Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG của TRẺ mắc HEN PHẾ QUẢN lứa TUỔI học ĐƯỜNG tại TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.41 KB, 7 trang )

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA TRẺ MẮC HEN PHẾ QUẢN LỨA TUỔI
HỌC ĐƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Thạc sỹ: Đoàn Thị Huệ
Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá mức độ chất lượng cuộc sống của trẻ mắc hen phế quản (HPQ) lứa tuổi
học đường và so sánh chất lượng cuộc sống của trẻ mắc HPQ với sự khác nhau về giới, tuổi, thứ
tự sinh, mức độ bệnh, trình độ văn hóa của mẹ, tình trạng hôn nhân của mẹ, gia đình có người hút
thuốc và không hút thuốc, thu nhập gia đình. Phương pháp: nghiên cứu đã được thực hiện tại
khoa khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên. Nghiên cứu mô tả, sử dụng bộ
câu hỏi phỏng vấn trực tiếp, được tiến hành với 92 cặp trẻ và mẹ trẻ tại khoa khám bệnh của
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Bộ câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu Chất
lượng cuộc sống của trẻ (PedsQLTM 4.0). Kết quả: nghiên cứu chỉ ra rằng tổng điểm trung bình
của chất lượng cuộc sống trẻ bị HPQ ở tỉnh Thái Nguyên có chất lượng cuộc sống trung bình (M
= 64.93; S.D. = 16.94). Có sự khác biệt chất lượng cuộc sống của trẻ mắc HPQ với mức độ bệnh
(F2,89 = 18.40; p< .001), có sự khác biệt về chất lượng cuộc sống của trẻ với trình độ văn hóa của
mẹ (F3,88 = 18.40; p< .05). Có sự khác biệt về chất lượng cuộc sống của trẻ với tình trạng hôn
nhân của mẹ (t= 2.95; p<0,5), và có sự khác biệt giữa chất lượng cuộc sống của trẻ và gia đình có
người hút thuốc (t= 2.06, p<0,5). Tuy nhiên không có sự khác biệt về chất lượng cuộc sống của
trẻ bị HPQ với giới, tuổi, thứ tự sinh, và thu nhập gia đình. Kết luận: từ kết quả nghiên cứu thu
được, kiến nghị Điều dưỡng cần cung cấp các chiến lược thích hợp để cải thiện chất lượng cuộc
sống cho trẻ bị HPQ.
Từ khóa: chất lượng cuộc sống, lứa tuổi học đường, hen phế quản.
1. Đặt vấn đề
em ở độ tuổi < 15 tuổi [16]. Theo nghiên cứu
Hen phế quản (HPQ) là một trong những
chiều dọc của Huang ở Đài Loan tỷ lệ trẻ em
bệnh viêm nhiễm đường hô hấp mạn tính khá
lứa tuổi học đường mắc hen phế quản tăng 8
phổ biến và ngày càng gia tăng trên thế giới.
lần trong vòng 20 năm. Ở Việt Nam tình hình


Hen phế quản được xếp vào một trong những
hen phế quản trong cộng đồng cũng đáng rất
cấp cứu thường gặp đã gây tai họa cho con
đáng lo ngại, có khoảng 4 triệu người mắc hen
người trong nhiều thập kỉ qua. Hen phế quản
phế quản, nghĩa là chiếm 5% tổng dân số ,
được nhắc đến từ 5000 năm trước ở thời kì Hy
trong đó tỷ lệ trẻ dưới 15 tuổi mắc hen phế
Lạp và La Mã. Những hiểu biết hiện nay của
quản chiếm 11% trong tổng số người mắc hen
con người đã vượt xa so với mô tả ban đầu ở
ở Việt Nam [7], [16], [18]. Đặc biệt là tăng ở
thời kì đó. Sự tiến bộ khoa học kĩ thuật trong
trẻ em 29,1 % trẻ em Việt Nam mắc khò khè,
y học đã giúp chúng ta hiểu biết xâu sắc hơn
trên thế giới tỷ lệ khò khè giao động từ 1%
về bệnh nguyên, các yếu tố làm khởi phát cơn
đến 30% tùy theo từng khu vực [25]. Các
hen. Nhiều phương pháp và các thuốc hiện đại
phòng cấp cứu và các bệnh viện ngày càng có
đang được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị
nhiều bệnh nhân hen phế quản vào điều trị
hen phế quản. Tuy nhiên, dường như tỷ lệ mắc
[13], [14]. Hen phế quản thực sự trở thành
hen phế quản trong cộng đồng không giảm đi
gánh nặng cho người bệnh, cho gia đình và
mà lại có xu hướng tăng lên. Trên thế giới có
cho xã hội. Điều quan trọng hơn hen là một
khoảng 300 triệu người mắc hen phế quản
bệnh mạn tính kéo dài gây ảnh hưởng đến

[27], chiếm 6-8% là người lớn, hơn 10% là trẻ
chất lượng cuộc sống (CLCS) của chính bản

1


thân người bệnh, và cho cả gia đình họ [2],
[23]. Theo học thuyết của Zhan về chất lượng
cuộc sống (CLCS): CLCS là sự nhận thức chủ
quan phụ thuộc vào nhiều khía cạnh. Hơn nữa,
CLCS có thể thay đổi theo thời gian, địa điểm,
và sự nhận thức của con người mà mỗi người
có sự khác nhau về kinh nghiệm, sự quan tâm,
giáo dục, và văn hóa [2], [23]. Tuy nhiên ở
Việt Nam nói chung và Thái Nguyên hiện nay
các nghiên cứu về CLCS ở trẻ mắc các bệnh
mạn tính, đặc biệt là hen còn hạn chế. Thiếu
hiểu biết về các yếu tố làm giảm CLCS của trẻ
sẽ cản trở các Điều dưỡng lên kế hoạch hợp
tác với trẻ và bố mẹ trẻ khi họ cố gắng đáp
ứng nhu cầu chăm sóc để cải thiện CLCS của
trẻ em bị hen phế quản trong tương lai. Vì
vậy, nghiên cứu tập trung vào CLCS của trẻ
em lứa tuổi học đường mắc hen phế quản. Kết
quả nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin cơ bản
về CLCS ở trẻ em mắc hen ở tỉnh Thái
Nguyên. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài
này nhằm mục tiêu:
- Đánh giá mức độ CLCS của trẻ em Thái
Nguyên mắc hen phế quản.

- Tìm hiểu sự khác nhau giữa CLCS của
trẻ em Thái Nguyên mắc hen phế quản và đặc
điểm nhân khẩu học bao gồm, giới, tuổi, thứ
tự sinh, mức độ bệnh, gia đình có người hút
thuốc lá, trình độ học vấn của mẹ, tình trạng
hôn nhân của mẹ, thu nhập của gia đình.
2. Đối tượng và phương pháp
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ mắc hen phế quản đến khám tại khoa
khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa Trung Ương
Thái Nguyên.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Dữ liệu được thu thập từ tháng 11 năm
2010 đến tháng 3 năm 2011, tại phòng khám
Nhi Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái
Nguyên.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: mô tả, điều tra cắt
ngang
- Phương pháp chọn mẫu

+ Cỡ mẫu: Dựa theo cách tính cỡ mẫu cho
Nghiên cứu mô tả [2]. Cỡ mẫu trong nghiên
cứu là 92 trẻ.
+ Kĩ thuật chọn mẫu: Chọn tất cả trẻ mắc
hen phế quản đến khám tại khoa khám bệnh,
Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên
đạt những tiêu chuẩn chọn mẫu của người
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu:

Trẻ đã được chẩn đoán hen phế quản ít
nhất 6 tháng,
Tuổi từ 8 – 12 tuổi,
Có khả năng giao tiếp, đọc, viết được
tiếng việt,
Không mắc các bệnh về tâm thần kinh,
các bệnh nguy hiểm hoặc cấp tính,
Đồng ý tham gia nghiên cứu,
Mẹ trẻ cho phép trẻ tham gia nghiên cứu,
Hiện tại đang sống tại tỉnh Thái Nguyên.
+ Bộ câu hỏi: Trong nghiên cứu này sẽ sử
dụng bộ câu hỏi sẵn có và thiết kế bao gồm:
thông tin cá nhân, thông tin bà mẹ, thông tin
gia đình và đánh giá về chất lượng cuộc sống
của trẻ.
Câu hỏi về thông tin cá nhân: Câu hỏi về
thông tin cá nhân sẽ được thiết kế bởi nhà
nghiên cứu, bao gồm: tuổi của trẻ, giới, là con
thứ mấy, mức độ bệnh, trình độ học vấn của
mẹ, tình trạng hôn nhân, gia đình có người hút
thuốc lá, thu nhập gia đình.
Câu hỏi về chất lượng cuộc sống: Bộ câu
hỏi về chất lượng cuộc sống của trẻ sẽ sử
dụng bộ câu hỏi của Varni được dịch ra tiếng
việt theo qui trình. Cronbach’s α = .87
2.4. Chỉ tiêu nghiên cứu
+ Mức độ về CLCS của trẻ em Thái
Nguyên mắc hen phế quản
+ Sự khác nhau giữa CLCS của trẻ em
Thái Nguyên mắc hen phế quản và đặc điểm

nhân khẩu học bao gồm, giới, tuổi, thứ tự
sinh, mức độ bệnh, gia đình có người hút
thuốc lá, trình độ học vấn của mẹ, tình trạng
hôn nhân của mẹ, thu nhập của gia đình.
2.5. Phương pháp thu thập số liệu: phỏng vấn
trực tiếp trẻ, bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn.

2


2.6. Phương pháp xử lý số liệu: theo phương
chung với cả bố và mẹ (82,6%). Mẹ học hết
pháp thống kê y học, bằng sử dụng phần mềm
cấp III chiếm 40,2%, THCN/CĐ/ĐH cũng
SPSS 17.
chiếm 40,2%. Về nghề nghiệp, 38% các mẹ
3. Kết quả nghiên cứu
làm nghề tự do, 30,5% các mẹ là nhân viên
Đối tượng bao gồm 92 trẻ mắc hen phế
văn phòng. Thu nhập bình quân trong gia
quản hoàn thành bộ câu hỏi, tỷ lệ trẻ nam
đình/tháng (M = 1,980,000 VND). Tỷ lệ trẻ
(55,4%) mắc hen cao hơn trẻ gái (44,6%).
mắc hen sống cùng gia đình có người hút
Hơn một nửa trẻ là con thứ nhất (62.0%).
thuốc và số trẻ mắc hen sống cùng gia đình
48.9% trẻ mắc hen ở mức độ trung bình,
không có người hút thuốc là bằng nhau (50,0
45.7% ở mức độ nhẹ, và 5.4% trẻ mắc hen ở
%).

mức độ nặng theo mẹ đánh giá.
Từ kết quả điều tra độ tuổi của mẹ từ 28
đến 54 tuổi. Hầu hết các trẻ mắc hen sống
Bảng 1 Trung bình (M), độ lệch chuẩn (S.D.), khoảng (range), và sự giải thích về CLCS
của trẻ mắc hen (n=92)
Chất lượng cuộc sống
M
S.D.
Khoảng
Mức độ
Tổng điểm
64.93
16.94
20.38 - 100
Trung bình
Vai trò về thể chất
60.73
20.13
13 – 100
Trung bình
Vai trò về tâm lý xã hội
69.14
15.13
28.33 - 100
Trung bình
- Vai trò về tình cảm
68.80
17.89
20 – 100
Trung bình

- Vai trò về xã hội
73.47
16.96
35 – 100
Trung bình
- Vai trò về trường học
65.16
14.63
25 - 100
Trung bình
Nhận xét: kết quả bảng cho thấy hầu hết
trung bình, nhưng tổng điểm của vai trò về
các trẻ đánh giá chất lượng cuộc sống ở mức
thể chất (M= 60.73) thấp hơn tổng điểm của
độ trung bình (M = 64.93), tuy vai trò về thể
vai trò về tâm lý xã hội (M=69,14).
chất và vai trò về tâm lý xã hội cũng ở mức
Bảng 2 Mức độ chất lượng cuộc sống của trẻ mắc hen
Mức độ chất lượng
n
%
Thấp
15
16.3
Trung bình
55
59.8
Cao
22
23.9

Nhận xét: kết quả bảng cho thấy hầu hết
phế quản có chất lượng cuộc sống ở mức độ
trẻ mắc hen có chất lượng cuộc sống ở mức
cao, chỉ có 16.3% các mẹ đánh giá trẻ mắc
độ trung bình (59.8%), có 23.9% trẻ mắc hen
hen có chất lượng cuộc sống thấp.
Bảng 3 So sánh giữa chất lượng cuộc sống của trẻ mắc hen với các biến
Biến
M
S.D.
Mức độ bệnh
- Nhẹa
- Trung bìnhb
- Nặngc
Trình độ học vấn của mẹ
- Cấp Ia
- Cấp IIb
- Cấp IIIb
- THCN/CĐ/ĐHb

72.69
61.00
35.20

13.62
15.27
12.30

F2, 89 = 18.40***


31.23
62.97
68.64
64.76

2.83
15.80
16.65
15.50

F3,88 = 5.27*

3


Tình trạng hôn nhân
- Lấy chồnga
67.00
16.43
t = 2.95**
b
- Ly dị, ly thân
55.11
16.33
Người hút thuốc trong gia đình
- Có
64.91
14.71
t= 2.09*
- Không

71.78
17.08
*(p<.05), **(p<.01). ***(p<.001)
a, b, c
Số trên với sự khác nhau về biến = sự khác biệt có ý nghĩa; Số trên với sự giống nhau =
không có sự khác biệt.
Nhận xét: kết quả bảng cho thấy có sự
trong số bố mẹ có con bị hen sợ con mình sẽ
khác biệt giữa CLCS của trẻ mắc hen và mức
xuất hiện cơn khó thở nếu con họ tập thể dục.
độ bệnh (F2,89= 18.40, p <. 001) , trình độ văn
Từ kết quả trên ta thấy có sự khác biệt
hóa của mẹ (F3,88= 5.27, p <. 05), tình trạng
giữa CLCS trẻ mắc hen và mức độ bệnh, trẻ
hôn nhân của mẹ (t = 2,95, p < .01), và gia
mắc hen ở mức độ nhẹ có CLCS ở mức cao
đình có người hút thuốc lá (t = 2,09, p < .05).
nhất (M = 72.69, S.D. = 13.15), và trẻ mắc
Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa CLCS
hen ở mức độ nặng có CLCS thấp nhất (M=
của trẻ mắc hen và tuổi, giới, thứ tự sinh, thu
35.20, S.D. = 12.30). Những trẻ mắc hen
nhập gia đình (p> .05).
càng nặng thì càng giảm các hoạt động vui
4. Bàn luận
chơi cùng bạn bè, hạn chế việc tập thể dục ở
Từ kết quả trên cho thấy hầu hết các trẻ
trường học. Hơn nữa, làm ảnh hưởng đến
mắc hen có CLCS ở mức độ trung bình và
tâm sinh lý của trẻ như buồn, ít giao tiếp với

cao (59,8% và 23.9%). Tổng điểm CLCS của
bạn. Mặt khác, trẻ mắc hen nặng làm tăng tỷ
trẻ cũng ở mức độ trung bình (M= 64.93;
lệ nghỉ học, và tăng số trẻ vào viện vì khởi
S.D. = 16.94). Điều đó có thể giải thích rằng
phát cơn khó thở. Điều đó đã được chứng
trẻ mắc hen ở Thái Nguyên có CLCS ở mức
minh qua các nghiên cứu trước [10], [11],
độ trung bình. Kết quả nghiên cứu của chúng
[20].
tôi giống kết quả nghiên cứu của Petsios
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
đánh giá mức độ CLCS của trẻ mắc hen giữa
có sự khác biệt giữa CLCS của trẻ mắc hen
trẻ tự báo cáo và bố mẹ báo cáo thay, kết quả
và trình độ học vấn của mẹ, những trẻ mắc
chỉ ra rằng hầu hết các trẻ mắc hen đều có
hen có CLCS ở những bà mẹ có trình độ học
CLCS ở mức độ trung bình [1], [11]. Tổng
vấn cấp I, nhưng lại không có sự khác biệt
điểm của vai trò về thể chất lại thấp hơn vai
giữa CLCS của trẻ với những mẹ có trình độ
trò về xã hội, điều đó có thể giải thích rằng
học vấn cấp II, cấp III, THCN/CĐ/ĐH (p> .
trẻ mắc hen bị hạn chế vận động như chạy
05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương
nhảy, chơi thể thao, . . . [20], [16]. Cơn khó
tự như kết quả nghiên cứu của các tác giả
thở kịch phát có thể xảy ra khi đứa trẻ đang
trước [9], [22]. Theo Roy báo cáo rằng,

chơi hoặc đang tập thể dục. Thêm vào đó, bố
những bà mẹ có trình độ học vấn cao cảm
mẹ trẻ hay giáo viên hạn chế các hoạt động
thấy ít lo sợ vì họ có khả năng phòng cơn hen
mạnh đối với trẻ mắc hen. Nghiên cứu của
kịch phát cho con mình, và những bà mẹ có
chúng tôi giống kết quả nghiên cứu của tác
trình độ học vấn thấp thường hay lo lắng,
giả Lang khi so sánh vai trò về thể chất giữa
hoài nghi về chăm sóc y tế cũng như không
trẻ mắc hen và trẻ không mắc hen cùng lứa
tuân thủ thuốc điều trị dự phòng hen cho con
tuổi. Tác giả báo cáo rằng những trẻ mắc hen
mình.
bị hạn chế các hoạt động khi so sánh với trẻ
Kết quả chỉ ra rằng có sự khác biệt về
không mắc hen, bố mẹ trẻ cho rằng tập thể
CLCS của trẻ mắc hen và tình trang hôn
dục gây nguy hiểm cho trẻ bị hen, và 1/4
nhân của mẹ, những trẻ mắc hen có CLCS

4


cao hơn khi trẻ được sống cùng cả bố và mẹ,
và ngược lại. Điều này tương tự như nghiên
cứu của Sawyer báo cáo rằng trẻ mắc hen chỉ
sống cùng bố hoặc mẹ bị ảnh hưởng về tinh
thần, thể chất, hạn chế các hoạt động xã hội
hơn là những trẻ mắc hen đang sống chung

với cả 2 bố mẹ [6].
Kết quả nghiên cứu chỉ ra CLCS ở trẻ
mắc hen không sống cùng với người hút
thuốc lá cao hơn CLCS của trẻ mắc hen đang
sống cùng người hút thuốc lá trong gia đình
(p <.05). Những trẻ mắc hen hàng ngày phải
tiếp xúc với người hút thuốc lá dễ làm khởi
phát cơn khó thở do tiếp xúc dị nguyên, tần
suất tái phát nhiều lần làm cho trẻ mắc hen
tiến triển nhanh sang mức độ nặng của bệnh,
như vậy sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
CLCS của trẻ.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng
tôi không có sự khác biệt giữa CLCS của trẻ
mắc hen và tuổi, giới, thứ tự sinh trong gia
đình, hay thu nhập gia đình. Dù là trẻ trai hay
gái khi mắc hen đều bị ảnh hưởng đến CLCS
như nhau, kết quả này tương tự như kết quả
của Boran hoặc Warscburger. Chúng tôi
nghiên cứu trẻ mắc hen ở độ tuổi từ 8- 12
tuổi, có lẽ do khoảng cách tuổi gần, nên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần lứa
tuổi này tương đối giống nhau, nên không có
sự khác biệt. Tuy nhiên, tác giả Moonie lại có
sự khác biệt giữa CLCS và độ tuổi, tác giả
nghiên cứu nhóm tuổi mắc hen từ 6- 19 tuổi,
CLCS cao ở trẻ lớn tuổi, do trẻ có khả năng
dự phòng được cơn hen kịch phát. Trong kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các trẻ
mắc hen là con thứ nhất nên không có sự

khác biệt về thứ tự sinh và CLCS. Khi so
sánh về mức thu nhập bình quân đầu người
trong gia đình/tháng và CLCS, hầu hết các
gia đình có mức thu nhập trung bình trong xã
hội, đặc biệt là tỉnh miền núi như Thái
Nguyên, mức thu nhập của họ không chênh
lệch nhau nhiều nên cũng không có sự khác
biệt trong nghiên cứu của chúng tôi.

5. Kết luận
Qua nghiên cứu 92 trẻ em lứa tuổi học
đường mắc hen phế quản tại khoa khám bệnh
Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái
Nguyên chúng tôi rút ra 1 số kết luận sau:
1. Hầu hết các trẻ đánh giá CLCS ở mức
độ trung bình (M = 64.93).
2. Trẻ mắc hen có CLCS ở mức độ trung
bình (59.8%), có 23.9% trẻ mắc hen phế
quản có CLCS ở mức độ cao, chỉ có 16.3%
các mẹ đánh giá trẻ mắc hen có CLCS thấp.
3. Có sự khác biệt giữa CLCS của trẻ
mắc hen và mức độ bệnh (F 2,89= 18.40, p <.
001) , trình độ văn hóa của mẹ (F3,88= 5.27, p
<. 05), tình trạng hôn nhân của mẹ (t = 2,95,
p < .01), và gia đình có người hút thuốc lá (t
= 2,09, p < .05).
4. Không có sự khác biệt giữa CLCS của
trẻ mắc hen và tuổi, giới, thứ tự sinh, thu
nhập gia đình (p> .05).
6. Khuyến nghị

Tầm quan trọng trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ ra rằng trẻ mắc hen bị ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống ở những trẻ
mắc hen ở mức độ nặng, mẹ có trình độ học
vấn thấp, mẹ sống 1 mình nuôi con, và trẻ
đang sống cùng người hút thuốc lá. Người
Điều dưỡng cần được cung cấp kiến thức và
kĩ năng cần thiết, phù hợp. Bà mẹ cần được
tư vấn, cung cấp kiến thức phù hợp để quản
lý hiệu quả bệnh hen cho trẻ nhằm cải thiện
chất lượng cuộc sống cho trẻ mắc hen.
Tài liệu tham khảo
1. Annett, R. D., Bender, B. G., Skipper,
B., & Allen, C. (2010). Predicting moderate
improvement and decline in pediatric asthma
quality of life over 24 months. Quality of
Life Research, 19(10), 1517- 27.
2. Bartlett, J. E., Kotril, J. W., & Higgins,
C. C. (2001). Organizational research:
Determining appropriate sample size in
survey research. Information Technology,
Learning, and Performance Journal, 19(1),
43-50.
3. Basaran, S., FuGuler-Uysal, F., Ergen,
N., Seydaoglu, G., Bingol-Karakoc, G., &

5


Altintas, D.U. (2006). Effects of physical

exercise on quality of life, exercise capacity
and pulmonary function in children with
asthma.
Journal
of
Rehabilitation
Medicine,38(2), 130-135.
4. Boran, P., Tokuc, G., Pisgin, B., &
Oktem, S. (2008). Assessment of quality of
life in asthmatic Turkish children. The
Turkish journal of Pediatrics, 50(1), 18-22.
5. Cha, E.S., Kim, K. H., & Erlen, J. A.
(2007). Translation of scales in cross-cultural
research: issues and techniques. January of
Advanced Nursing, 58(4), 386-395.
6. Chen, E., & Yeung, W. J. (2009).
Measuring respiratory health in longitudinal
social science surveys. Biodemography and
Social Biology, 55(2), 206-218.
7. Huang, J. L. (1999). Asthma health
education in Taiwan: past, present and future.
Chung - Gung Medicine Report, 20, 18-19.
8. Khổng Thị Ngọc Mai. (2011). Nhận
xét ảnh hưởng điều trị dự phòng hen phế
quản ở trẻ tiểu học và trung học cơ sở bằng
thuốc ICS và LABA tại tỉnh Thái Nguyên.
Luận văn tiến sĩ, tr5-12.
9. Kub, J., Jennings, J. M., Donithan, M.,
Walker, J. M., Land, C. L., & Butz, A.
(2009). Life Events, Chronic Stressors, and

Depressive Symptoms in Low-Income Urban
Mothers with Asthmatic children. Public
Health Nursing, 26(4), 297-306.
10. Lang, D. M., Arlene M., Butz, A. M.,
Duggan, A. K., & Serwint, J. R. (2004).
Physical Activity in Urban School-Aged
Children With Asthma. Pediatrics, 113(4),
e341-e346.
11. Levy, J. I., Welker-Hood, L. K.,
Clougherty, J. E., Dodson, R. E.,
Steinbach,S., & Hynes, H. P. (2004). Lung
function, asthma symptoms, and quality of
life for children in public housing in Boston:
a case-series analysis. Environmental Health:
A Global Access Science Source, 3(1), 13.
12. Lima, L., Guerra, M. P., & de Lemos,
M. S., (2010). The Psychological Adjustment
of Children with Asthma: Study of

Associated Variables. The Spanish Journal of
Psychology, 13(1), 353-363.
13. Lipstein, E. A., Perrin J. M., &
Kuhlthau, K. A. (2008). School Absenteeism,
Health Status, and Health Care Utilization
Among Children With Asthma: Associations
With Parental Chronic Disease. Pediatric,
123(1), e60-e66.
14. Moonie, S., Huang, X., & Sterling,
D. A. (2009). Quality of life Estimation with
Structural Equation Modeling in School

Aged Children with Asthma. Global Health
Governance, 3(1), 1-16.
15. National Center for Environmental
Health. (2007). Lifetime and Current Asthma
Population Estimates and Prevalence Tables.
National Health Interview Survey Data Web
site. Available at
/>16. National Heart, Lung, and Blood
Institute [NHLBI]. (2007). Global Initiative
for asthma, Bethesda, M.D: National
Institutes of Health on www.ginaasthma.com.
17. Lê Thị Nga, Nguyễn Xuân Hương.
(2007). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và
điều trị trẻ hen phế quản tại Khoa Nhi Bệnh
viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên. Y
học Việt Nam số 4 tháng 7- số tr 87- 92.
18. Petsios, K., Priftis, K. N.,Tsoumakas,
C., Elpis Hatziagorou, E., Tsanakas, J. N.,
Galanis, P., Antonogeorgos, G., & Matziou,
V. (2011). Level of Parent-Asthmatic
children agreement on health-related quality
of life. Journal of Asthma, 48(3), 286-297.
19. Trần Quy. (2008). Tình hình dịch tễ
hen phế quản và nhận xét về chương trình
phòng chống hen phế quản toàn cầu. Y học
Việt Nam số 2 tháng 7- số tr 9- 48.
20. Rhee, H., Wenzel, J., & Steeves, R.
H. (2007). Adolescents’ Psychosocial
Experiences Living with Asthma: A Focus
Group study. Journal of Pediatric Health

Care, 21(2), 99–107.
21. Sawyer, M. G., Spurrier, N., Whaites,
L., Kennedy, D., Martin, A. J., & Baghurst, P.
(2001). The relationship between asthma

6


severity, family functioning and the healthrelated quality of life of children with
asthma. Quality of Life Research, 9(10),
1105- 1115.
22. Simon, A. L., Chan, K. S., & Forrest,
C. B. (2007). Assessment of Children’s
Health-Related Quality of life in the United
States With a Multidimensional Index.
Pediatric,121(1), e118- 26.
23. Varni, J. W., Burwinkle, T. M., Rapof,
M. A., Kamps, J.L., & Olson, N. (2004). The
PedsQLTM in pediatric asthma: Reliability
and validity of the Paediatric Quality of Life
Inventory Generic Core Scales and Asthma
Module. Journal of Behavior Medicine,
27(3), 297-318.
24. Varni, J. W., Seid, M., & Rode, C. A.
(1999). The PedsQLTM, measurement model
for the pediatric quality of life inventory.
Medicine Care, 37, 126-39.

25. Vũ Thị Thủy. (2007). Một số yếu tố
liên quan đến bệnh hen phế quản trẻ em và

bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng
tại bệnh viện trẻ em Hải Phòng trong 2 năm
(2005- 2007). Y học Việt Nam số 2 tháng 7số tr 33- 40.
26. Warscburger, P., Busch, S., Bauer, C.
P., Kiosz, D., Stachow, R., & Petermann, F.
(2004). Health-related quality of life in
children and adolescents with asthma: results
from the ESTAR Study. Journal Asthma, 41,
463-470.
27. World Health Organization [WHO]
(2007). Global surveillance, prevention and
control of chronic respiratory diseases: a
comprehensive
approach.
From
/>_Manual/en/index.html.
28. Zhan, L. (1992). Quality of life
conceptual and measurement issues. Journal
of Advanced Nursing ,7, 795-800.

Summary
Objective: The purpose of this descriptive study was to examine quality of life among
Vietnamese school-age children with asthma. It was also to compare quality of life of the children
with asthma with differences of their demographic characteristics, including gender, age, birth
order, severity of illness, mother’s education, marital status of mothers, family’s smoke and none
smoke, and family income. Methods: A descriptive study design, using self-report questionnaires,
was conducted with 92 dyads children and their mother at the Outpatient Department (OPD) of
the Thai Nguyen General Hospital, Vietnam. The questionnaire used in these studies was
Pediatric Quality of Life inventory (PedsQLTM version 4.0). Results: Results revealed that mean
score of total quality of life of the sample was moderate (M = 64.93, S.D. = 16.94). Mean scores

of subscales of physical and psychosocial functioning were also moderate to moderate – high
(60.73 to 73.47). There was a significant different between children’s quality of life and severity
of illness (F2,89 = 18.40, p < .001), mother’s education levels (F3,88 = 5.27, p < .05), and marital
status of mothers (t = 2.95, p < .05), and there was a significant different between children’s
quality of life and family’s smoke or family’s non smoke (t= 2.06, p<0,5). However, there was no
significant difference between the quality of life and child gender, age, birth order, and family
income (p > .05). Conclusion: These findings suggest that nurses should provide more and
proper strategies or intervention to improve quality of life of Vietnamese school-age children
with asthma and their mothers. In addition, the asthmatic children with different severity of
illness, mother’s education level, and mother’s marital status may need different strategies.
Key words: Quality of life, school-age children, asthma

7



×