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng
và yêu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp đồng nói chung là rất cần thiết. Với
mong muốn tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa để tạo tiền đề phân tích và đánh giá được những hạn chế, bất cập của
những quy định hiện hành về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, trên cơ sở đó đề ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa,
tác giả đã mạnh dạn lựa chọn nội dung: Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong
thương mại theo pháp luật Việt Nam làm đề tài cho Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề pháp lý về hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa nói chung và hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng đã được trình bày, giới thiệu trong giáo
trình Luật Thương mại của một số cơ sở đào tạo luật như Trường Đại học Luật Hà
Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội... hay trong một số cuốn sách chuyên khảo
như chuyên khảo Luật Kinh tế năm 2004 của TS. Phạm Duy Nghĩa (Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia); Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những vấn đề
1


pháp lý cơ bản năm 2009 của TS. Nguyễn Thị Dung, chủ biên (Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia) ... Trong các cuốn giáo trình, cuốn sách chuyên khảo này, những quy
định về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được nghiên cứu và giới thiệu chủ yếu
dừng ở việc mô tả các quy định của pháp luật nhằm trang bị những kiến thức cơ bản
cần thiết cho người đọc chứ chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề lý

luận và thực tiễn liên quan đến loại hợp đồng này.
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
cũng được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu với tích chất là một hoạt
động trung gian thương mại như Luận án tiến sỹ luật học “Pháp luật điều chỉnh hoạt
động trung gian thương mại ở Việt Nam ” năm 2007 của Nguyễn Thị Vân Anh
(Trường Đại học Luật Hà Nội), Luận án tiến sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật
thương mại hàng hóa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” năm 2004
của Lê Hoàng Oanh (Trường Đại học Luật Hà Nội)... Những công trình này nghiên
cứu bao quát về các hoạt động trung gian thương mại mà không tập trung nghiên cứu
chuyên sâu, toàn diện về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Nghiên cứu đối với
từng hoạt động trung gian thương mại đã có một số công trình như: “Chế định đại
diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn tự góc độ Luật so sánh” năm 2009
của TS. Ngô Huy Cương (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4), Luận văn thạc sỹ luật
học “Hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa- những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm
2010 của Trần Quỳnh Anh (Trường Đại học Luật Hà Nội).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm pháp lý về hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa và pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, các văn
bản pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới quy định về hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích những khía cạnh
pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trên cơ sở lý luận cũng như các quy
định có liên quan đến hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được quy định chủ yếu tại
Bộ Luật dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005.

2


4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những
quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng chính sách, pháp luật
thương mại tạo điều kiện phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ là vấn đề trọng tâm.
Luận văn được thực hiện dựa trên việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp
như: Phân tích, thống kê, tổng hợp và so sánh luật học...
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Để trên cơ sở
đó, luận văn đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết là:
- Làm sáng tỏ được những vấn đề lý luận cơ bản nhất về hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng cũng
như những vấn đề lý luận của pháp lý hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa;
- Xác định và phân tích được những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng và kiến nghị được một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động ủy thác mua
bán hàng hóa nói chung và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng, qua đó giúp
phân biệt với những hoạt động và hợp đồng trong lĩnh vực trung gian thương mại
khác.
- Luận văn đã chỉ ra và phân tích được những nội dung cơ bản của pháp luật về
hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam, nhất là việc chỉ ra những hạn chế,
bất cập cần tiếp tục hoàn thiện.
3



- Luận văn đã đề ra được phương hướng và kiến nghị được một số giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa và
pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.
Chương 2: Những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa ở Việt Nam

Chương 1

4


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA
BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC
MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trường
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của hoạt động ủy thác mua bán
hàng hóa
Trong lịch sử phát triển thương mại có rất nhiều phương thức giao dịch khác
nhau. Phương thức giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phổ biến nhất là
phương thức giao dịch trực tiếp.
Giao dịch trực tiếp là phương thức giao dịch trong đó người bán và người mua

trực tiếp bàn bạc và thoả thuận với nhau về các nội dung giao dịch như: Đối tượng,
giá cả, phương thức thanh toán và các điều kiện giao dịch khác. Phương thức giao
dịch này có những ưu điểm như: các bên trực tiếp thương thảo hợp đồng nên ít xảy ra
hiểu lầm, sai sót đáng tiếc, do đó nâng cao hiệu quả của đàm phán giao dịch; thương
nhân có điều kiện trực tiếp tiếp cận thị trường, do đó có thể nhanh chóng thích ứng
với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất; thương nhân có thể trực tiếp phát triển mối
quan hệ với bạn hàng nước ngoài một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, phương thức
giao dịch trực tiếp cũng có những hạn chế nhất định như khi thương nhân mua bán
hàng hoá ở thị trường mới hay đối với sản phẩm mới, vì do chưa am hiểu thị trường,
chưa có nhiều thông tin nên thương nhân dễ bị ép giá, dễ gặp rủi ro lớn. Mặt khác,
phương thức giao dịch này chỉ có thể đạt hiệu quả khi thương nhân có đội ngũ thực
hiện giao dịch giàu kinh nghiệm và phải tốn khá nhiều chi phí giao dịch.
Do đó, đối với các thương nhân vừa và nhỏ hoặc lần đầu tiên tham gia thị
trường, đặc biệt là thị trường quốc tế hoặc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ mới
hoặc tại thị trường mới thì phương thức giao dịch trực tiếp chưa hẳn đã tốt, dễ gây rủi
ro. Trong những trường hợp này, thương nhân có thể lựa chọn phương thức giao dịch
qua trung gian.
5


Phương thức giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương
thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng
hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ) và việc xác định các điều kiện
giao dịch phải thông qua một người trung gian [29, tr.17].
Trong phương thức giao dịch trực tiếp chỉ có hai chủ thể trực tiếp thiết lập
quan hệ với nhau còn trong phương thức giao dịch qua trung gian sẽ xuất hiện một
chủ thể nữa, người này đứng ở vị trí độc lập với hai bên còn lại trong quan hệ và là
người thực hiện dịch vụ theo sự uỷ quyền và vì lợi ích của người khác để hưởng thù
lao. Có thể gọi công việc do người trung gian thực hiện trong hoạt động thương mại
để hưởng thù lao là dịch vụ trung gian thương mại. Đây là loại dịch vụ được thực hiện

chủ yếu trong lĩnh vực phân phối thương mại và đối với nhà sản xuất thì thông qua
dịch vụ này giúp họ tiếp cận với người tiêu dùng một cách nhanh chóng hơn [28].
Xuất phát từ nhu cầu này mà nhiều hoạt động trung gian thương mại đã ra
đời như: dịch vụ đại diện, dịch vụ môi giới, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý
thương mại. Trong các dịch vụ trung gian thương mại liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hóa, nhất là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thì ủy thác mua bán hàng
hóa là phổ biến và được ưa chuộng trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Dưới giác độ lịch sử, trên thế giới hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa đã
xuất hiện từ đầu thế kỷ XIII. Vào thời điểm đó, các thương nhân, thay vì theo hàng
hóa giao tại cảng đến, họ ủy thác cho thương nhân khác thực hiện công việc đó thay
mình và trả thù lao. Đó là khởi nguồn của việc sử dụng ủy thác trong hoạt động
thương mại. Cùng với sự phát triển của thương mại toàn cầu, đặc biệt từ nửa sau thế
kỷ XIX, khi các quan hệ quốc tế gia tăng đáng kể thì ủy thác trong hoạt động thương
mại, đặc biệt là hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa ngày càng trở nên có ý nghĩa.
Đến nay, ở hầu hết các nước đều tồn tại các hoạt động thương mại qua trung gian,
trong đó có hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa [28].
Ở Việt nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ủy thác mua bán
hàng hóa chủ yếu tồn tại trong khu vực kinh tế có yếu tố nước ngoài. Các khu vực
kinh tế khác, hoạt động này chưa có điều kiện để hình thành. Thời kỳ này, một số văn
6


bản pháp luật của Bộ ngoại thương (sau này là Bộ thương mại) dưới hình thức Thông
tư, được ban hành để điều chỉnh các hoạt động ủy thác xuất nhập khẩu và đại lý mua
bán hàng hóa ở nước ngoài.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, trước những đòi hỏi bức
thiết của việc sử dụng các hoạt động thương mại qua trung gian, Luật Thương mại
năm 1997 ra đời, có những quy định cơ bản về các hoạt động trung gian thương mại,
trong đó hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa được quy định từ Điều 99 đến Điều
110. Sau hơn bảy năm thi hành, Luật Thương mại năm 1997 bộc lộ nhiều bất cập cần

phải sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển thương mại trong nước và
quốc tế.
Ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật
Thương mại năm 2005. Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006
thay thế Luật Thương mại năm 1997. Luật Thương mại năm 2005 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh. Các hoạt động thương
mại nói chung trong đó có hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa được điều chỉnh một
cách linh hoạt bởi một hành lang pháp lý mềm dẻo. Luật Thương mại năm 2005 quy
định hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa từ Điều 155 đến Điều 165, theo đó ủy thác
mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán
hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác
và được nhận thù lao uỷ thác. Như vậy, không giống như nhiều nước trên thế giới,
Luật Thương mại nước ta đã tách hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa ra khỏi hoạt
động đại lý mua bán hàng hóa thành hoạt động thương mại độc lập với những nét đặc
trưng riêng.
1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung với hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Thành
phần kinh tế tư nhân không được thừa nhận và bị liệt vào dạng phải cải tạo và xoá bỏ.
Do không có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, toàn bộ nền kinh tế cũng như
từng đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa đều phải thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh đã được
7


phân bổ từ trước, ký kết hợp đồng kinh tế là kỷ luật của Nhà nước nên thời kỳ này nền
kinh tế không có tính cạnh tranh [18, tr.575]. Trong lĩnh vực ngoại thương, nhà nước
thông qua các doanh nghiệp của mình thành lập độc quyền đối với hoạt động xuất
nhập khẩu. Vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động ủy thác
mua bán hàng hóa nói riêng không có cơ hội phát triển.
Sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế theo hướng phát triển

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản
lý của Nhà nước do Đại hội Đảng VI (12/1986) khởi xướng, các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại bình đẳng.
Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận tại Hiến pháp (1992) với sự đa dạng về
các thành phần kinh tế được thừa nhận và được tạo điều kiện để phát triển đã tạo ra và
thúc đẩy môi trường cạnh tranh phát triển. Cạnh tranh không còn là một hiện tượng
mới mẻ trong nền kinh tế. Thực tiễn đó, buộc Nhà nước ta phải ban hành các văn bản
pháp luật thể chế hóa đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng [18, tr.575]. Luật
Thương mại năm 1997 ra đời là một minh chứng, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt
động thương mại nói chung và hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng. Cùng
với quá trình hội nhập kinh tế, các hoạt động thương mại trong đó có hoạt động ủy
thác mua bán hàng hóa ngày càng có ý nghĩa và vài trò quan trọng, được các thương
nhân sử dụng phổ biến, thể hiện ở một số ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, người nhận ủy thác thường hiểu rõ và nắm bắt đầy đủ thông tin thị
trường, am hiểu pháp luật và tập quán địa phương, do đó có khả năng đẩy mạnh việc
buôn bán, phòng tránh hoặc giảm thiểu rủi ro cho người ủy thác. Điều này đặc biệt có
ích đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập và hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa ở nước ta. Đã từng có bài học đắt giá được rút ra đối với một
công ty xuất khẩu ở Đà Nẵng khi xuất khẩu một lô hàng mây tre đan sang Úc mà
không biết quy định của pháp luật nước đó, khiến toàn bộ lô hàng không được chấp
nhận và bị tiêu hủy [25]. Từ đó có thể thấy rằng việc hiểu biết rõ tình hình pháp luật,
tập quán địa phương nơi dự định thực hiện giao dịch thương mại đóng vai trò hết sức
quan trọng. Khi một doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất
là ở những thị trường mới mà không am hiểu về pháp luật và tập quán thương mại của
8


nước đó; đồng thời cũng không có khả năng tự tìm bạn hàng tiêu thụ sản phẩm thì
việc sử dụng dịch vụ thương mại qua trung gian, đặc biệt là hoạt động ủy thác mua
bán hàng hóa sẽ có vai trò quan trọng, khắc phục được những hạn chế nêu trên.

Thứ hai, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa góp phần phát triển nền kinh tế
đất nước, tăng thu ngân sách. Trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu là lĩnh vực
có tầm quan trọng đặc biệt vì nó chi phối lớn đến nhiều ngành kinh tế quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu muốn được đẩy mạnh phải tìm được đầu mối xuất
nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ ủy thác đã góp phần không nhỏ đối với
những doanh nghiệp không đủ điều kiện trực tiếp xuất nhập khẩu, không tìm được
đầu mối để xuất nhập khẩu. Ví dụ: Một cơ sở sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ có các sản
phẩm tranh thêu, muốn đưa sản phẩm của mình xuất khẩu ra thị trường nước ngoài
nhưng là chủ thể không được phép xuất khẩu hoặc không thông thạo về các thủ tục
xuất nhập khẩu cần thiết, thì có thể thông qua dịch vụ ủy thác xuất nhập khẩu để tiếp
cận thị trường.
Thứ ba, nhờ dịch vụ ủy thác trong việc lựa chọn, phân loại đóng gói, người
ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Người nhận ủy thác thường có sẵn cơ sở vật
chất, khi sử dụng dịch vụ này, người ủy thác đỡ được khoản đầu tư đáng kể. Nếu nhà
sản xuất, kinh doanh tự mình tổ chức phân phối hàng, tự tìm bạn hàng, ký hợp đồng
và thực hiện hợp đồng thì khoản đầu tư là rất lớn. Trong khi đó người được ủy thác đã
có đầy đủ kể cả đội ngũ công nhân viên có kinh nghiệm, hiểu biết thị trường, hiểu biết
pháp luật và tập quán thương mại... Như vậy, dù lợi nhuận bị chia sẻ, phải trả thù lao
cho người nhận ủy thác nhưng khoản đầu tư và chi phí vẫn ít hơn nhiều. Ví dụ: một
doanh nghiệp muốn bán sản phẩm của mình sang nước ngoài khi sử dụng dịch vụ ủy
thác; người nhận ủy thác sẽ tiến hành tất cả các khâu như tìm đối tác, ký kết và thực
hiện hợp đồng, làm thủ tục hải quan, thuê phương tiện vận tải... Tất cả các công việc
đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp xuất khẩu. Hay như nhà sản xuất
thực phẩm đóng hộp Vissan thông qua dịch vụ ủy thác để thu mua hải sản được phân
bố ở khắp các vùng đánh bắt hải sản, sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí không nhỏ
cho việc phân loại sản phẩm thu được.

9



Thứ tư, nhà kinh doanh có thể tổ chức một hệ thống rộng rãi các trung gian
tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ do tiết kiệm được chi phí khi sử dụng dịch vụ ủy thác.
Người ủy thác có thể mở rộng thêm thị trường, dần dần hình thành mạng lười buôn
bán để chiếm lĩnh thị trường. Nhờ đó việc buôn bán được xúc tiến mạnh mẽ hơn so
với việc tự mình tìm kiếm bạn hàng, tổ chức phân phối sản phẩm. Ta có thể thấy qua
việc doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hàng thực phẩm, hàng may mặc sang nước ngoài và
sử dụng dịch vụ ủy thác. Bên nhận ủy thác đã tìm bạn hàng, ký và thực hiện hợp đồng
với cơ sở vật chất và kinh nghiệm sẵn có, còn doanh nghiệp ủy thác chỉ phải trả thù
lao cho người nhận ủy thác.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa cũng có
những nhược điểm nhất định, đó là:
Thứ nhất, khi hoạt động thương mại được thực hiện thông qua người trung
gian, người sử dụng dịch vụ trung gian thương mại sẽ có nguy cơ bị mất mối liên hệ
trực tiếp với thị trường và đối tác. Do vậy, các nhà kinh doanh khi sử dụng dịch vụ ủy
thác mua bán hàng hóa có thể không cần tìm hiểu nhu cầu thị trường cũng như đối tác,
do đó có thể họ không điều chỉnh kịp thời kế hoạch sản xuất, kinh doanh, thay đổi mặt
hàng sản phẩm phù hợp với điều kiện thực tế. Nếu họ không tự tìm bạn hàng, nghiên
cứu thị trường, họ sẽ luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào người nhận ủy thác.
Thứ hai, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của người ủy thác bị
chia sẻ do họ phải trả một khoản tiền thù lao khi sử dụng dịch vụ ủy thác của người
nhận ủy thác, số tiền này tính theo phần trăm giá trị hợp đồng hoặc tùy theo sự thỏa
thuận của hai bên. Ngay cả khi lợi nhuận chưa chắc đã thu được nhưng tiền thù lao thì
vẫn phải trả cho người nhận ủy thác vì số tiền này không phụ thuộc người ủy thác
kinh doanh có lãi hay không.
Thứ ba, người ủy thác luôn ở thế bị động trong việc tiếp cận thị trường và đối
tác, họ phụ thuộc vào người nhận ủy thác. Nếu người nhận ủy thác làm việc kém hiệu
quả, không thành công hay gian lận, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại, tổn thất, bỏ lỡ các
cơ hội kinh doanh... thì người ủy thác sẽ phải chịu. Chẳng hạn có nhiều doanh nghiệp
mua lúa của nông dân nhưng ít đầu mối xuất khẩu trực tiếp nên phía đầu mối được dịp
10



ép giá hưởng lợi từ bên ủy thác.
Tóm tại, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa vừa có những ưu điểm và vừa có
những hạn chế nhất định. Do vậy, khi sử dụng dịch vụ ủy thác, bên ủy thác phải cân
nhắc sao cho phù hợp và hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với các hoạt động
trung gian thương mại khác
1.1.3.1. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với hoạt động đại
diện cho thương nhân
Trên thế giới, chế định đại diện thương mại có lịch sử phát triển lâu đời và
được xem là chế định quan trọng bậc nhất trong số các hoạt động trung gian thương
mại. Ở Việt Nam, đại diện cho thương nhân là một dạng của đại diện theo ủy quyền
được thực hiện trong hoạt động thương mại. Theo Điều 141 Luật Thương mại năm
2005, đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên
đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động
thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù
lao về việc đại diện.
Như vậy, đại diện cho thương nhân được hiểu là việc bên đại diện nhân danh
bên giao đại diện thực hiện các hoạt động thương mại trong phạm vi ủy nhiệm và
được hưởng thù lao đại diện. Với bản chất là thực hiện công việc trong nội dung ủy
nhiệm thay thương nhân giao đại diện, đại diện cho thương nhân có những điểm khác
căn bản so với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể, đại diện cho thương nhân bắt buộc bên giao đại diện
phải là thương nhân, trong khi đó, bên ủy thác không nhất thiết phải là thương nhân.
Luật thương mại quy định, bên giao đại diện phải là thương nhân có quyền
thực hiện hoạt động thương mại mà mình ủy quyền, trong khi, đối với hoạt động ủy
thác, bên ủy thác không nhất thiết phải có quyền hoạt động thương mại đối với lĩnh
vực mà họ ủy thác.
Thứ hai, về tư cách pháp lý khi thực hiện ủy nhiệm, đối với hoạt động ủy

11


thác mua bán hàng hóa, bên nhận ủy thác nhân danh chính mình khi thực hiện giao
dịch với bên thứ ba, do vậy, mọi hậu quả pháp lý của hành vi từ giao dịch đó sẽ trực
tiếp mang lại cho chính bên nhận ủy thác. Ngược lại, trong quan hệ đại diện cho
thương nhân, bên đại diện nhân danh bên giao đại diện khi thực hiện giao dịch với bên
thứ ba và như vậy, mọi hậu quả pháp lý phát sinh từ hành vi của bên đại diện sẽ mang
lại cho bên giao đại diện.
Thứ ba, về phạm vi nhận ủy nhiệm, theo Điều 161 Luật Thương mại năm
2005, bên nhận ủy thác có thể nhận ủy thác mua bán hàng hóa cho nhiều bên ủy
thác, trong khi bên đại diện cho thương nhân có thể không thực hiện được điều này
trừ trường hợp hợp đồng đại diện có thỏa thuận. Bởi khoản 4 Điều 145 Luật thương
mại năm 2005 quy định: Bên đại diện không được thực hiện các hoạt động thương
mại với danh nghĩa của mình hoặc của người thứ ba trong phạm vi đại diện.
Thứ tư, về quyền chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng do bên trung
gian thương mại ký với bên thứ ba không đúng thẩm quyền, bên giao đại diện có
quyền quyết định chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng do bên đại diện ký với
bên thứ ba không đúng thẩm quyền, trong khi ủy thác mua bán hàng hóa không đặt ra
vấn đề này.
Do bản chất của hoạt động đại diện cho thương nhân, bên đại diện chỉ là
người được ủy quyền thực hiện hành vi thay cho thương nhân, mọi hậu quả pháp lý
của hành vi đại diện trực tiếp mang lại cho chính bên giao đại diện. Vì vậy, theo
khoản 1 Điều 146 Luật Thương mại năm 2005, bên giao đại diện có quyền chấp nhận
hay không chấp nhận hợp đồng ký ngoài phạm vi đại diện giữa bên đại diện với bên
thứ ba. Trong khi đó đối với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa, bên nhận ủy thác
nhân danh chính mình khi ký kết hợp đồng với bên thứ ba, mọi hậu quả pháp lý phát
sinh từ hành vi đó trực tiếp mang lại cho chính họ. Do vậy, bên nhận ủy thác có quyền
tự do lựa chọn đối tác để giao kết hợp đồng, không phụ thuộc vào vấn đề chấp nhận
hay không chấp nhận việc giao kết hợp đồng từ phía bên ủy thác.

1.1.3.2. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với hoạt động môi
giới thương mại
12


So với các hoạt động trung gian thương mại khác, hoạt động môi giới thương
mại ở Việt Nam mới có điều kiện hình thành và phát triển những năm gần đây. Ở thời
kỳ kế hoạch hóa tập trung, hoạt động môi giới thương mại gần như không có cơ hội
phát triển. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung buộc các thực thể kinh doanh vận động
theo cơ chế đã được hoạch định, trên cơ sở chỉ tiêu pháp lệnh được giao, do đó khó có
cơ hội cho các trung gian thương mại nói chung và hoạt động môi giới thương mại nói
riêng hoạt động. Sau đổi mới, đặc biệt khi kinh tế thị trường tạo lập được nền móng và
đi vào phát triển tương đối ổn định, hoạt động môi giới thương mại mới thực sự có
điều kiện phát triển. Tuy thế, so với thế giới, hoạt động môi giới thương mại mới chỉ
đi những bước đầu tiên. Ở các nước tư bản, đặc biệt là Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, nơi
có thị trường chứng khoán, tài chính, bất động sản phát triển sôi động thì vai trò, vị
thế và những hiệu quả to lớn mà môi giới thương mại mang lại mới thực sự thể hiện
được những giá trị của nó.
Ở Việt Nam những năm gần đây, khi thị trường chứng khoán, bất động sản
được giao dịch chính thức, công khai trên các sàn giao dịch, vị thế của môi giới
thương mại đang dần được khẳng định và ngày càng có nhiều nhà môi giới chứng
khoán, môi giới bất động sản, môi giới vận tải ...chuyên nghiệp. Tuy thế hoạt động
môi giới vẫn chưa thể hiện hết những tiềm năng đích thực của nó.
Về phương diện pháp lý, Luật Thương mại không dành nhiều quy định cho
môi giới thương mại, nếu không nói là thiếu nhiều quy định pháp lý cần thiết về
hoạt động môi giới, đặc biệt là các quy định liên quan đến quyền của bên môi giới và
bên được môi giới. Những năm tới đây, khi môi giới thương mại thực sự phát huy
tiềm năng, hiệu quả của nó, với tính chất phức tạp của hoạt động này ở những thị
trường nhạy cảm như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản... thi việc sửa đổi, bổ sung
các quy định điều chỉnh hoạt động môi giới thương mại là cần thiết.

Theo Điều 150 Luật Thương mại, môi giới thương mại là hoạt động thương
mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi

13


giới.
Như vậy, môi giới được hiểu là người làm trung gian cho các bên tiếp xúc,
giao thiệp với nhau, trong hoạt động thương mại đó là người xúc tiến cho các bên giao
kết, xác lập quan hệ thương mại. So với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa, môi
giới thương mại có những điểm khác nhau sau đây:
Thứ nhất, về phạm vi hoạt động, môi giới thương mại được thực hiện trên
nhiều lĩnh vực (du lịch, dịch vụ, bất động sản, tài chính, chứng khoán...), trong khi đó
ủy thác mua bán hàng hóa được thực hiện trong phạm vi hẹp là ủy thác mua hàng hóa
hoặc là ủy thác bán hàng hóa.
Thứ hai, về quan hệ pháp lý xác lập với bên thứ ba, bên môi giới không trực tiếp
tham gia vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba, trong khi bên
nhận ủy thác trực tiếp giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thức ba.
Ở phương diện này, người môi giới chỉ là bên trung gian thuần túy làm
nhiệm vụ tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các bên được môi giới tiếp xúc, giao dịch
với nhau và sau đó các bên được môi giới tự đi đến ký kết hợp đồng. Bên môi giới
không có quan hệ với bên thứ ba về mặt pháp lý.
Thứ ba, về hình thức hợp đồng, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được
pháp luật quy định chặt chẽ dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương, trong khi hợp đồng môi giới không thể hiện sự bắt buộc về hình
thức. Như vậy, hợp đồng môi giới có thể giao kết bằng văn bản, thậm chí bằng lời nói,
hành vi cụ thể theo quy định của Bộ Luật dân sự về hình thức hợp đồng dân sự.
1.1.3.3. Phân biệt hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa với hoạt động đại lý

thương mại
Mô hình đại lý thương mại được sử dụng phổ biến hơn khi nhu cầu mua bán
hàng hóa của các nhà sản xuất từ quy mô nhà máy, xí nghiệp đến các công ty, tập
đoàn lớn đòi hỏi nguồn cung nguyên, nhiên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ổn định và có
hệ thống.
Ở Việt Nam, khi kinh tế thị trường có điều kiện phát triển, không còn hiếm
14


những hệ thống đại lý bán hàng được các tập đoàn lớn ủy nhiệm như Honda, các
siêu thị, đại lý phân phối sản phẩm điện máy, điện lạnh, hay đại lý thu mua nông
sản... Khó có thể phủ nhận những cơ hội mà toàn cầu hóa tạo ra cho các nhà sản
xuất có thể đưa sản phẩm của mình trực tiếp đến tay khách hàng mà chi phí lại ít tốn
kém như khi tổ chức một hệ thống tiêu thụ thông qua các đại lý thương mại. Hãng
IBM muốn bán máy tính của họ tại Việt Nam, sẽ là tốn kém và không hợp lý nếu IBM
trực tiếp tổ chức hệ thống tiêu thụ bằng chính nhân lực và chi phí của mình. Thay vì
điều đó, họ sử dụng dịch vụ trung gian thương mại, các đại lý bán hàng sẵn có tại Việt
Nam [22, tr.536] .
Theo Điều 166 Luật Thương mại năm 2005, đại lý thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân
danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của
bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Như vậy, đại lý thương mại được hiểu là thương nhân thực hiện việc thu mua
hoặc tiêu thụ sản phẩm hay cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý để hưởng thù lao.
Xét từ bản chất, đại lý thương mại khác ủy thác mua bán hàng hóa đặc điểm pháp lý
chủ yếu sau:
Thứ nhất, về chủ thể, trong quan hệ đại lý thương mại cả hai bên giao đại lý
và bên đại lý đều phải là thương nhân, trong khi chủ thể của quan hệ ủy thác mua bán
hàng hóa, bên ủy thác không nhất thiết phải là thương nhân.
Thứ hai, về phạm vi hoạt động, đại lý thương mại có phạm vi hoạt động rộng

hơn, bao gồm các hoạt động đại lý mua bán hàng hóa, hoạt động đại lý cung ứng dịch
vụ, trong khi ủy thác mua bán hàng hóa chỉ giới hạn ở hoạt động mua hoặc bán hàng
hóa.
Thứ ba, bên đại lí được tự do hơn bên nhận uỷ thác trong việc lựa chọn bên
thứ ba để giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.
Thứ tư, về thời gian hoạt động và mối quan hệ: quan hệ uỷ thác thường mang
tính vụ việc, đơn lẻ còn quan hệ đại lí thường là quá trình hợp tác lâu dài giữa bên đại
lí và bên giao đại lí. Vì vậy, trong quan hệ đại lí bên đại lí có sự gắn bó phụ thuộc vào
15


bên giao đại lí đồng thời bên giao đại lí có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với hoạt
động của bên đại lí hơn so với quan hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác.
1.2. Bản chất pháp lý của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng ủy thác mua bán hàng
Quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa được xác định trên cơ sở hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng
trong hoạt động thương mại. Vì vậy, nó mang đầy đủ những đặc điểm của hợp đồng
nói chung và hợp đồng trong hoạt động thương mại nói riêng. Đối tượng của hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa là một công việc cụ thể, do vậy, hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa còn phản ánh đầy đủ các đặc điểm của loại hợp đồng dịch vụ.
Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa, song có thể dựa vào khái niệm hoạt đồng ủy thác mua bán hàng
hóa được quy định tại Điều 155 Luật Thương mại năm 2005 cũng như những biểu
hiện đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng dịch vụ được quy định tại Điều 518 Bộ Luật
dân sự năm 2005, có thể định nghĩa hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa như sau:
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
nhận ủy thác thực hiện công việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo
những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác, còn bên ủy thác có nghĩa vụ trả thù
lao cho bên nhận ủy thác.

Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được xác lập trên cơ sở có đề nghị giao kết
và có chấp nhận đề nghị giao kết hay thỏa thuận được tạo ra và xác định bởi nghĩa vụ
về công việc mua, bán hàng hóa có điều kiện giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác.
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa mang bản chất của hợp đồng dịch vụ,
nói cách khác hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là hợp đồng dịch vụ dân sự trong
hoạt động thương mại. Về phương diện chủ thể, bên nhận ủy thác là chủ thể cung ứng
dịch vụ thương mại chuyên nghiệp được thuê thực hiện công việc mua bán hàng hóa,
nhân danh chính mình cho bên ủy thác và được bên ủy thác trả thù lao theo thỏa
thuận. Về đối tượng của hợp đồng này là công việc mua bán hàng hóa - đối tượng của

16


một loại hợp đồng dịch vụ. Về nội dung, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa chứa
đựng các điều khoản của hợp đồng dịch vụ như thỏa thuận về công việc phải làm,
phạm vi, thời hạn, thù lao.
Ngoài bản chất của một loại hợp đồng dịch vụ, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa còn chứa đựng trong đó các dấu hiệu của hợp đồng ủy quyền. Yếu tố ủy
quyền được thể hiện ở nghĩa vụ thực hiện công việc của người được ủy quyền trong
phạm vi được ủy quyền và được nhận thù lao theo thỏa thuận. Tuy nhiên, ủy thác
không đồng nhất với ủy quyền. Về bản chất của hành vi, ủy quyền trong dân sự là
hành vi giao cho người khác sử dụng một số quyền mà pháp luật đã trao cho mình.
Trong khi đó ủy thác trong hoạt động mua bán hàng hóa là hành vi giao cho người
khác làm thay công việc mua bán hàng hóa cho mình. Do đó, về tư cách chủ thể khi
thực hiện hành vi, bên được ủy quyền thực hiện công việc được ủy quyền nhân danh
bên ủy quyền, còn bên nhận ủy thác thực hiện công việc được ủy thác nhân danh
chính mình, về phạm vi, bên được ủy quyền có thể được ủy quyền thực hiện một hoặc
nhiều hành vi thương mại trong khi ủy thác mua bán hàng hóa mang tính vụ việc, thu
hẹp trong lĩnh vực mua bán hàng hóa. Về năng lực pháp lý, bên được ủy quyền có thể
là cá nhân, tổ chức có hoặc không có tư cách thương nhân, tùy thuộc vào hành vi được

ủy quyền, còn bên nhận ủy thác phải là thương nhân, đặc biệt phải có giấy phép kinh
doanh phù hợp với hàng hóa được ủy thác mua bán. Như vậy, ủy thác có dấu hiệu của
ủy quyền dân sự nhưng không phải ủy quyền dân sự trong hoạt động thương mại.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
cũng có những điểm tương đồng và khác biệt, về bản chất, quan hệ hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa là quan hệ ba bên (quan hệ giữa bên ủy thác với bên nhận ủy
thác và quan hệ giữa bên nhận ủy thác với bên thứ ba), còn quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hóa là quan hệ mua bán trực tiếp giữa bên mua và bên bán. Về phương diện chủ
thể, bất kỳ cá nhân, tổ chức có hay không có tư cách thương nhân cũng có thể trở
thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong khi hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa có yêu cầu đặc thù đối với năng lực chủ thể của bên nhận ủy thác (Bên nhận
uỷ thác mua bán hàng hoá là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá
được uỷ thác và thực hiện mua bán hàng hoá theo những điều kiện đã thoả thuận với
17


bên uỷ thác), về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện dưới bất
kỳ hình thức nào, trong khi hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bắt buộc về hình thức
phải bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản. Về đối
tượng, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa, trong khi đối tượng của
hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là công việc mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, việc
cùng hướng đến mua hoặc bán được hàng hóa cũng là một điểm tương đồng giữa hai
loại hợp đồng này. Điều này dẫn đến trong hợp đồng có nhiều điều khoản quy định
tương tự nhau, chẳng hạn: chủng loại hàng hóa, số lượng, chất lượng, quy cách, giá,
địa điểm, phương thức, thời hạn giao hàng.
Thông qua khái niệm và sự phân tích nêu trên, có thể rút ra những đặc điểm
của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, cụ thế là:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Chủ thể của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bao gồm bên ủy thác và bên
nhận ủy thác.

Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, bên ủy thác là thương nhân
hoặc không phải là thương nhân. Tuy nhiên, bên nhận ủy thác phải là thương nhân
kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hóa được ủy thác và thực hiện việc mua bán
hàng hóa theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác.
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động mua bán
hàng hóa. Như đã phân tích ở trên, bản chất của hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa là một loại cụ thể của hợp đồng dịch vụ nên đối tượng của hợp đồng là việc
thực hiện một công việc cụ thể.
Thứ ba, về nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là các điều khoản thỏa
thuận giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác, thể hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của các
bên trong quan hệ ủy thác, theo đó bên nhận ủy thác có nghĩa vụ thực hiện công việc
ủy thác mua bán hàng hóa theo ủy quyền của bên ủy thác và được hưởng thù lao; bên
ủy thác có nghĩa vụ trả tiền thù lao cho bên nhận ủy thác.
18


Trong thực tiễn, tùy thuộc vào công việc được ủy thác, nội dung của hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa được thể hiện khác nhau. Tuy nhiên, thông thường
nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bao gồm các điều khoản chủ yếu
sau: hàng hóa được ủy thác mua, bán; thù lao ủy thác; thời hạn thực hiện hợp đồng ủy
thác mua bán hàng; các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; trách nhiệm vật chất
khi vi phạm hợp đồng; các trường hợp miễn trách nhiệm; thủ tục giải quyết tranh
chấp. Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận về vấn đề mua bảo hiểm cho hàng hóa ủy
thác để dự liệu cho trường hợp bên nhận ủy thác đã thực hiện đúng nghĩa vụ bảo quản
hàng hóa ủy thác song hàng hóa vẫn gặp rủi ro ngoài tầm kiểm soát...
Pháp luật các nước có những cách khác nhau trong quy định về nội dung hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Các nước theo truyền thống luật Anh - Mỹ thường
không có quy định riêng điều chỉnh các dịch vụ trung gian trong hoạt động thương

mại. Tất cả các giao dịch qua trung gian, bất kể nhằm mục đích gì cũng được quy định
chung trong Luật đại diện (Luật của Anh là The commercial Agents Regulatiens Luật
của Hoa Kỳ là Law of Agency), về nội dung hợp đồng, về cơ bản chỉ bắt buộc thỏa
thuận về điều khoản đối tượng của hợp đồng, những nội dung khác, nếu các bên
không có thỏa thuận cụ thể, có thể được dẫn tập quán thương mại để xác định [36].
Các nước khác theo truyền thống Châu Âu lục địa, bên cạnh Bộ Luật dân sự,
còn có Luật Thương mại, quy định cụ thể về từng hoạt động trung gian thương mại,
trong đó có vấn đề về nội dung hợp đồng. Điển hình là pháp luật của Cộng hòa Pháp,
nội dung hợp đồng phải thỏa thuận rõ về đối tượng, chất lượng, giá cả [12].
Thứ tư, về hình thức của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa về nguyên tắc,
hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận kết quả mà các bên thoả thuận với
nhau. Phương tiện này có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, Điều 159 Luật Thương mại năm 2005 quy định: Hợp đồng uỷ
thác mua bán hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương (các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản
bao gồm: điện báo, TELEX. FAX, Thông điệp dữ liệu)
Như vậy, một trong những điều kiện để hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có
19


hiệu lực pháp luật là phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức của hợp
đồng. Quy định này có phần cứng nhắc, không phù hợp tính năng động, linh hoạt của
sự tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cũng như các hợp đồng khác có vai trò
quan trọng trong giao dịch thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa nói
riêng trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Thứ nhất, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là phương tiện pháp lý tạo
điều kiện cho cá nhân, tổ chức, nhà kinh doanh thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh
doanh của mình.

Để tồn tại và phát triển, mọi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia vào các
mối quan hệ kinh tế khác nhau. Tuy nhiên các quan hệ đó chỉ được hình thành từ
những hành vi có ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Sự thỏa thuận bằng ý chí tự
nguyện của các bên là cơ sở hình thành hợp đồng. Một doanh nghiệp muốn bán hoặc
mua sản phẩm cho mình nhưng không có đủ điều kiện trực tiếp bán hoặc mua từ đối
tác, họ sẽ ký một hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa với bên kinh doanh dịch vụ ủy
thác để bên nhận ủy thác ký hợp đồng bán hoặc mua hàng từ bên thứ ba thay họ. Như
vậy nhu cầu tiêu thụ hoặc thu mua sản phẩm của doanh nghiệp đã được đáp ứng.
Thông qua hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa mà hoạt động sản xuất kinh doanh
được diễn ra thuận lợi, các chủ thể kinh doanh có thêm lợi nhuận, phát triển sản xuất
kinh doanh.
Thứ hai, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là căn cứ pháp lý ghi nhận
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được giao kết hợp pháp, có hiệu lực
pháp luật sẽ ràng buộc các bên thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình. Nói cách khác, bên ủy thác và bên nhận ủy thác có cơ sở pháp lý để thực hiện
trách nhiệm của mình như thỏa thuận và yên tâm là bên kia cũng phải thực hiện nghĩa
vụ đối với mình. Bởi vì hợp đồng ủy thác là sự thể hiện ý chí thống nhất của các bên,
bao gồm những điều khoản mà các bên đã cam kết. Do đó, các bên phải thực hiện
20


×