Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.23 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ THANH HUYỀN

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Hương

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. Nguyễn Văn Hương

Đặng Thị Thanh Huyền


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể quý
thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, quý thầy cô khoa Luật hình sự và tố
tụng hình sự đã dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời
gian nghiên cứu và rèn luyện tại trường. Tác giả xin đặc biệt cảm ơn thầy
hướng dẫn khoa học – TS. Nguyễn Văn Hương, người đã tận tâm, nhiệt tình
hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Nhận thức là một quá trình, tác giả rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp, phê bình của quý thầy cô để hoàn thiện luận văn thạc sĩ và củng cố
kiến thức của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Thị Thanh Huyền


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự


CTTP

Cấu thành tội phạm

Nxb

Nhà xuất bản


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của đề tài

1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3.

Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn


3

4.

Mục tiêu nhiên cứu của luận văn

4

5.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

4

6.

Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

4

7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

5

8.

Bố cục của luận văn


5

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM

6

ĐOẠT TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo

6

pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

6

1.1.2. Đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

7

1.2.

8

Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam từ năm 1945 đến Bộ luật hình sự năm 2015


1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình

8

sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985
1.2.2. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự

11

năm 1985
1.2.3. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)

12


1.2.4. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự

13

năm 2015
CHƯƠNG 2: TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG

16

BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
2.1.

Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản


16

2.1.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

16

2.1.2. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

17

2.1.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

19

2.1.4. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

29

2.2.

32

Dấu hiệu định khung hình phạt và hình phạt của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản

2.2.1. Dấu hiệu định khung hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài

32

sản

2.2.2. Hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

44

2.3.

47

Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm
khác

2.3.1. Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

48

2.3.2. Phân biệt với tội lừa dối khách hàng

50

2.3.3. Phân biệt với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài

52

sản
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP

56

BẢO ĐẢM THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

3.1.

Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3.1.1. Tình hình xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2010 –
2015

56
56


3.1.2. Một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định của Bộ luật

58

hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.2.

Một số biện pháp bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật hình

71

sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.2.1. Hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự

71

3.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng

74


KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sở hữu tài sản luôn được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và
bảo vệ. Mọi hành vi xâm đến quyền sở hữu tài sản đều bị nghiêm trị trước
pháp luật, đặc biệt là các hành vi bị coi là tội phạm. Bên cạnh sự phát triển
mạnh mẽ của đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tình hình tội
phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có nhiều diễn biến
phức tạp, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Loại tội phạm này không
chỉ có xu hướng tăng về số lượng vụ án và người phạm tội bị đưa ra xét xử
hàng năm mà còn có phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, gây thiệt hại lớn cho xã hội.
Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng cho thấy những
vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành (Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội này
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng cũng như trong việc chủ động phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc nhận thức khác
nhau về việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự khi tiến hành xử lý hình sự
đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cá biệt, có một số trường hợp
nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp dụng không đúng quy định pháp luật,

thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các vi phạm
pháp luật khác hoặc không phân biệt được giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác trong Bộ luật hình
sự dẫn đến tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành cũng quy định
nhiều nội dung mới nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu của công tác phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm trong tình hình mới. Trong đó quy định về tội


2

lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 cũng được
sửa đổi, bổ sung nhiều điểm quan trọng, mặc dù thể hiện những hạt nhân hợp
lý phù hợp với thực tiễn nhưng cũng bộc lộ nhiều khó khăn, thách thức khi áp
dụng quy định mới về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản này để giải quyết các vụ
việc trên thực tế.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong pháp luật hình sự Việt Nam” là cần thiết, nhằm thống nhất nhận thức
trong việc áp dụng quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật
hình sự hiện hành và Bộ luật hình sự năm 2015 sắp có hiệu lực thi hành, góp
phần khắc phục những khó khăn, vướng mắc vẫn còn tồn tại để nâng cao hiệu
quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập đến trong các giáo trình
của các trường Đại học, Học viện đào tạo về luật, sách chuyên khảo và được
các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và trong một số lĩnh
vực cụ thể dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có luận án tiến sĩ
của một số tác giả sau đây:
- Lê Đăng Doanh (2008), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Phạm Xuân Định (2008), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhà
nước, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
- Bùi Quốc Dũng (2013), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
xuất khẩu lao động ở Việt Nam, Luận án Tiễn sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát
nhân dân, Hà Nội.


3

* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình
sự và tội phạm học có luận văn thạc sĩ của một số tác giả sau:
- Trần Thị Phương Hiền (2007), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình
sự Việt Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định,
Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học có luận
văn thạc sĩ của một số tác giả sau:
- Ngô Toàn Thắng (2012), Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Trần Văn Việt (2015), Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, tuy nhiên chủ yếu mới chỉ nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều
tra tội phạm, trong đó có một số luận văn thạc sĩ cũng nghiên cứu về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự nhưng tình hình tội
phạm trong giai đoạn này đã có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp và với
việc ban hành Bộ luật hình sự năm 2015, các công trình nghiên cứu trên đã

thể hiện những điểm không còn phù hợp với thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.


4

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 2015 dưới góc độ khoa học luật hình sự.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực tiễn xét xử tội phạm này, qua đó
đề xuất các biện pháp bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm này trong thời gian tới.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn phải trả lời
cho các câu hỏi nghiên cứu dưới đây:
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã trải qua quá trình lập pháp hình sự
như thế nào? Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam là gì?
- Các dấu hiệu pháp lý, dấu hiệu định khung hình phạt và hình phạt của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam
như thế nào?
- Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội khác có dấu
hiệu pháp lý tương tự trong pháp luật hình sự Việt Nam?
- Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn tồn tại những
vướng mắc gì? Cần có những biện pháp bảo đảm thi hành quy định của Bộ

luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như thế nào?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các


5

phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, đánh giá, thống kê…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần bổ sung, từng bước hoàn thiện
vào hệ thống lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật Việt
Nam; đồng thời luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu khoa học luật hình sự.
- Về mặt thực tiễn: Những đề xuất bảo đảm thi hành quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị chỉ dẫn cho
hoạt động thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời
gian tới.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999.
Chương 3: Thực tiễn xét xử và một số biện pháp bảo đảm thi hành quy
định của Bộ luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.



6

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì “lừa đảo” được hiểu là việc“lừa
bằng thủ đoạn xảo trá để chiếm lấy của cải, tài sản”1. Tuy nhiên, đây chỉ là
cách hiểu thông thường về khái niệm “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xem xét
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ là một hiện tượng xã hội tiêu
cực.
Trong BLHS Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn được quy
định tại chương các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khái niệm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản phải thể hiện được đồng thời đặc điểm chung của các tội xâm
phạm sở hữu và đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Căn cứ vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), khoa học luật hình sự đưa ra
khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là
hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá
nhân”.

2

Khái niệm đã khái quát được những đặc điểm chung về khách thể,

chủ thể và mặt chủ quan của của các tội xâm phạm sở hữu.

Điều 139 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác…” Căn cứ vào quy định trên, khoa học
1

Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên, 2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa [tr.458]
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội [tr.9]
2


7

luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ
pháp lý như sau: “(Tội) lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối”.3 Hành vi chiếm đoạt tài sản
phải được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội biết tài sản
chiếm đoạt đang có người chiếm hữu, quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài
sản đó thành tài sản của mình. Khái niệm mới chỉ thể hiện những đặc trưng cơ
bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên đặc điểm của hành vi khách
quan.
Từ những phân tích trên, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
định nghĩa như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của
Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại đến quyền sở hữu tài
sản của nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
thông qua việc tác động lên đối tượng là tài sản đang thuộc sự quản lý của

người khác đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người đó. Chính
vì đặc điểm này mà tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xếp vào Chương XIV
- Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009).
Thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi người có
năng lực trách nhiệm hình sự. Đây cũng là đặc điểm chung của mọi tội phạm,
theo nguyên tắc có lỗi của luật hình sự thì một người chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi gây thiệt hại cho xã hội khi người đó có lỗi và vấn
đề lỗi chỉ được đặt ra khi người đó có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là họ
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội [tr.37]


8

đã đạt độ tuổi luật định và không ở trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự.
Thứ ba, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác bằng thủ đoạn gian dối. Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi
khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và ở mỗi tội cụ
thể hành vi chiếm đoạt lại có những đặc điểm riêng. Đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản thì hành vi chiếm đoạt phải được thực hiện “bằng thủ đoạn gian
dối”, tức là người phạm tội đưa ra các thông tin không đúng sự thật để người
khác tin là thật để chiếm đoạt tài sản của người đó.
Thứ tư, lỗi của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý
trực tiếp. Cũng như các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác, tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người
phạm tội biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người chiếm hữu, quản lý

nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình.
1.2. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến Bộ luật hình sự năm 2015
1.2.1. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa tích cực ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ
xã hội mới, củng cố chính quyền, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân
với việc ban hành nhiều văn bản pháp luật khách nhau: Sắc lệnh số 26-SL
ngày 25/2/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 223-SL ngày
27/11/1946 về tội biển thủ tiền công; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1949 về tội
trộm cắp tài sản quốc phòng trong thời chiến; Thông tư số 442-TTg ngày
19/01/1955 của Thủ tướng chính phủ về một số tội phạm… Tội lừa đảo chiếm


9

đoạt tài sản mới được đề cập đến một cách giản đơn là nêu tên tội danh mà
không mô tả cụ thể hành vi phạm tội trong Thông tư số 442-TTg.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm và bảo vệ có hiệu quả tài
sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân, ngày 21/10/1970 Nhà
nước ta đã ban hành hai văn bản pháp luật hình sự, đó là Pháp lệnh số 149 –
LCT về việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
số 150 - LCT về việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Trong hai pháp lệnh trên, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng đã
được quy định cụ thể thành hai tội danh tương ứng với hai hình thức sở hữu
(sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân) là tội lừa đảo để chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 10 Pháp lệnh số 149 – LCT và tội
lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân quy định tại Điều 7 Pháp
lệnh số 150 – LCT.

Điều 10 Pháp lệnh số 149-LCT quy định về tội lừa đảo để chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được mô tả là
những hành vi “dùng giấy tờ giả mạo, gian lận trong việc cân, đong, đo, đếm,
tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt tài sản…”.
Tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân được quy định tại
Điều 7 Pháp lệnh 150 – LCT. Khác với tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản xã
hội chủ nghĩa, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân được mô tả là
những hành vi “dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản…” và tách hành vi
“cân, đong, đo, đếm, tính gian, không chấp hành chính sách giá cả đã quy
định, đánh tráo loại hàng…” thành hành vi khách quan của tội gian lận để
chiếm đoạt tài sản riêng của khách hàng (Điều 10 Pháp lệnh 150 – LCT).
Thông tư liên bộ - Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Bộ Công an ngày 10/3/1973 đã hướng dẫn thống nhất nhận thức
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong hai pháp lệnh. Theo Thông tư này,


10

lừa đảo là hành vi của kẻ chiếm đoạt tài sản hiện đang do người khác quản
lý, bằng cách dùng mọi thủ đoạn gian dối làm cho người quản lý tài sản
nhầm, tưởng giả là thực mà giao tài sản.
Sau khi thống nhất đất nước, ở miền nam nước ta, Hội đồng chính phủ
Cách mạng lâm thời ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định
về tội phạm và hình phạt nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm ở miền nam lúc bấy giờ. Điều 4 và Điều 8 của Sắc luật số 03-SL/76 có
quy định về các tội xâm phạm đến tài sản công cộng và tài sản riêng của công
dân nhưng chỉ dừng lại ở việc nêu các tội danh mà không mô tả các dấu hiệu
của tội phạm, bao gồm cả tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, trong Thông
tư số 03-BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ tư pháp giải thích Sắc luật số 03-SL/76
đã phải hướng dẫn về hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản công cộng và

hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân là những “hành vi
chiếm đoạt tài sản…đang do người khác quản lý, bằng cách dùng mọi mánh
khóe, thủ đoạn gian dối, bịp bợm, làm cho người quản lý tài sản tin nhầm mà
giao cho tài sản đó.”
Như vậy, trong giai đoạn này ở hai miền nam – bắc tồn tại hai văn bản
pháp luật khác nhau cùng quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, đó là hai Pháp lệnh ngày 21/10/1970
và Sắc luật số 03-SL/76, gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế. Vì vậy,
để áp dụng thống nhất pháp luật hình sự, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Sơ thảo Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 hướng dẫn việc thi hành pháp luật
thống nhất, theo văn bản này thì ở miền bắc vẫn tiếp tục áp dụng hai Pháp
lệnh ngày 21/10/1970 và ở miền nam áp dụng Sắc luật số 03-SL/76 nhưng có
tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ
được dấu hiệu của các tội phạm và các mức hình phạt hợp lý hơn. Tuy nhiên,
đây chỉ là văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao nhằm thống nhất


11

đường lối xét xử, cần thiết phải có một văn bản pháp luật hình sự thống nhất
được áp dụng trên toàn quốc.
1.2.2. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm
1985
Trong BLHS năm 1985, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
được quy định tại Điều 134 và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân
được quy định tại Điều 157. Về cơ bản, CTTP của các tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong BLHS năm 1985 được mô tả tương tự như hai Pháp lệnh ngày
21/10/1970 là những hành vi “bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản…”
và được sửa đổi, bổ sung một số nội dung để phù hợp với tình hình diễn biến
mới của tội phạm.

Với những thành tựu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm
1986, nền kinh tế nước ta có sự phát triển mạnh mẽ nhưng tình hình tội phạm
xâm phạm sở hữu cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Nhằm đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đấu tranh chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ
sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997.
Trong sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất năm 1989 đã bổ sung thêm tình tiết
“có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung tăng nặng cho cả hai tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của công dân. Lần sửa đổi, bổ sung thứ hai năm 1991 đã nâng khung hình
phạt cao nhất đối với cả hai tội đến tử hình. Trong sửa đổi bổ sung lần thứ ba
năm 1992 có quy định thêm tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi
dụng danh nghĩa cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để phạm tội” đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Trong sửa đổi, bổ sung lần cuối
cùng năm 1997, tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn được tách thành một tội


12

độc lập là tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội
chủ nghĩa (Điều 134a).
1.2.3. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng BLHS năm 1985 vẫn
bộc lộ nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Để đáp
ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh chống tội phạm nói chung và các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng, BLHS năm 1999 ra đời đã nhập hai chương của
BLHS năm 1985 là chương IV và chương VI thành một chương XIV "Các tội
xâm phạm sở hữu", trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại
Điều 139.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) vẫn được mô tả là hành vi “bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài
sản…” và có một số nội dung mới so với quy định của BLHS năm 1985, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh
giới giữa hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị coi là tội phạm với hành vi lừa
đảo chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định tại Điều 139 BLHS
năm 1999 thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm nghìn
đồng trở lên hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm thì mới coi là tội phạm. Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLHS số 37/2009/QH12 đã nâng giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ
mức năm trăm ngàn đồng lên mức hai triệu đồng để phù hợp với tình hình
thực tiễn.
Thứ hai, các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể
hơn so với BLHS năm 1985 và bỏ những tình tiết không phù hợp với lý luận


13

và thực tiễn xét xử như “phạm tội có nhiều tình tiết quy định ở khoản 2 thì
thuộc trường hợp ở khoản 3, có nhiều tình tiết quy định ở khoản 3 thì thuộc
trường hợp quy định ở khoản 4”.
Thứ ba, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) bổ sung thêm
hình phạt chính là hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Hình phạt bổ sung của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy
định ngay trong điều luật (khoản 5 Điều 139).
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với việc quy định một tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) đã khắc phục được hạn chế của BLHS
năm 1985, theo đó, mọi hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc bất cứ hình

thức sở hữu nào cũng đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng một tội
danh và trong cùng một phạm vi chế tài của điều luật (Điều 139). Qua đó thể
hiện sự đối xử bình đẳng của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mọi thành phần kinh tế thuộc các hình thức sở hữu khác nhau.
Đồng thời, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng đã quy định
tương đối chặt chẽ và hoàn thiện về các dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản cũng như hình phạt đối với người phạm tội, nhằm tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc áp dụng trên thực tế.
1.2.4. Quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm
2015
Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 với việc ghi nhận và đảm bảo thực
hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009). BLHS năm 2015 được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực
tiễn thi hành BLHS năm 1999; kế thừa và phát triển các quy định còn phù
hợp, đồng thời bổ sung những quy định mới để giải quyết những vướng mắc,
bất cập đang đặt ra trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.


14

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 thuộc
Chương XVI – Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 2015. Về cơ bản,
các dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 vẫn
tiếp tục được quy định như quy định của BLHS năm 1999. Theo quy định tại
Điều 174 BLHS năm 2015, người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài
sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên thì bị coi là phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản; nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000
đồng thì hành vi bị coi là tội phạm khi thuộc trường hợp sau:
Một là, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt

tài sản mà còn vi phạm. Trường hợp này tương tự như quy định của BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hai là, người phạm tội đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội
quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS
năm 2015 chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trường hợp này Bộ luật
2015 đã quy định ngay trong Bộ luật dưới dạng liệt kê các tội cụ thể để xem
xét trường hợp người phạm tội “đã bị kết án” thay vì quy định một cách khái
quát “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản” như BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) và sau đó hướng dẫn “tội chiếm đoạt tài sản” là những tội
nào trong Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCABTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương
XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999.
Ba là, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội; hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của
người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc
biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Đây là hai trường hợp mới được
quy định trong BLHS năm 2015 để đáp ứng yêu cầu phòng chống tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tăng cường bảo vệ quyền tài sản, đặc


15

biệt là đối với các tài sản có giá trị về tinh thần của người dân. Tuy nhiên,
việc xác định một tài sản được coi là có “giá trị đặc biệt về mặt tinh thần” rất
trừu tượng, không có chuẩn mực thống nhất và chủ yếu phụ thuộc vào thái độ
chủ quan của người bị hại.
BLHS năm 2015 bỏ các tình tiết định khung có tính chất định tính như
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng” của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và
thay thế bằng các tình tiết định khung tăng nặng mang tính định lượng như
“chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều này”... Việc thay thế các tình tiết định tính bằng các tình tiết
định lượng dựa trên giá trị tài sản bị chiếm đoạt tuy đảm bảo tính khách quan
và thống nhất cho BLHS nhưng cũng thể hiện những bất cập nhất định.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu và
khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự, tác
giả đã đưa ra khái niệm cụ thể về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và phân tích
các đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, tác giả nghiên
cứu khái quát quá trình lập pháp của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm
1945 cho đến Bộ luật hình sự năm 2015, cho thấy quy định về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản ngày càng được bổ sung và dần hoàn thiện để đáp ứng yêu
cầu của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này trong từng giai
đoạn cụ thể. Việc nghiên cứu những nội dung trên nhằm khái quát chung về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam, góp phần xây
dựng cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý cho việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong các chương tiếp theo của luận văn.


16

CHƯƠNG 2
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 4
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) (sau đây gọi là BLHS) như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hình chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa

án tích mà còn vi phạm thì…”
2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2.1.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội xâm
phạm sở hữu. Do đó, khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ.5 Quan hệ sở hữu được xác lập
giữa một bên là chủ tài sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
của mình và một bên là những người khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu
của chủ tài sản đó. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm mất khả năng
chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế của chủ tài sản, vi phạm nghĩa vụ tôn
4
Bộ luật hình sự năm 2015 đã được ban hành ngày 27/11/2015 nhưng chưa có hiệu lực thi hành cho đến khi
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (theo Nghị quyết số
144/2016/QH13 ngày 29/6/2015 của Quốc hội khóa XIII). Vì vậy, luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự hiện hành – BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), đồng thời có sự
đánh giá, so sánh với quy định về tội này trong Bộ luật hình sự năm 2015.
5
Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 169) và Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 163) đều ghi nhận quyền sở hữu
của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo đó, không ai có thể bị hạn
chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của mình.


17

trọng quyền sở hữu của chủ tài sản, qua đó xâm phạm đến quan hệ sở hữu
được pháp luật bảo vệ.
Mọi tội phạm đều có đối tượng tác động nhất định. Đối tượng tác động

của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác
động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là tài sản.6
Tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là
tài sản đang nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bởi đặc trưng của hành vi
chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng chiếm hữu, quản
lý tài sản trên thực tế và tạo khả năng đó cho người chiếm đoạt, vì vậy chỉ khi
tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu, quản lý chủ tài sản thì mới nói đến hành
vi “làm mất” khả năng đó. Do đó, tài sản bị thất lạc (bị mất, bị bỏ quên, bị
đánh rơi) không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt nói chung và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
2.1.2. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS chỉ có thể là cá nhân. Cá
nhân phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Trong BLHS Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực
trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các quy định đó,
khoa học luật hình sự đưa ra định nghĩa về người có năng lực trách nhiệm

6

Tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản.


18

hình sự “là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc

trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự”.7
Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt
độ tuổi nhất định và sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian tiếp theo.
Theo BLHS Việt Nam thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác;
người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Tuy nhiên, năng lực trách nhiệm hình sự cũng có thể bị hạn chế hoặc bị
loại trừ hoàn toàn nếu người đó bị mắc các bệnh làm rối loạn hoạt động bình
thường của bộ não. Chính vì vậy, luật hình sự ngoài việc quy định độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự còn quy định tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 13 BLHS thì người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình, thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự mà phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Trong thực tiễn áp dụng, khi đánh giá về năng lực trách nhiệm hình sự
của một cá nhân chỉ đòi hỏi việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
nếu có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người đó
thì mới cần kiểm tra xem có phải là trường hợp ở trong tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự hay không.
Căn cứ vào những quy định trên, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi trường hợp phạm tội hoặc người
từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi đối với trường hợp phạm tội theo quy
định tại khoản 3, khoản 4 Điều 139 BLHS và không thuộc trường hợp không
7

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập I), Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội [tr. 123]



×