Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Lich su dang bài thu hoạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.72 KB, 20 trang )

BÀI LÀM
Bản thu hoạch gồm có 3 phần:
I. CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (GỌI TẮT LÀ CƯƠNG LĨNH 1991)
II. PHÂN TÍCH CHỨNH MINH CƯƠNG LĨNH NĂM 1991 ĐÃ ĐƯỢC CỤ
THỂ HOÁ, PHÁT TRIỂN LÀM RÕ THÊM QUA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN
QUỐC LẦN THỨ VIII VÀ LẦN THỨ IX VÀ CÁC HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG KHOÁ VIII VÀ KHOÁ IX
III. NHẬN THỨC THỨC TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN

1


I. CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI

Đảng cộng sản Việt Nam tiền thân là Đảng cộng sản Đông Dương được
thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930 và tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2
năm 1951 được đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội cuối
cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu
hệ thống thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị
đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nhằm
từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng.


Từ ngày Đảng ta ra đời đến nay; xuất phát từ đặc điểm, tình hình thực
tế về chính trị, kinh tế xã hội và mục tiêu đấu tranh của Đảng, đã 2 lần đề ra
cương lĩnh chính trị là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản chỉ rõ mục tiêu,
đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất
định của một chính Đảng hoặc một tổ chức chính trị. Theo V.I.Lênin thì
"cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả
những điều mà Đảng muốn đạt được vì mục đích gì mà Đảng đấu tranh".
Theo quan niệm của Đảng ta thì "cương lĩnh chính trị là văn bản trình
bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp
cách mạng trong một giai đoạn

2


Vì vậy cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của
toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý
tưởng mà Đảng đã chỉ ra.
Ngay từ khi mới thành lập (năm 1930) Đảng ta đã thông qua bản luận
cương chính trị đầu tiên của Đảng, đã xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản
nhất của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ sự xác định và phân tích đúng đắn hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội
Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp xâm
lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, trước hết là nông dân với địa chủ
phong kiến mà đề ra cương lĩnh, xác định phương hướng, nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" mà nhiệm vụ của giai đoạn đầu là "đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến cùng bộ phận phản động tay sai
thiết lập chính quyền công nông đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân".
Thực hiện cương lĩnh đó, trải qua 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã tiến hành cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, lập

nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam) và tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã lần lượt đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến,
thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục xây dựng phát triển kinh tế theo mô hình
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc.
Với thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975 cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ ở nước ta cơ bản đã hoàn thành. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Để phù hợp với tình hình, điều kiện mới Đảng ta cần có cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Vì vậy đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII (họp tháng 6
năm 1991) trên cơ sở tổng kết quá trình hơn 60 năm thực hiện cương lĩnh năm
1930, phân tích sâu sắc đặc điểm, hoàn cảnh quốc tế và trong nước, Đảng ta
3


đã đề ra cương lĩnh mới: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là cương lĩnh năm 1991) với những nội dung cơ
bản sau đây:
1. Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta (1930 - 1991) cả
trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (bao
gồm 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do tác đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI - 1986, đề ra từ những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII - 1991 của Đảng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm
lớn, đó là:
Bài học thứ nhất: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã
hội .Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, có giá trị trong
cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc là điều kiện kiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội

và ngược lại chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân
tộc. Hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc có
quan hệ khăng khít, hữu cơ với nhau.
Vận dụng thực hiện tốt bài học này sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn
để giành thắng lợi.
Bài học thứ hai: Sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Để phát huy nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và
toàn bộ hệ thống của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân
chính của nhân dân, đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân, Đảng không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân những biểu
hiện về quan niệm, mệnh lệnh xa rời dân sẽ làm cho sự nghiệp cách mạng bị
tổn thất. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy chính quần chúng nhân
4


dân đã làm nên những thắng lợi lịch sử vĩ đại trong những hoàn cảnh, điều
kiện hết sức khó khăn, nguy hiểm tưởng chừng không thể vượt qua nổi.
Trong thời kỳ đổi mới bài học này lại càng cần thiết hơn bao giờ hết và
phải được tiếp tục vận dụng sáng tạo, nhạy bén.
Bài học thứ ba: Không ngừng củng cố, tăng cường đại đoàn kết, đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đây là bài học truyền thống quý báu mang tính lịch sử kế thừa của dân
tộc ta qua nhiều thời đại được Đảng ta và Bác Hồ vận dụng thành công trong
mọi hoàn cảnh, điều kiện tạo nên sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bài học thứ tư: kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh bên trong bao
giờ cũng là yếu tố quyết định, nó sẽ được nhân dân lên nếu kết hợp tận dụng

được sức mạnh từ bên ngoài. Vì sức mạnh trong nước, sức mạnh dân tộc là
sức mạnh tổng hợp được hun đúc từ truyền thống của cả một dân tộc kết hợp
các yếu tố văn hoá, tinh thần và vật chất mà tạo nên, còn sức mạnh quốc tế,
sức mạnh thời đại là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển của lịch sử
nhân loại, của cách mạng khoa học và công nghệ, của lực lượng cách mạng và
tiến bộ của nhân loại trên toàn thế giới.
Nếu không biết kết hợp và vận dụng sáng tạo sẽ là sự duy ý chí, dẫn tới
mù quáng, hành động sai làm tổn hại đến sự nghiệp cách mạng
Bài học thứ năm: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Muốn vậy phải ra sức xây dựng Đảng vững mạnh chính trị, tư tưởng và
tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu
cầu của tình hình thực tế đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt và do
vậy cần quán triệt và thực hiện tốt các nội dung sau:
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo góp phần phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
5


- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng.
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế tôn trọng
quy luật khách quan , đáp ứng yêu cầu lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Phòng, chống có hiệu quả những nguy cơ lớn; sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên…
Đây là 5 bài học lớn được rút ra trải qua hơn 60 năm lãnh đạo cách
mạng Việt Nam của Đảng và nó vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm
nay
2. Khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang đi
Trên cơ sở xác định đúng đắn nội dung, tính chất, đặc điểm của thời đại
ngày nay, những thuận lợi khó khăn trong nước và hoàn cảnh quốc tế trong

điều kiện nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng với
những kinh nghiệm đã tích luỹ được, đặc biệt là công cuộc đổi mới do Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đạt được, những thành
tựu bước đầu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội,
tạo thế đi lên, qua đó càng khẳng định con đường mà chúng ta đang đi là đúng
đắn và vì vậy kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn của Đảng ta.
Cương lĩnh 1991 đã khẳng định: "Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
tình hình đất nước và thế giới như đã phân tích chúng ta phải tiếp tục nêu cao
ý chí tự lực, tự cường phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc,
đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện
pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội
Trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, việc Đảng ta
nên lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Quan niệm đó bao gồm cả đặc
trưng chủ yếu sau đây:
6


Đặc trưng thứ nhất: Nhân dân lao động làm chủ
Đây là đặc trưng cơ bản khác biệt hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa tư
bản và các chế độ bóc lột, nó thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại, khát
vọng cháy bỏng ngàn đời của con người.
Nhân dân làm chủ trên thực tế mọi mặt đời sống xã hội được bảo đảm
bằng pháp luật, được thể hiện trên cả 2 hình thức: làm chủ đại diện và làm chủ
trực tiếp.
Quá trình thực hiện làm chủ là một quá trình lâu dài, khó khăn gian
khổ, từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả sự phát triển xã hội và phát triển
bản thân con người.

Đặc trưng thứ hai: Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thực hiện công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xoá
tận gốc việc sinh ra giai cấp đối kháng, xoá tận gốc cơ sở kinh tế của chế độ
người bóc lột người.
Điểm khác về chất giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa so với kinh tế tư bản
chủ nghĩa là chế độ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu: trong chế độ tư
bản là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa còn trọng chủ nghĩa xã hội là
chế độ công hữu. Từ đó quy định chế độ tổ chức, quản lý sản xuất, chế độ
phân phối kết quả sản xuất.
Đặc điểm thứ ba: Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Văn hoá là nền tẳng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hoá.
Nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá yêu nước và tiến bộ mà nội dung
cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản
sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vững mà lịch sử hàng ngàn năm của
dân tộc đã hun đúc lên. Đối với dân tộc Việt Nam đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn chặt cá nhân với
7


gia đình, làng xã, tổ quốc là tinh thần ham học tập cầu tiến bộ, là lối sống
khiêm tốn, giản dị, là lòng nhân ái thuỷ chung, trong nghĩa tình đạo lý.
Giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại.
Đặc trưng thứ tư: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, khác

biệt so với chủ nghĩa tư bản - con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
chủ nghĩa xã hội.
Đặc trưng thứ năm:Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ.
Đặc trưng thứ sau: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng nói trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể
thống nhất vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng
bước. Mọi hoạt động lãnh đạo quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc trưng đó
là định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành
A. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA CH VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Cương lĩnh đã chỉ ra những phương hướng vừa mang tính nguyên tắc
bảo đảm không chệch hướng xã hội chủ nghĩa, vừa quán triệt tinh thần đổi
mới để không ngừng tiến lên vững chắc và không lặp lại sai lầm cũ, bao gồm
những nội dung sau:
Một là, "Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ luật xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân".
8


Vấn đề xây dựng Nhà nước được đặt lên hàng đầu vì vấn đề chính
quyền luôn luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Điều mới ở đây là
tầng lớp trí thức cùng với giai cấp công nhân và nông dân hợp thành liên
minh là cơ sở xã hội của Nhà nước, là nền tảng và chỗ dựa của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ vai trò trí thức đã quan
trọng, trong xã hội chủ nghĩa xã hội, nhất là khi cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ đang tác động mạnh đến nhịp độ phát triển của các dân tộc tì vai
trò trí thức lại càng quan trọng. Song, số phạm sai lầm nghiêm trọng nếu tuyệt
đối hoá vảitò trí thức, hạ thấp vai trò công nông.
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần chống lại thứ dân chủ chung
chung, giai cấp mà thực chấp là để thực hiện dân chủ tư sản nhằm xoá bỏ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, "Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân".
Nói phát triển lực lượng sản xuất là khái niệm rộng hơn, bao quát hơn
so với nói công nghiệp hoá vì công nghiệp hoá là phương thức quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời nói rõ công nghiệp hoá theo
hướng hiện đại hoá. Đây là điểm khác với quan niệm công nghiệp hoá trước
đây về xây dựng công nghiệp nặng.
Ở nước ta vai trò nông nghiệp đang chiếm vị trí rất quan trọng, vì vậy
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là mất yêu cầu vừa cơ bản vừa bức
xúc đối với sự phát triển chung và đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
nói riêng.
Ba là, "Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, với sự đa dạng về
hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
9


hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước; Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".

Phương hướng thứ ba này thể hiện sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn quan niệm
về xây dựng quan hệ sản xuất trên 3 mặt: hình thức sở hữu, có chế quản lý và
phân phối phù hợp với tính chát và trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay,
khắc phục quan điểm sai lầm ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sớm có
chế độ công hữu chiếm ưu thế trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn
rất thấp, phủ nhận sản xuất hàng hoá và kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá
lâu cơ chế tập trung quan niêu bao cấp, phân phối bình quân.
Dù mô hình kinh tế nào thì Nhà nước cũng phải quản lý chúng ta chủ
trương tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong cơ chế thị trường là
nhằm chủ động phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, hướng nền kinh tế thị trường phục vụ tốt mục tiêu xã hội chủ nghĩa và
không thể tự phát chệch hướng sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác tăng cường vai trò của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
mới từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng
cơ sở kinh tế để xoá bỏ tận gốc tình trạng phân hoá giai cấp, xoá bỏ áp bức,
bóc lột. Đây là một trong những vấn đề cơ bnả để đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế. Trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức phân phối như phân
phối theo vốn góp, phân phối theo phúc lợi như hình thức phân phối chủ yếu
là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Bốn là, "Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn mình vì lợi
10


chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao; chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những

truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái
với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".
Chúng ta cần nhận thức rõ cách mạng tư tưởng - văn hoá là một quy
luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang kinh tế
thị trường. Phát triển kinh tế phải đi với xây dựng nền văn hoá mới và con
người mới nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - LêNin
vào Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh những tinh hoa văn hoá của
dân tộc Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng cách mạng.
Năm là, "Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh; thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác
và hữu nghị với tất cả các nước, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, đoàn kết với các nước, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới"
Đó là phương hướng nhằm huy động mọi lực lượng của dân tộc, mọi
tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam, tạo môi trường quốc tế thuận lợi;
tranh thủ tối đa sức mạnh của bên ngoài, kết hợp có hiệu quả sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại để phát triển nhanh và bền vững.
Sáu là, "Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị an toàn xã hội, bảo vệ tổ quốc và các thành quả cách
mạng".
Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống
nhất với nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó để một
11



mặt tập trung sức học trí tuệ cho việc xây dựng đất nước. Mặt khác có đủ khả
năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn
diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc
cho nhân dân.
Bảy là, "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròng trách nhiệm
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta".
Không bao giờ được chủ quan, cần thường xuyên nhận rõ nguy cơ của
Đảng cầm quyền mà Lênin và Bác Hồ đã cảnh báo đó là nguy cơ sai lầm về
đường lối chính trị, sự thoái hoá về tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liệu xa
rời quần chúng. Do đó Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Theo các phương hướng cơ bản nói trên "Mục tiêu tổng quát phát đạt
tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn
hoá phù hợp, làm cho đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình dài, phải
trải qua nhiều chặng đường mà trước hết phải ổn định xã hội, tạo thế phát
triển và từng bước đẩy mạnh ….. công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện các mục tiêu nói trên, cương lĩnh 1991 đã kế thừa có bổ
sung điều chỉnh cương lĩnh 1930 đã nêu lên những định hướng lớn về chính
sách kinh tế, xã hội quốc phòng anh ninh, đối ngoại, phương hướng cơ bản,
xây dựng hệ thống chính trị trong đó nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng như đã
phân tích diễn giải trên đây.
II. PHÂN TÍCH CHỨNG MINH CƯƠNG LĨNH NĂM 1991 ĐÃ ĐƯỢC CỤ THỂ
HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN LÀM RÕ THÊM QUA ĐAI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
CỦA ĐẢNG LẦN THỨ VIII, LẦN THỨ IX VÀ CÁC HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG KHOÁ VIII VÀ IX

12



Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định
rõ hơn, kết quả bước đầu là đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã
hội, hoàn thành về cơ bản của chặng đường đầu và chuyển sang thời kỳ mới
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mười năm thực hiện chiến lược ổn định phát triển kinh tế xã hội (1991
- 2000) đã đạt được những thành tựu to lớn quan trọng.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2000 so với năm 1990 tăng 2,07 lần;
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều; nền kinh tế từ
tình trạng khan hiếm hàng hoá nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được
các nhu cầu thiết yếu của nhân dan và nền kinh tế từ chỗ chủ yếu chỉ có 2
thành phần là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển dần sang nền
kinh tế có nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
đời sống các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện; đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự
hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu
gây ra, phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng
hoảng tài chính kinh tế ở một số nước Châu Á năm 1997 - 1998, mặc dù hậu
quả của nó đối với nước ta cũng khá nặng nề; tình hình chính trị xã hội cơ bản
ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường.
Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều sơ với năm 1992.
Sau 15 năm đổi mới (1986 - 2000) đã cho chúng ta nhiều bài học kinh
nghiệm rất quý báu trong đó quan trọng nhất là:
- Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với
thực tiễn và luôn luôn sáng tạo.

- Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
13


- Nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới là đường lối và
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX (năm 2000) và các Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Khoá IX từ lần thứ nhất đến lần thứ 12 vừa
qua (tháng 7/2005) đã tiếp tục làm rõ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Điều đó được thể hiện rõ trên những nội dung sau:
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã phát triển làm rõ hơn
nữa nội dung cương lĩnh 1991 trên các điểm sau:
a) Khẳng định con đường phát triển: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 15 năm đổi mới
đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận
thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng
và nhân dân ta quyết tâm thực hiện thắng lợi cương lĩnh 1991 là xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Lần đầu tiên văn kiện đại hội Đảng đã chính tứhc xác định quan
niệm, nguồn gốc và một số nội dung chủ yếu của Tư tưởng Hồ Chí Minh đó
là:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm lý luận chính trị
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam;
- Về nguồn gốc: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại.
- Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:

+ Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
+ Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp với sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
14


+ Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân,
do dân, vì dân.
+ Về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Về phát triển kinh tế và văn hóa không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
+ Về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
+ Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ Đảng viên vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đại hội khẳng định "Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta".
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
c) Xác định rõ hơn về thời kỳ quá độ và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ ở nước ta.
- Con đường đi lên của nước ta là phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến thức thượng tầng. Tư bản chủ nghĩa những tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

- Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ;

15


Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa
cái mới và cái cũ.
- Trong thời kỳ quá độ có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với
những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa
các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân;
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
- Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện
công bằng xã hội chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc,
xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc.
d) Phát triển hoàn thiện hơn nữa về mục tiêu chung: Cương lĩnh năm
1991 đề ra xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, đến đại hội VIII khẳng
định rõ hơn là xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh và xã hội công
bằng, văn minh" đến Đại hội IX được bổ sung thêm từ "dân chủ" và hoàn
thiện mục tiêu chung là xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh xã hội

công bằng, dân chủ văn minh".
đ) Xác định rõ động lực chủ yếu để phát triển đất nước là sự đoàn kết
toàn dân trên cơ sở tổ liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức; kết
hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng các
nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội bao gồm nguồn lực vật
chất và nguồn lực tinh thần nhất là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và trí
sáng tạo của toàn thể nhân dân.
16


e) Xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát của nứơc ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mục đích là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hẹ sản xuất
mới phù hợp trên cả 3 mặt: Sở hữu, quản lý và phân phối.
- Về sở hữu chúng ta chủ trương có nhiều hìnht hức, bao gồm sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân; nhiều thành phần kinh tế: kinh tế
Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiêu chuẩn căn bản để
đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân,
thực hiện công bằng xã hội.
- Về quản lý chúng ta chủ trương quản lý nền kinh tế bằng pháp luật,
chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp
dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, giải phóng sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và

khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường bảo vệ lợi ích của người lao
động và toàn thể nhân dân.
- Về phân phối thực hiện theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản
xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
- Về xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tăng cường kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
17


Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Những quan điểm chủ yếu trên đây được đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX khẳng định, thể hiện bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng, đã làm rõ hơn mục tiêu, nội dung, phương pháp cương
lĩnh 1991 về xây dựng nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Các hội nghị ban chấp hành Trung ương khoá IX đã lần lượt tiếp
tục cụ thể hoá đường lối đựơc đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng thông qua trên cơ sở cương lĩnh 1991
a) Về kinh tế: Hội nghị lần thứ 3 và lần thứ 9 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước; Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra 3 Nghị quyết về kinh tế:
- Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển kinh tế tư nhân.
- Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời

kỳ 2001 - 2010.
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra
Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sấch, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các Nghị quyết về kinh tế đã nêu trên của các Hội nghị lần thứ 3, thứ 5
và thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã thể hiện một bước tiến
có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hoá, làm rõ hơn và có tính đồng bộ về
đường lối xây dựng, phát triển kinh tế đã được thông qua tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX.
b) Về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ đã được Hội nghị lần thứ
6 Ban chấp hành Trung ương khoá IX ra Nghị quyết nhằm tiếp tục chấn hưng
18


sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nhằm phát triển mạnh mẽ khoa học - công
nghệ, động lực chủ yếu để phát triển kinh tế.
c) Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Hội nghị lần thứ 4 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra kết luận về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá V III, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn,
đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí.
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Khoá IX đã ra 2 Nghị
quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn, về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới; Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá IX đã ra
kết luận về công tác tổ chức và cán bộ; Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khoá IX đã ra các Nghị quyết:
- Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Về công tác dân tộc.

- Về công tác tôn giáo.
Các Nghị quyết trên đều nhằm mục đích xây dựng Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể chính trị xã hội trong sạch vững mạnh nhằm phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng trên cơ sở
cương lĩnh được thông qua năm 1991, và ngày càng được cụ thể hoá, làm rõ
hơn thông qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ VIII và IX cũng như các Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương khoá VIII và IX.
III. NHẬN THỨC TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN

Là những cán bộ, Đảng viên cũng như những người đang rèn luyện
phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, phải nhận thức rõ
trách nhiệm của mình là phải luôn rèn luyện về chính trị, quan điểm, nhận
thức kiên định lý tưởng mục đích của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành
19


công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Không ngừng học
tập để nâng cao trình độ hiểu biết một cách sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin
tư tưởng Hồ Chí Minh, và vận dụng có sáng tạo vào thực tế cuộc sống, công
việc hàng ngày của đơn vị và cá nhân mình.
Là một cán bộ công tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo tôi nhận thức
sâu sắc rằng đồi tượng tiếp xúc hàng ngày của mình là sinh viên, thế hệ trẻ,
chủ tương lai của đất nước nên bản thân mình phải hết sức gương mẫu trên
mọi lĩnh vực không ngừng cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy nhằm
nâng cao chất lượng luôn nhiệt tình hăng say để truyền đạt cho sinh viên
không chỉ những kiến thức chuyên môn mà cả những vấn đề về nhận thức,
quan điểm chính trị xã hội đúng đắn nhằm giúp cho các em có động cơ, thái
độ học tập đúng đắn, có ý thức rèn luyện phấn đấu hết mình, để có thể tiếp nối
sự nghiệp cha anh và các bậc đi trứơc nhằm gócp sức hoàn thành sự nghiệp

cách mạng của Đảng đãđề ra.
Bản thân tôi cũng phải tự khắc phục những khó khăn về thời gian, về
gia đình, về cuộc sống để thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy được
bộ môn Khoa giao và không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất, đạo đức,
nhân cách để sớm được gia nhập hàng ngũ của Đảng.
Trong trái tim tôi cũng đang khát khao một hoài bão là muốn được
cùng với các đồng nghiệp góp sức nhỏ bé của mình vào công việc giáo dục
bồi dưỡng lớp sinh viên trẻ của Trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội, để
có được những tình cảm, khát vọng theo nhưng tấm gương của các liệt sĩ trẻ
Nguyễn Văn Thạc và Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm được thể hiện trong nhật ký của
mỗi người, trong đó nhật ký của Nguyễn Văn Thạc đã được in thành sách
"Mãi mãi tuổi hai mươi" hiện đang được đông dảo dư luận, nhất là thế hệ trẻ
quan tâm và ngưỡng mộ, đang tạo ra khí thế mới trong lao động, học tập và
rèn luỵên vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam thân yêu.

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×