Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Lich su dang sự lãnh đạo của đảng đối với cách mạng tháng 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.6 KB, 36 trang )

TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

PHẦN NỘI DUNG
Sự lãnh đạo của Đảng trước hết ở sự bổ sung, phát triển hoàn chỉnh hệ thống
các quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc; ở sự lựa chọn hình thức và
phương pháp cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể; ở sự tổ chức xây
dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; ở
sự nhận thức tình thế và thời cơ cách mạng để đưa quần chúng vào hành động cách
mạng; ở sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung, thống nhất trong giờ phút có ý nghĩa
quyết định đến thắng lợi.
I/ Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và chủ trương giải phóng dân tộc của
Đảng
1/Bối cảnh lịch sử
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ. Quân Đức tiến công sang phía Tây trước và từ tháng 4-1940 đến đầu năm
1941 đã chiếm và đắt ách thống trị lên hầu hết các nước Tây Âu và Đông Âu tư
bản chủ nghĩa. Nhật Bản mở rộng chiếm đóng Trung Quốc, tiến xuống Đông Nam
Á. Ngày 22-6-1941, 190 sư đoàn phát xít Đức tấn công Liên Xô. Ngày 8-12-1941,
Nhật bất ngờ tấn công cảng Trân Châu ở quần đảo Haoai, chiến tranh lan sang
Châu á-Thái Bình Dương. Quy luật lợi nhuận tối đa và sự phát triển không đều về
kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến cuộc chiến tranh giữa hai tập
đoàn đế quốc: phát xít Đức-Ý-Nhật và Anh-Pháp-Mỹ nhằm giành giật thị trường,
nguồn nguyên liệu và chia lại thế giới. Từ khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tính
chất chiến tranh đế quốc chuyểnt thành chiến trang giữa các lực lượng dân chủ do
Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
2/Chính sách cai trị của Pháp
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta.
Chính phủ Pháp thực hiện chính sách đàn áp các lực lượng cộng sản và tiến bộ ở
trong nước và ở các nước thuộc địa. Ở Đông Dương thực dân Pháp điên cuồng tiến
công Đảng Cộng Sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo.
Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Đồng


1


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

chí Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng 9-1939. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giam,
tù đày. Hàng vạn thanh niên bị đưa sang Pháp. Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu,
trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc phòng, kiểm soát trực tiếp, gắt gao sản
xuất và phân phối, xuất khẩu và nhập khẩu. Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn
và tư sản mại bản tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh
hưởng tai hại bởi chính sách phản động của Pháp.
3/Chủ trương, sách lược mới của Đảng
Do sớm dự báo được chiến tranh thế giới thứ hai sẽ nổ ra, nên Đảng ta không bị
bất ngờ về cuộc chiến tranh này. Trong thời kỳ 1936-1939 Đảng đã có một số chủ
trương, hoạt động thích hợp khi chiến tranh bùng nổ.
Một tháng sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, ngày 29-9-1939 Trung ương Đảng
gửi thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến
mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và
chuyển hướng hoạt động.
a/Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 (11-1939)
Đầu tháng 11-1939, Ban Chấp hành Trung ương đã họp tại Bà Điểm, Gia Định,
có các đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu… tham
dự. Hội nghị nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít
quân phiệt tàn bạo, mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và
các dân tộc Đông Dương; dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng
Nhật. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay
sai, giải phóng Đông Dương hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động,
chống tố cáo, chống lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xôviết công nông
binh bằng khẩu hiệu lập Chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành

lập mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính là
công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn , đồng minh
hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ. Về
phương pháp cách mạng, Hội nghị nêu ra một số chuyển hướng về tổ chức, xây
2


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng
vào đế quốc và tay sai, "dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh
giải phóng dân tộc". Hội nghị cũng quyết định các chủ trương và biện pháp nhằm
củng cố Đảng về mọi mặt, thực hiện sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn
Đảng.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã phát huy tinh
thần sáng tạo, kịp thời nêu ra mục tiêu chiến lược tập trung mũi nhọn của cách
mạng vào đế quốc và tay sai, chuẩn bị điều kiện giành chính quyền, đánh dấu bước
chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ.
Sau hội nghị, phong trào đấu tranh chuyển theo phương hướng mới. Đảng vượt
qua thử thách của đợt khủng bố tháng 9-1939 và được củng cố. Các cuộc đấu tranh
của quần chúng nhân dân diễn ra theo khẩu hiệu chốnh chính sách phản động của
chính quyền thực dân, chống chiến tranh đế quốc. Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông dương được xây dựng. Đầu năm 1940, một số đồng chí lãnh đạo
chủ chốt của Đảng bị bắt, Ban chấp hành Trung ương Đảng chưa lập lại được.
Lơị dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 quân đội Nhật Bản tiến vào Lạng
Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội Pháp ký hiệp định đầu
hàng Nhật. Từ đó nhân dân ta bị một cổ hai tròng.
Khi Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp rút chạy qua đường Bắc Sơn về Thái
Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này tan rã. Đêm 27-9-1940, dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chiếm đồn Mỏ Nhài,

làm chủ châu lỵ và các vùng trong châu. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã giành được thắng lợi nhanh chóng nhưng ngay sau đó
đã bị đàn áp. Mặc dù khởi nghĩa Bắc Sơn chỉ diễn ra trong vòng một tháng và chỉ
ở một huyện nhưng đã có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Đó là tín hiệu mở đầu cao
trào giải phóng của các dân tộc Đông Dương, mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta
kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đánh đổ chính quyền đế
quốc,phong kiến giành độc lập, tự do; nó đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh

3


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

của nhân dân cả nước và có ảnh hưởng đến việc chuẩn bị khởi nghĩa của xứ uỷ
Nam kỳ.
b/Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940)
Từ ngày 6 đến 9-11-1940 Hội nghị trung ương Đảng họp tại Đình Bảng có các
đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt tham dự. Hội nghị
khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội
nghị trung ương Đảng tháng 11-1939; xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc
này là phát xít Nhật và Pháp. Hội nghị đã cử ra ban chấp hành trung ương lâm
thời, phân công đồng chí Trường Chinh làm quyền bí thư trung ương Đảng, quyết
định chắp nối liên lạc với quốc tế cộng sản và bộ phận của Đảng ở ngoài nước.
Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp bách:
Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, khi
cần thiết thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân,
phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn-Vũ Nhai
làm trung tâm.
Hai là, chỉ thị cho xứ uỷ Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều
kiện bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi.

Quyết định chưa được truyền đạt tới Xứ uỷ Nam Kỳ thì ngày 23-11-1940 cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra. Ở hầu khắp các tỉnh miền Nam, quần chúng nổi dậy
đấu tranh dũng cảm, tiêu biểu là ở Mỹ Tho. Chính quyền của địch ở một số xã,
quận tan rã. Chính quyền cách mạng được thành lập, thực hiện một số cải cách dân
chủ, dân sinh bảo vệ trị an, xét xử bọn phản động. Lần đầu tiên, cờ đỏ sao vàng
xuất hiện tại một số vùng ở Mỹ Tho và Vĩnh Long. Cuộc khởi nghĩa bị thực dân
Pháp đàn áp rất dã man. Gần 6000 người bị bắt và bị giết. Nhiều làng mạc bị ném
bom và đốt phá. Một số đồng chí lãnh đạo của Đảng bị bắt và bị xử bắn trước cuộc
khởi nghĩa.
Ngày 13-1-1941, binh lính yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Cung đã
nổi dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng, kéo về Đô Lương, rồi tiến về Vinh. Cuộc khởi
nghĩa nhanh chóng bị dập tắt.
4


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Trong vòng ba tháng, ba cuộc khởi nghĩa diễn ra ở cả ba miền Bẵc, Trung,
Nam, đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và để lại nhiều kinh
nghiệm quý báu về khởi nghĩa vủ trang. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng
(tháng 5-1941) nhận định: đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa
toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. Kinh
nghiệm lớn nhất của các cuộc khởi nghĩa trên là muốn khởi nghĩa thành công phải
co đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi, trên cơ sở cuộc khủng
hoảng chính trị, kinh tế diễn ra trong bộ máy thống trị của chủ nghĩa đế quốc và
dựa vào cao trào câch mạng đã dâng lên trong cả nước.
c/Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941)
Đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với Đảng và chuẩn bị về
nước. Ngày 28-1-1941 Người trở về tổ quốc và ngày 8-2-1941, Người tới Pác Bó
(Hà Quảng, Cao Bằng).

Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị ban chấp hành trung ương đảng đã
họp tại Pác Bó do đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì. Từ sự phân tích diễn biến của
chiến tranh thế giới và tình hình trong nước, hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ
yếu trước mắt của cách mạng là giẩi phóng dân tộc.
Hội nghị khẳng định tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất của hội nghị trung ương tháng 11-1939, tập trung mũi nhọn chống
đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm
tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau
khi đánh đuổi đế quốc Pháp-Nhật, sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà; Hội nghị quyết định thay tên các hội phản đế thành hội
cứu quốc, thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt minh
thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập
mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
Hội nghị xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của toàn Đảng, toàn dân.
5


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Hội nghị đưa ra dự báo: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên
Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra
nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước mới thành công.
Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có
đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng, chủ trương
gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bô lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận,
binh vận, quân sự; tăng thành phần vô sản trong Đảng. Hôi nghị đề ra nhiệm vụ
giúp đỡ các Đảng bộ Campuchia, Lào và cử ra Ban chấp hành trung ương chính
thức, bầu đồng chí Trường Chinh làm tổng bí thư.

Hội nghị trung ương Đảng tháng 5-1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã
hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một
của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục
tiêu ấy. Cùng với nghị quyết hội trung ương tháng 11-1939, nghị quyết hội nghị
trung ương thấng 5-1941 có ý nghĩa quyết định đỗi với thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
II/ Xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền
1/Xây dựng lực lượng chính trị
Ngày 6-6-1941, đồng chí Nguyễn ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết
đánh đuổi Nhật-Pháp, chỉ ra điều kiện quan trọng để giành chính quyền "Hiện thời
muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết".
Cuối tháng 10-1941, Việt Nam độc lập đồng minh công bố tuyên ngôn, chương
trình và điều lệ. Từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội công nhân cứu quốc,
nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, tự vệ cứu quốc... đã
được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và ở các thành phố
Hà Nội, Hải Phòng. ở Cao Bằng xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt
Minh. ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Việt minh phát
triển mạnh mẽ tại nhiều vùng nông thôn và thị xã.
2/Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng

6


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Đảng rất chủ trọng xây dựng các khu an toàn và căn cứ điạ, lập các đội tự vệ vũ
trang. Trung đội cứu quốc quân hình thành từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, hoạt động
tại Vũ Nhai đã bám sát quần chúng, tiến hành cuộc chiến đấu gian khổ trong 8
tháng, phá được cuộc càn quét quy mô lớn của địch (từ giữa năm 1941).
Đảng thường xuyên quan tâm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng

nâng cao cảnh giác, ngăn ngừa bọn A,B chui vào phá Đảng từ bên trong. Công tác
đào tạo cán bộ được tiến hành qua các lớp huấn luyện ngắn ngày, các lớp bồi
dưỡng công tác ở tất cả các cấp.
Thông qua mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh
đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay
các trung tâm kinh tế, chính trị. Thực dân Pháp làm tay sai cho Nhật khủng bố điên
cuồng phong trào cách mạng. Từ cuối năm 1941 nhiều cán bộ của Đảng bi bắt và
bị giết hại. Tháng 8-1942, trên đường công tác ở Trung Quốc, đồng chí Nguyễn ái
Quốc (lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam
đến tháng 9-1943.
Trong thời gian bị giam giữ ở các nhà tù Quảng Tây, đồng chí Hồ Chí Minh đã
viết tập thơ Nhật ký trong tù nổi tiếng, một lần nữa nêu cao tấm gương về ý chí bất
khuất, tinh thần lạc quan cách mạng.
Vừa ra khỏi nhà tù Liễu Châu, Người đã bắt liên lạc ngay với hội giải phóng
Việt Nam. Do sự đóng góp tích cực của Người, tháng 9-1943, Hội nghị đại biểu
các đảng phái, các đoàn thể yêu nước của người Việt Nam ở Trung Quốc được
triệu tập do Việt Minh và hội giải phóng Việt Nam đóng vai trò nòng cốt.
Vì sự bất lực của các tổ chức tay sai, chính quyền Tưởng Giới Thạch buộc phải
bắt tay với Việt Minh. Đồng chí Hồ Chí Minh và những cán bộ của Đảng đã khéo
lợi dụng tình hình trên để hoạt động có lợi cho cách mạng, vạch trần âm mưu của
Tưởng Giới Thạch và bọn giả danh cách mạng .
Để đẩy tới công việc chuẩn bị khởi nghĩa, cuối tháng 2-1943 Ban thường vụ
trung ương Đảng đã họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Hội nghị chủ trương
mở rộng mặt trận Việt Minh, liên minh với tất cả các Đảng phái, các nhóm yêu
7


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận động

thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số và binh lính, chú ý vận động tư sản, địa chủ
yêu nước; lập hội Văn hoá cứu quốc.
Hội nghị vạch ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phổ biến
kinh nghiệm khởỉ nghĩa và chiến thuật du kích, tổ chức huấn luyện các đội tự vệ,
các tiểu tổ du kích, đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành
thị, công tác vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.
Hội nghị nêu rõ, để làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, phải làm cho Đảng
mạnh mẽ và "bônsêvích hoá" vì chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng rãi thì
vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải vững chắc.
Trong hai năm 1943-1944, phong trào cách mạng ở hai miền Bắc, Trung có
bước phát triển mới, ở miền Nam được phục hồi. Tổ chức Việt Minh mở rộng ở
các thành thị và nông thôn. Trên cơ sở cao trào cách mạng của quần chúng, từ hai
căn cứ địa trung tâm Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai nhiều căn cứ địa liên hoàn
đã hình thành nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang,
Bắc Giang, Vĩnh Yên. Nhiều đội du kích thoát ly ra đời.
3/Chuẩn bị về mặt văn hoá, tư tưởng
Trên mặt trận văn hoá tư tưởng, Đảng ta cũng thu được nhiều thành tựu. Nhiều
sách báo của Đảng và Mặt trận Việt Minh được xuất bản. Năm 1943, Đảng đưa ra
đề cương văn hoá Việt Nam, vũ trang cho toàn Đảng và những người hoạt động
văn hoá yêu nước phương hướng chống lại văn hoá phát xít và phong kiến, xây
dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội văn hoá cứu quốc ra đời.
Tháng 6-1944, Đảng dân chủ Việt Nam , tập hợp trí thức yêu nước và tư sản tiến
bộ được thành lập và gia nhập Mặt trận Việt Minh.
Đầu tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị "Sửa soạn khởi nghĩa". Cuối
năm 1944 phong trào cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương. Ở các căn cứ địa
cách mạng, quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy.Tháng 10-1944, thực dân Pháp mở
cuộc càn quét ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên), đáng lẽ cấp ủy địa phương phải

8



TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống khủng bố nhưng lại phát động khởi nghĩa vì
vậy bị nhiều thiệt hại.
Tháng 7-1944, Liên tỉnh uỷ Cao-Bắc-Lạng chủ trương phát động chiến tranh du
kích trong liên tỉnh. Tháng 10-1944, từ Trung Quốc về tới Pác Bó, đồng chí Hồ
Chí Minh đã quyết định hoãn chủ trương của liên tỉnh uỷ vì điều kiện chưa chín
muồi. Ngay sau đó, Người đề ra chủ trương thành lập đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân, tăng cường hoạt động vũ trang tuyên truyền, đẩy mạnh việc xây
dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa
sau này. ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, do đồng
chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo được thành lập. Vài ngày sau, đội đã đánh thắng hai
trận đầu ở Phai Khắt, Nà Ngần, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đánh Nhât, đuổi Pháp.
Để tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của
nhân dân ta, Đảng ta đã tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở
Trung Quốc và vận động Việt Kiều ở Trung Quốc tham gia phong trào giải phóng
dân tộc; tiếp xúc với đại diện lực lượng Mỹ tại Côn Minh để tranh thủ sự đồng tình
đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống phát xít Nhật.
III/Lãnh đạo quần chúng kháng Nhật cứu nước
1/Hoàn cảnh lịch sử
Đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức khỏi lãnh thổ và
giải phóng một loạt các nước Đông Âu và tiến về Béclin từ phía đông. Còn ở mặt
trận Tây Âu liên quân Anh-Mỹ mở mặt trận thứ hai đổ bộ lên đất Pháp, giải phóng
nước Pháp và liên quân Anh-Mỹ tiến về Béclin từ phía tây phát xít Đức đang ở bên
bờ diệt vong.
Còn ở mặt trận Thái Bình Dương phát xít Nhật ở tình thế khốn quẫn, quân Anh
đánh bại Nhật ở Miến Điện và do đó các con đường biển nối từ trung tâm đến các
căn cứ ở Đông Nam Á của Nhật đều bị quân đồng minh chiếm. Đúng như dự báo
của Đảng, năm 1944 mâu thuẫn Nhật-Pháp ở Đông Dương đã lên tới đỉnh cao

giống như "cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ". 8 giờ tối ngày 9-3-1945, Nhật làm cuộc
đảo chính lật đổ Pháp. Thực dân Pháp đầu hàng. Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị
9


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

của Pháp ở Đông Dương để phục vụ cho chúng, chỉ quét thêm một lớp sơn giả
hiệu cho bọn bù nhìn Trần Trọng Kim.
2/Hội nghị ban chấp hành trung ương
Ngay trong đêm 9-3, hội nghị mở rộng của Ban thường vụ trung ương Đảng
họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã nhận
định rằng, sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của
dân nhân Đông Dương. Khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp trước đây được
thay bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật. Hội nghị chủ trương phát động một
cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cần phải thay đổi cho
thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa: tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần
hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật; tổ chức các đội tự vệ
cứu quốc, thành lập các căn cứ điạ mới, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt
Nam giải phóng quân; thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng ở những vùng quân
du kích hoạt động; sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện.
Nội dung của hội nghị được trình bày trong chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta (12-3-1945).
3/Cao trào kháng Nhật cứu nước
Cao trào cứu Nhật, cứu nước được phát động. Phong trào đấu tranh vũ trang kết
hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần đã diễn ra sôi nổi ở thượng du,
trung du miền Bắc. Ở Việt Bắc, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc
quân đã phối hợp với nhân dân nổi dậy giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã thuộc
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang. Ở

Bắc Giang, nhân dân nổi dậy thành lập uỷ ban dân tộc giải phóng, ở nhiều làng,
thành lập đội du kích. Ở Quảng Ngãi, số Đảng viên đang bị giam trong trại An Trí,
Ba Tơ đã khởi nghĩa, chiếm đồn, thành lập đội du kích Ba Tơ.
Hàng nghìn cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả
Lò, Buôn Mê Thuột … đấu tranh buộc địch trả tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam,

10


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

vượt ngục ra ngoài hoạt động, tham gia lãnh đạo phong trào kháng Nhật, cứu
nước.
Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh, do chính sách bóc lột, vơ vét của
Nhật-Pháp, nạn đói xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh phía Bắc. Hai triệu người Việt
Nam bị chết đói. Đảng đã kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn
đói" và coi đó là khẩu hiệu chính để phát động phong trào chống Nhậtl, cứu nước.
Cuộc đấu tranh phá kho thóc diễn ra ở khắp các tỉnh miền Bắc, đưa hàng triệu
quần chúng đi từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế hàng ngày đến giác ngộ chính trị
khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 15-4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, do Ban thường vụ
Trung ương Đảng triệu tập đã họp ở Hiệp Hà (Bắc Giang), quyết định đặt nhiệm
vụ quân sự lên hàng đầu, gấp rút chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Hội nghị
thống nhất sáp nhập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và cứu quốc quân, lấy
tên là Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước.
Đó là các chiến khu Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Trần Hưng Đạo
(miền Bắc); Trưng Trắc, Phan Đình Phùng (miền Trung), và Nguyễn Tri Phương
(miền Nam).
Ngày 16-4-1945, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải
phóng các cấp, chuẩn bị thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam, Chính phủ

cách mạng lâm thời. Đầu tháng 5-1945 đồng chí Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về
Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ để chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn
bị Đại hội quốc dân. Theo chỉ thị của Người, đầu tháng 6-1945 khu giải phóng
Việt Bắc thành lập.
Trong hai tháng 5 và 6-1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và
nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền theo nghị quyết hội nghị quân sự
cách mạng Bắc Kỳ. Ở khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân
dân đã hình thành, tồn tại song song với chíng quyền tay sai của phát xít Nhật.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Đảng đặc biệt coi
trọng việc tăng cường sự nhất trí về đường lối cách mạng của Đảng; đấu tranh
11


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

chống lại ảnh hưởng của Nhật, phê phán tư tưởng sợ Nhật, thân Nhật hoặc lợi
dụng Nhật; nghiêm khắc phê bình quan điểm lệch lạc hy vọng giành độc lập bằng
con đường hoà bình thương lượng với Nhật, lợi dụng và cải tổ chính phủ bù nhìn
Trần Trọng Kim.
Cao trào chống Nhật, cứu nước đã phát triển tới đỉnh cao sau khi phát xít Đức
ký văn bản đầu hàng Liên Xô và đồng minh đầu tháng 5-1945 và phát xít Nhật đầu
hàng giữa tháng 8-1945.
IV/ Lãnh đạo quần chúng tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
1/Tình thế cách mạng
Ở châu Âu: vào 5-1945 phát xít Đức tuyên bố đầu hàng Châu Âu và quân đồng
minh vô điều kiện
Ở châu Á: vào 8-8-1945 hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật
Ngày 13-8-1945: Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Liên Xô
2/Hội nghị toàn quốc (13-15/8/1945)
Từ ngày 13-8 đến 15-8, hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào. Hội nghị

nhận định điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, Đảng chủ trương lãnh đạo toàn dân
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông
Dương với khẩu hiệu đấu tranh: phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập và chính
quyền nhân dân trên nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời, đánh chiếm ngay
những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Hội nghị cũng đề ra
phương trâm hành động trong tổng khởi nghĩa đó là: kết hợp quân sự với chính trị,
làm tan rã tinh thần địch và dụ hàng trước khi đánh. Hội nghị cử ra uỷ ban khởi
nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách; đề ra đường lối đối nội và
đối ngoại trong tình hình mới và kiện toàn Ban chấp hành trung ương. Đêm 13-81945, uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
3/Quốc dân đại hội
Ngày 16-8-1945 cũng tại Tân Trào, đại hội quốc dân họp, nhiệt liệt tán thành
chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định
thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức chính phủ lâm thời do đồng chí
12


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội lấy quốc kỳ của Việt Nam là lá cờ đỏ sao
vàng.
Ngay sau đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến
sỹ cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào
hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
4/Diễn biến
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy giành
chính quyền. Từ ngày 14-8, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn
Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,Tuyên Quang,
Yên Bái. Ngày 18-8, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái
Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hoà giành chính quyền ở tỉnh
lỵ.

Ngày 17-8, đông đảo nhân dân thành phố Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và sự điều hành của mặt trận Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh chính quyền bù nhìn
ở Nhà hát lớn thành cuộc mít tinh và diễu hành của nhân dân ta, chuẩn bị tổng
khởi nghĩa giành chính quyền.
Theo chủ trương "sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện"
của Trung ương, căn cứ thực tế diễn biến ngày 17-8, đêm 17-8, Xứ uỷ Bắc Kỳ
cùng với thành uỷ Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19-81945. Sáng 19-8, hàng chục vạn quần chúng nội thành và ngoại thành Hà Nội về
quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc míttinh do Việt Minh tổ chức, hô vang
các khẩu hiệu:
- Đả đảo chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim!
- Thành lập Chính phủ Cộng hoà nhân dân Việt Nam!- Anh em binh lính hãy
mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh!
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
Sau cuộc míttinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang, tiến về các ngả
đường đánh chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn, trước hết là phủ Khâm
sai, toà thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát. Bạo lực cách mạng và khí thế sục
13


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

sôi khởi nghĩa của quần chúng đã buộc ngụy quyền đầu hàng và buộc quân Nhật
phải để cho nhân dân giành chính quyền làm chủ toàn bộ thành phố.
Thắng lợi của tổng khởi nghĩa ngày 19-8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối
với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy
mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền, nhất là Huế và
Sài Gòn.
Ngày 23-8, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ và tỉnh uỷ Thừa Thiên,
150.000 nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các
công sở của nguỵ quyền triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải đầu hàng bằng

hình thức thoái vị. Chiều 30-8 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc míttinh hàng vạn
người tham gia, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Đại
diện chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố xóa bỏ chế độ quân
chủ ở Việt Nam .
Khi được tin tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế thắng lợi, Đảng bộ miền Nam
quyết định chọn ngày 25-8 làm ngày khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh còn lại.
Ngày 25-8, hơn 1.000.000 nhân dân thành phố Sài Gòn và các tỉnh chung quanh
biểu tình tuần hành thị uy, hô vang các khẩu hiệu:
- Đả đảo bù nhìn Nguyễn Văn Sâm!
-Việt Nam hoàn toàn độc lập!
-Tất cả chính quyền về tay Việt Minh!
-Đảng cộng sản Đông Dương muông năm!
Nhân dân khởi nghĩa chiếm sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, các bốt, các quận, sở
mật thám Catina …Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sỹ cách
mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền làm chủ trên đảo.
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong
vòng nửa tháng.Ngày 2-9-1945, trong cuộc míttinh lớn của gần 1.000.000 người
tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm
thời đọc bản tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố với nhân dân ta và thế giới sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm
14


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

sắt đá "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Kể từ đó, ngày 2-9 trở
thành ngày Quốc khánh của nước ta.
V/Nguyên nhân thắng lơi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
1/Nguyên nhân thắng lơi

Khách quan: chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã mang lại cơ hội vô cùng thuân
lợi.
Chủ quan: đó là thành quả của 15 năm đấu tranh ròng rã, đó là sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, Đảng luôn dự đoán tình thế và biết chớp thời cơ, mạnh dạn điều
chỉnh chiến lược, thay đổi chủ trương cho phù hợp với tình thế cách mạng cụ thể,
có nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức, khởi nghĩa vũ trang, thắng lợi của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của quá trình nhận thức qui luật vận động
khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, đấu tranh để khắc phục
sự khác nhau trong Đảng về nhận thức, chính trị, tư tưởng.
2/Ý nghĩa lịch sử
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là
một trong những trang sử vẻ vang nhất, là một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất.
Cách mạng Tháng Tám đập tan ách phát xít Nhật trong 5 năm, đập tan ách thống
trị của thực dân Pháp trong 87 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, đưa
dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do nhân dân làm
chủ đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta từ một Đảng hoạt
động không hợp pháp trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
Đây là cuộc đổi đời của nhân dân ta trong lịch sử .
Cách mạng Tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu đóng góp
vào kho tàng lý luận của cách mạng dân tộc, dân chủ ở một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ sau này.

15


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay,

cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi
dậy, dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác-Lênin, có đường lối đúng đắn có thể
giành thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám:
"Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc".Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của những
nhân tố bên trong (lực lượng toàn dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo) và nhân tố bên
ngoài (thắng lợi của Liên Xô và Đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức, sau
đó đập tan một triệu quân Quan Đông của Nhật, buộc Nhật đầu hàng không điều
kiện); là kết quả của ba cao trào cách mạng 1930-1931,1936-1939,1939-1945.
Từ Cách mạng Tháng Tám có thể rút ra một số kinh nghiệm:
Một là: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và cương lĩnh của Đảng đã xác định
cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ,
sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế
quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào
cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó
và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc
là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế
quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm
tức chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo,
tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi
16



TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng
vào đế quốc phát xít Nhật-Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu
chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến.
Hai là: Toàn dân nổi dây trên nền tảng khối liên minh công nông
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của
hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực
hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao
trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân
chủ lực làm nền tảng, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên
toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế
quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ
phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật,
cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh
thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám
giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.
Bốn là: kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của
nhân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ
giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng
với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong
đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách

mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế
và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở
17


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa,
đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân
dân.
Năm là: nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết kinh
nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm
1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho
tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã lựa chọn đúng thời cơ. Đó
là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật
đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa. Đảng đã
chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước
làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành
chính quyền
Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách
mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó.
Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
cách mạng .
Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ
trương của Đảng trong Đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu
tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức,

cán bộ giáo dục rèn luyện cán bộ Đảng về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và
đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch. Đảng biết phát huy
triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua mặt
trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.

18


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Với những yếu tố như trên và được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh mặc dù chỉ
có 5.000 Đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.
VI/Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng
Để đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng
lực lãnh đạo đặc biệt của đảng ta: đó là các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939
đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc;
những quyết sỏch quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào
kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị đảng toàn quốc.
Các Hội nghị Trung ương đảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung
ương tám (5-1941) đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc.
Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội
nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên". "Bước
đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là
đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xõm, vô luận da trắng hay da vàng
để giành lấy giải phóng độc lập" (2). Hội nghị Trung ương tám do Hồ Chí Minh
chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước
là một nhiệm vụ trước tiên của đảng ta" (3). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận,
của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" (4).

Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân
tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội nghị
Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thì
Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của Việt Nam đó
là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ
dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào
mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và
bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đưa quan

19


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các
đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể.
Ba là, đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), đảng chủ trương phát triển lực lượng vũ
trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng
cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ
đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng
chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển
rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về
chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa
cách mạng.
Bốn là, đảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính
quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đó chủ trương: dự bị
những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị
trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng
một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể "lãnh

đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn" (5).
Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chớ Minh còn phân tích tình hình chiến
tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời
cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng đảng để
đảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân
tộc.
Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng
trong nước đó phát triển mạnh mẽ, đảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ trương về
sửa soạn khởi nghĩa và sắm vũ khí đuổi thù chung. Hồ Chớ Minh trong thư gửi
đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở
trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh.
Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phúng quân (22-12-1944).
20


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm
Đông Dương. Thường vụ Trung ương đảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của
cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là đánh đuổi phát-xít Nhật. đảng đã
phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa. Đây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức tuyên
truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang tổng
khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách mạng và cho rằng
những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi.
Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không
rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm giận
quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt; đồng minh sẽ đổ bộ

vào Đông Dương để đánh Nhật. Đó là sự vận dụng tư tưởng của Mác và Lê-nin về
khởi nghĩa vũ trang phối hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện
để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đó là định hướng quan trọng để
các đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị
cũng chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự
cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban
nhân

dân.

Dưới sự lãnh đạo của đảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng 41945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng
quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ
địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam mới. Tổ chức Việt Minh
phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà
phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, học
sinh, sinh viên trí thức. Theo tư tưởng của đề cương văn hóa 1943 của đảng, tổ
chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo các nhà văn hóa vào trận tuyến đấu
tranh cách mạng của dân tộc.

21


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân
Trào (Tuyên Quang) đó diễn ra Hội nghị toàn quốc của đảng họp ngày 14 và 15-81945. Hội nghị của đảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn
dân ta diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện (15-8).
đảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" (6). Mục đích
cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi
nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập trung -tập trung lực lượng vào những việc chính;

b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và
chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu tranh
của đảng là Phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị
đảng toàn quốc công bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương
"Lập nên một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập" (7).
Lệnh khởi nghĩa (Quõn lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng
ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận
trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó Hồ
Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh
dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta"(8).
Ngày 16-8-1945, Quốc dân đại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền
toàn quốc và thi hành mười chinh sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải
phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thường trực
Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương
Bằng, Dương Đức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban dân tộc
giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nghị
quyết của Quốc dân đại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy chính quyền, xây
dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập"(9).
Thực hiện Nghị quyết của đảng và Quốc dân đại hội, chỉ trong vòng hai tuần
từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc
Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung
22


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

ương đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi nghiên
cứu về vai trò lãnh đạo của đảng, cần phải thấy rõ tinh thần trách nhiệm cao, sự
năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy, tỉnh ủy,

huyện ủy và tổ chức đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà Nội (19-8),
Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa xôi, điều kiện liên lạc khó khăn đã
thể hiện điều đó. Vai trò của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, của
các đảng viên kiên trung của đảng, từ người lãnh đạo cao nhất đến người đảng
viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho đảng sự lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất.
Bài học về sự lãnh đạo của đảng trong Cách mạng Tháng Tám là đảng đã đề ra
đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đã tập hợp đoàn kết rộng rãi lực lượng của
toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, đã lựa chọn và kết hợp đúng đắn các hình
thức tuyên truyền, tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp tạo nên sức mạnh
tổng hợp, đó xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, thúc đẩy phong trào, đồng
thời dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động. Trong việc thực hiện sứ mệnh nặng
nề trước dân tộc và lịch sử, đảng đã rất coi trọng xây dựng đảng về tư tưởng chính
trị và tổ chức, rèn luyện phương pháp đấu tranh và cách lãnh đạo. Trong Cách
mạng Tháng Tám đã nổi bật năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng. Đó là
bài học quý báu cho nhiệm vụ xây dựng đảng hiện nay và thực hiện vai trò lãnh
đạo của đảng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
ngày nay.
Do chưa nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và
yếu tố dân tộc của Cách mạng Tháng Tám nên một số học giả nước ngoài đã
không thấy hết vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho
rằng, cuộc cách mạng này nổ ra là do có "sự ăn may", do lúc đó ở Đông Dương
có "khoảng trống quyền lực" (Pháp chạy, Nhật hàng, quân Đồng Minh chưa tới)
nên Việt Minh mới dễ dàng giành thắng lợi.
Một sự thật hiển nhiên mà nhiều nhà khoa học đã chứng minh là, trong hơn 80
năm đấu tranh chống thực dân Pháp, hàng chục cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt

23


TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG


của nhân dân Việt Nam nổ ra nhưng vẫn chưa giành được thắng lợi. Nguyên nhõn
chủ yếu là do các cuộc đấu tranh đó chưa có một giai cấp tiền phong lãnh đạo,
chưa có lý luận cách mạng soi đường, cũng như chưa có đường lối chiến lược,
sách lược đúng đắn, đủ sức giành thắng lợi trước những kẻ thù là chủ nghĩa đế
quốc và chủ nghĩa phát-xít. Nhưng, còn một sự thật lịch sử nữa phải được làm rõ
là, muốn đưa cách mạng đến thành công, không chỉ cần có một đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo mà còn cần có một đảng biết vượt qua bao thử thách, gay go,
khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm để từng
bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác nhận, để đi đến thành công của Cách
mạng Tháng Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách mạng khó khăn,
gian khổ. Đó là: 1 - Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào
cách mạng (1932 - 1935). 2 - Cuộc vận động những năm (1936 - 1939), với cao
trào Mặt trận Dân chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc khủng
bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới. 3 - Cuộc vận động những năm
1939 - 1945, Đảng đó sáng suốt phát triển cả lực lượng chính trị lẫn lực lượng vũ
trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành
Tổng khởi nghĩa. Chính nhờ trải qua ba cuộc vận động đó, Đảng từng bước hoàn
thiện đường lối chiến lược và sách lược. Điều đó biểu hiện ở một số vấn đề cơ
bản sau:
1 - Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến chỗ
xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc
Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không đơn
giản. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930 nêu rõ: "Sự cốt yếu của tư
sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích
phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa
cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật
24



TIÓU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ
và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì
mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa" .Phong trào đấu tranh của quần chúng năm
1930 - 1931 cũng nổi lên với khẩu hiệu "Đả thực, bài phong", không chỉ chống đế
quốc xâm lược mà cũng đả đảo cả "Trí, phú, địa, hào".
Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939, trước nguy cơ phát-xít, Đảng
thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết hợp đấu tranh dân tộc với đấu
tranh dân chủ để chống phát-xít. Điều đó bước đầu tạo nên sức mạnh đoàn kết
toàn dân, biểu hiện ở cuộc mít tinh đồ sộ với hơn hai vạn người tham dự ở nhà
Đấu xảo Hà Nội, ngày 1-5-1938.
Đến giữa năm 1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế quốc
xâu xé lẫn nhau, thời cơ giải phóng dõn tộc sẽ đến, Đảng thành lập Mặt trận Dân
tộc thống nhất phản đế Đông Dương, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược,
nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm thời hạ thấp khẩu hiệu phản phong. Tại
Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Đảng ta chỉ rõ: "Cách
mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền.
Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh
phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết
được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh,
khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc địa đó đưa vấn đề dân tộc
thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản
bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền
lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa
cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết" . Nhờ vậy, chỉ trong thời gian
ngắn, một làn sóng cách mạng phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, làm rung động bộ máy thực dân.

Tháng 6-1941, Liên Xô tuyên chiến với Đức. Sau đó, Đồng Minh quốc tế
chống phát-xít gồm Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ ra đời. Ở Việt Nam, thời cơ
giải phóng dân tộc đang đến gần. Đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước,
25


×