Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.36 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH XUÂN TÙNG

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dương

HÀ NỘI, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng bản thân
và được sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Triều Dương. Các nội dung
nghiên cứu, số liệu thống kê trong công trình nghiên cứu này là trung thực.
Các thông tin sử dụng trong luận văn có nguồn gốc, có trích dẫn và chủ thích
rõ ràng. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung của mình.
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

TS. Nguyễn Triều Dương

Hà Nội, ngày 04/8/2016
Tác giả luận văn


Trịnh Xuân Tùng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

2. BLTTDS 2011:

Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ
sung năm 2011

3. TTDS:

Tố tụng dân sự

4. PTDSST:

Phiên tòa dân sư sơ thẩm

5. HĐXX:

Hội đồng xét xử

6. PLTTGQVADS:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân
sự


7. TAND:

Tòa án nhân dân

8. TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

9. VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài....................................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài................................................................. 4
5. Bố cục luận văn......................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................... 5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRANH TỤNG

5

TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM.......................................................
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng dân sự.... 5
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tố tụng dân sự.............................................. 5
1.1.2. Đặc điểm tranh tụng trong tố tụng dân sự.......................................... 9

1.1.3. Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng dân sự...................................... 11
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ 13
thẩm...............................................................................................................
1.2.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm............................ 13
1.2.2. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm...................... 14
1.2.3. Ý nghĩa tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm................................ 17
1.3. Cơ sở tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm....................................... 19
1.3.1. Cơ sở lý luận....................................................................................... 19
1.3.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................... 21
1.3.3. Cơ sở pháp lý......................................................................................

22

1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ

25

thẩm..............................................................................................................
1.5. Tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm theo pháp luật của một số

30

nước trên thế giới..........................................................................................
1.5.1. Pháp luật Anh - Mỹ............................................................................. 30
1.5.2. Pháp luật Pháp.................................................................................... 33


1.5.3. Pháp luật Liên bang Nga.................................................................... 34
1.5.4. Pháp luật Nhật Bản............................................................................. 36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


38

Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT

39

NAM VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM............
2.1. Sơ lược các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tranh tụng 39
trong các giai đoạn........................................................................................
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945.................................................................. 39
2.1.2. Giai đoạn 1945 đến 1980.................................................................... 39
2.1.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004................................................................ 41
2.1.4. Giai đoạn từ 2005 đến trước khi có BLTTDS 2015............................ 42
2.1.5. Giai đoạn từ khi có BLTTDS 2015 ..................................................... 43
2.2. Các quy định của BLTTDS 2015 về tranh tụng tại PTDSST................ 45
2.3. Các quy định của BLTTDS 2015 về bảo đảm tranh tụng tại PTDSST.. 56
2.3.1. Các đương sự thực hiện quyền tranh tụng tại PTDSST một cách 56
bình đẳng, công khai và đúng pháp luật. Các phán quyết của Tòa án đều
dựa vào những chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh đã được quy
định công khai tại phiên tòa.........................................................................
2.3.3. Quy định quyền được biết trước yêu cầu của đương sự.....................

57

2.3.4. Quy định về sự có mặt của các đương sự...........................................

60

2.4. Các quy định của BLTTDS 2015 về vai trò của Tòa án và người bảo


60

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.........................................................................
2.4.1. Vai trò của Tòa án............................................................................... 60
2.4.2. Vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự... 62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................

65

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA 66
DÂN SỰ SƠ THẨM TẠI TỈNH THANH HÓA VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ ............................................................................................................
3.1. Thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại tỉnh

66


Thanh Hóa.....................................................................................................
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của TAND

66

tỉnh Thanh Hóa.............................................................................................
3.1.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại tỉnh Thanh

67

Hóa................................................................................................................

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa dân

72

sự sơ thẩm.....................................................................................................
3.3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng và mở rộng

76

tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm........................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.............................................................................

81

PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 85


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng trong tố tụng dân sự có vai trò rất lớn trong việc giải quyết
vụ án dân sự, tìm ra sự thật khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong đó tranh tụng tại phiên tòa
dân sự có vai trò quan trọng nhất. Toàn bộ chứng cứ, tài liệu, các tình tiết của
vụ án được đưa ra xem xét và đánh giá công khai, khách quan và toàn diện
cùng với lý lẽ của các chủ thể. Xác định được tầm quan trọng của hoạt động
tranh tụng trong tố tụng dân sự nói chung và tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ
thẩm nói riêng, tại Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 đều nhấn mạnh phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh
tụng, việc nâng cao chất lượng tranh tụng dân chủ tại các phiên tòa xét xử
được coi là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
BLTTDS 2004 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/6/2004, có
hiệu lực ngày 01/01/2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS
năm 2011 bước đầu đã xây dựng được một cơ chế tranh tụng trong tố tụng
dân sự tương đối cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã bộc lộ nhiều
điểm hạn chế, vướng mắc không ít quy định còn bỏ trống hoặc có những vấn
đề quy định còn chung chung, tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc
áp dụng pháp luật không thống nhất. Chính những điều này đã làm cho hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả thực hiện trên
thực tế chưa cao.
Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 25/11/2015 Quốc hội đã
thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thay thế cho BLTTDS 2011 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Nhằm thể chế hóa quan điểm cải cách tư
pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp, đồng thời cụ thể hóa "Nguyên tắc


2

tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" đã được Hiến pháp 2013 quy định,
theo tinh thần đó BLTTDS 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng
trong xét xử” (Điều 24 BLTTDS), đây là một trong những nội dung quan
trọng của BLTTDS.
Tuy nhiên, BLTTDS 2015 là Bộ luật mới ra đời, trên cơ sở kế thừa và
khắc phục những hạn chế của các quy định trước đó có đạt được hiệu quả hay
không vẫn phải dựa vào kết quả thực tiễn áp dụng.

Việc nghiên cứu đề tài “Tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm qua
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thanh Hóa” sẽ chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong
quá trình giải quyết, xét xử các vụ án dân sự khi áp dụng BLTTDS 2011 và
chỉ ra được những điểm mới của BLTTDS 2015 cũng như việc khắc phục
những thiếu sót của BLTTDS 2011.
Do đó, việc lựa chọn đề tài “Tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thanh Hóa” là cần thiết trong bối cảnh
BLTTDS 2015 vừa có hiệu lực từ ngày 01/7/2016.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, ở nước ta vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân sự đã
thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu khoa học. Một số công trình
nghiên cứu của một số tác giả có liên quan như: Luận văn thạc sĩ của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà "Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn" đã bảo vệ thành công tại trường Đại học Luật Hà Nội năm
2002; “Mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Minh Anh, năm 2003; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Trần Thị Thu
Hà về “Tranh tụng trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải cách tư pháp” năm
2011...
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý
như: “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của tác giả Trần Văn Độ đăng
trên tạp chí khoa học pháp lý số 4/2004; “Bàn về tranh tụng tại phiên tòa
trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động” của tác giả Phạm Công Bảy đăng trên


3

đặc san Nghề luật số 5/2003; Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở “Tranh tụng trong
tố tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cả cách tư pháp” bảo vệ tại trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2010...
Những công trình nghiên cứu trên đều được thực hiện trước khi có

BLTTDS 2015, đến nay nhiều vấn đề pháp lý đã được sửa đổi, bổ sung và
cũng có nhiều chuyển biến về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị. Kế thừa sự
phát triển, những công trình nghiên cứu đó là những nguồn tài liệu tham khảo
vô cùng quý giá trong việc nghiên cứu đề tài này của tác giả. Bởi lẽ trên kết
quả các công trình nghiên cứu đó, việc nghiên cứu đề tài này tìm ra tính mới,
không bị trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
- Mục đích nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
theo tinh thần cải cách tư pháp. Từ đó giải quyết về mặt lý luận các khái niệm
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như các vấn đề có liên quan. Trên
cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, nêu lên thực
tiễn việc tranh tụng tại PTDSST trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các
quy định của pháp luật TTDS về tranh tụng tại PTDSST.
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự hiện hành về tranh tụng trong TTDS và tranh tụng tại PTDSST và
tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh
tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa những năm gần
đây, chỉ ra những thành tựu đạt được và những vướng mắc, bất cập hiện nay.
Ngoài ra, còn tiến hành nghiên cứu thêm pháp luật một số nước trên thế giới
liên quan đến vấn đề tranh tụng.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong giới hạn đề tài, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh tụng trong TTDS, tranh tụng tại
PTDSST và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh


4

Thanh Hóa; những sửa đổi, bổ sung có liên quan đến tranh tụng trong

BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2011; định hướng những cải cách, đề ra
những phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật liên đến đến tranh
tụng tại PTDSST nhằm nâng cao hiệu quả của tranh tụng trong giai đoạn này.
Đề tài chỉ nghiên cứu về tranh tụng tại PTDSST, không đề cập đến vấn đề
tranh tụng diễn ra tại các giai đoạn, các cấp xét xử khác của tố tụng dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên
cứu, đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp thống kê.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tranh tụng tại phiên tòa dân
sự sơ thẩm
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam về tranh
tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
Chương 3: Thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
tại tỉnh Thanh Hóa và một số kiến nghị


5

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng
dân sự
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tố tụng dân sự

Hệ thống pháp luật trên thế giới được phân chia thành hai hệ thống
pháp luật chủ yếu bao gồm: Hệ thống pháp luật án lệ (common Law) và hệ
thống pháp luật dân sự (Civil law). Các nước theo truyền thống án lệ
(Common Law) áp dụng loại hình tố tụng tranh tụng. Theo đó, pháp luật tố
tụng dân sự (TTDS) luôn đề cao vai trò của các bên đương sự trong việc thực
hiện nghĩa vụ chứng minh, việc dẫn dắt nêu câu hỏi và tranh luận thuộc về các
đương sự và luật sư giữa các bên, còn Thẩm phán chỉ là người thứ ba giữ vai
trò trung gian, trọng tài và ra phán quyết. Ở các nước theo truyền thống pháp
luật dân sự (Civil Law) thì áp dụng loại hình tố tụng xét hỏi. Vì vậy, pháp luật
TTDS đề cao vai trò chủ động của thẩm phán trong việc chứng minh sự việc
để ban hành phán quyết. Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là người
trọng tài mà là người điều khiển phiên tòa, bảo đảm phiên tòa được tiến hành
theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
Ngay từ các thời đại xa xưa của lịch sử xã hội loài người khái niệm
tranh tụng đã được biết đến. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật thì
loai hình tố tụng đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là tố tụng tranh tụng. Loại tố
tụng này được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó nó được đưa vào La Mã với
tên gọi “Thủ tục hỏi đáp liên tục”3. Trải qua các thời kỳ, tranh tụng tiếp tục kế
thừa, phát triển, từng bước được khẳng định và đến nay được áp dụng hầu hết
ở các nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.
Nhà pháp luật Việt Pháp (2002), Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh
tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý Thẩm
phán, Hà Nội, tr.2
3


6

Đến nay, pháp luật nhiều nước trên thế giới đã quy định tranh tụng là
một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự. Chẳng hạn như, Bộ luật tố tụng

dân sự Nga đã quy định nguyên tắc tranh tụng tại Điều 12 của Bộ luật này
“1.Việc xét xử được tiến hành theo nguyen tắc tranh tụng và bình đẳng giữa
các bên. 2. Tòa án điều khiển quá trình tranh tụng một cách độc lập, khách
quan, vô tư, giải thích cho những người tham gia tố tụng về quyền và nghĩa
vụ của họ, báo trước về hậu quả pháp lý do thực hiện hoặc không thực hiện
hành vi tố tụng, giúp đỡ những người tham gia tố tụng trong việc thực hiện
quyền của mình tạo mọi điều kiện để việc nghiên cứu chứng cứ được toàn
diện và đầy đủ, xác định sự thật của vụ án và áp dụng đúng đắn những quy
định của pháp luật khi giải quyết những vụ án dân sự.”
Ở Việt Nam sau khi có Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 2/1/2002 về Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới của Bộ Chính trị
thì vấn đề tranh tụng được các nhà lý luận và những người làm công tác thực
tiễn đặc biệt quan tâm. Nhưng đến nay, vẫn đang còn tồn tại cách hiểu và
nhận thức chưa thống nhất về tranh tụng.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Hán Việt từ điển thì tranh tụng có
nghĩa là “cái lẽ, cãi nhau để tranh lẽ phải”4. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt
thì tranh tụng có nghĩa là “kiện tụng”5. Theo cách giải thích này, thì tranh
tụng chính chính là quá trình giải quyết vụ án dân sự, theo đó các bên đương
sự được tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ và chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khái niệm tranh tụng được ghi nhận trong Từ điển luật học năm 2006:
“Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố
Thiều Chửu (1993), Hán - Việt từ điển, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh,
tr.621.
5 Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn Hóa - thông tin, Hà Nội, tr.1686.
4


7


tụng, có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để
bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi
ích của phía đối lập”6. Khái niệm này, mặc dù đã thể hiện được một số nội
dung cơ bản nhất của tranh tụng, tuy nhiên mới chỉ nhìn nhận tranh tụng là
những hoạt động riêng lẻ của các chủ thể là các bên tham gia tố tụng, mặt
khác khi xác định tranh tụng là hoạt động được thực hiện bởi các bên tham
gia tranh tụng, thiếu đi một chủ thể quan trọng là Tòa án.
Tranh tụng là một thuật ngữ pháp lý được tiếp cận theo nhiều góc độ
khác nhau. Về lý luận, do khái niệm tranh tụng chưa được chính thức phát
điển hóa trong luật nên còn tồn tại nhiều quan điểm vể tranh tụng trong tố
tụng dân sự:
Quan điểm thứ nhất: “Tranh tụng là từ khi tố quyền được hành xử cho
đến khi có một phán quyết của Tòa án”7.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh tụng chỉ là một giai đoạn tập
trung trong phiên tòa xét xử, được thể hiện bằng việc đưa ra chứng cứ và
tranh luận, đối đáp dựa trên các chứng cứ đó. Tòa án ra phán quyết giải
quyết vụ án dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa”8.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Tranh tụng là việc các bên đương sự đưa
ra các chứng cứ, các căn cứ pháp lý, lập luận,tranh luận, đối đáp với nhau

Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Khai trí, Sài Gòn, tr.807808
6

7

Nguyễn Mạnh Bách (1996), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam giải lược, Nxb Đồng Nai,

tr.63
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân
sự (2), Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr.19

8


8

nhằm bảo vệ quyền lợi của mình và Tòa án chủ yếu dựa trên kết quả tranh
tụng giữa các bên để ra phán quyết giải quyết vụ án, vụ việc dân sự”9.
Từ quá trình nghiên cứu các quan điểm trên, có thể nói nếu tranh tụng
được hiểu như quan điểm thứ nhất thì chưa đầy đủ bởi quan điểm này mới chỉ
coi tranh tụng là một quá trình bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện cho đến
khi có bản án, quyết định của Tòa án mà chưa thể hiện được bản chất, ý nghĩa
của tranh tụng. Nếu tranh tụng được hiểu theo quan điểm thứ hai thì tuy phần
nào nói lên được bản chất của tranh tụng nhưng nội hàm của khái niệm này lại
quá hẹp. Theo đó, tranh tụng trong TTDS chỉ diễn ra ở phiên tòa, tranh tụng
trong TTDS đồng nghĩa với tranh tụng tại phiên tòa và chỉ giới hạn trong
phần tranh luận của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa là chưa đầy đủ. Về
ngữ nghĩa, thuật ngữ tranh tụng trong TTDS và tranh tụng tại phiên tòa là
khác nhau. Thực chất tranh tụng tại phiên tòa chỉ là sự biểu hiện tập trung cao
nhất của tranh tụng TTDS. Theo quan điểm thứ ba, mặc dù khái niệm đã phản
ánh được bản chất của tranh tụng nhưng lại không khái quát được giới hạn
của quá trình tranh tụng, cụ thể là hoạt động tranh tụng sẽ được bắt đầu và kết
thúc ở thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Tôi cho rằng, khái niệm tranh tụng dù được nhìn nhận dưới góc độ nào
thì cũng là phương thức tố tụng để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trước Tòa án đồng thời để Tòa án tìm ra được sự thật khách quan
của vụ án. Nói cách khác, tranh tụng là quá trình hoạt động của các chủ thể tố
tụng được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ban
hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong hoạt động tranh tụng,
các chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển của Tòa án được đưa ra chứng cứ,
lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận để bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của mình theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định và
9

Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Sđd, tr.19


9

Tòa án đưa ra phán quyết vụ án dân sự căn cứ vào kết quả tranh tụng của các
chủ thể tranh tụng. Vì vây, tranh tụng được coi là một phương thức tố tụng để
Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án dân sự và đương sự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Qua những phân tích trên, khái niệm tranh tụng trong tố tụng dân sự
cần được hiểu thống nhất như sau: “Tranh tụng trong TTDS là quá trình làm
rõ sự thật khách quan cho vụ án được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và
kết thúc khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Theo
đó, các chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển của Tòa án được đưa ra chứng
cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự
quy định”.
1.1.2. Đặc điểm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, tranh tụng bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện cho đến khi
có bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Nghệ thuật tranh tụng chính là nghệ thuật sử dụng chứng cứ. Về bản
chất, tranh tụng trong TTDS là việc các bên đương sự cung cấp các chứng cứ,
đưa ra các căn cứ pháp lý, tham gia lập luận, đối đáp, tranh luận với nhau để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Tuy nhiên, trong
thực tiễn, tranh tụng đôi khi được hiểu đồng nghĩa với tranh luận tại phiên tòa.
Nếu chỉ thu hẹp việc tranh tụng trong phần tranh luận tại phiên tòa thì không
đạt được mục đích của tranh tụng đặt ra. Để các bên có thể lập luận, bảo vệ

được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thì các bên đương sự
phải đưa ra lập luận và chứng cứ, tài liệu trước phiên tòa. Do đó, tranh tụng
trong tố tụng dân sự không đồng nghĩa với tranh luận tại phiên tòa. Hoạt động
tranh tụng được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện đến khi có bản án hoặc
quyết định giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.


10

Thứ hai, trong quá trình tranh tụng, nghĩa vụ thu thập chứng cứ và
trách nhiệm chứng minh thuộc về các đương sự.
Trong vụ án dân sự, các đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội
dung được Tòa án xem xét giải quyết, họ phải có trách nhiệm làm sáng tỏ vấn
đề, chứng tỏ cho Tòa án và những người tham gia tố tụng khác thấy được sự
đúng đắn trong yêu cầu của mình, đồng thời chứng minh rằng bị đơn phải có
nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình. Nguyên tắc tối cao trong TTDS là nguyên
tắc quyền tự định đoạt của các đương sự. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự quy
định các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, đồng nghĩa với
nghĩa vụ chứng minh để làm rõ các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án, các
cơ sở cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự phía bên kia là có căn
cứ và hợp pháp. Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách
quan, đúng pháp luật, giữa các đương sự phải được bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ tố tụng dân sự. Trong quá trình tranh tụng, các đương sự có quyền
trao đổi, được biết những chứng cứ do bên đối phương cung cấp, được quyền
đưa ra các căn cứ pháp lý để chứng minh biện luận cho quyền lợi hợp pháp
của mình trước Tòa án. Trong quá trình tranh tụng, đương sự có nghĩa vụ thu
thập chứng cứ, Tòa án không chủ động thu thập chứng cứ mà chỉ thu thập
chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng khi xét thấy cần thiết để đảm
bảo ban hành quyết định khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Trên cơ
sở những chứng cứ, căn cứ pháp lý và lập luận của các đương sự đưa ra, Tòa

án là người đánh giá, đối chiếu, kiểm tra chứng cứ, lựa chọn quy phạm pháp
luật phù hợp để giải quyết vụ án. Chính đặc trưng này tạo ra sự khác biệt cơ
bản giữa tranh tụng TTDS với tranh tụng tố tụng hình sự.Trong tố tụng hình
sự, nghĩa vụ thu thập chứng cứ, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thứ ba, trong hoạt động TTDS đương sự giữ vai trò trung tâm. Tòa án
tham gia tranh tụng với vai trò như một trọng tài. Các phán quyết của Tòa án


11

phải căn cứ vào kết quả tranh tụng của các bên, trên cơ sở xem xét khách
quan, toàn diện, đầy đủ, cụ thể tất cả các chứng cứ để Tòa án áp dụng luật ban
hành phán quyết.
Thứ tư, các hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia vào quá trình tranh
tụng tuân theo trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định. Pháp luật tố
tụng dân sự và hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án nói chung và các chủ thể
tham gia tố tụng dân sự nói riêng là hai mặt không thể tách rời của một quy
trình tố tụng. Pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở pháp lý của hoạt động tố tụng
dân sự, vì vậy khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình các chủ thể tham gia
vào quá trình tranh tụng phải tuân theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục và
thời hạn do pháp luật quy định. Việc tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và thời
hạn do pháp luật quy định nhằm mục đích để cho việc điều hành công lý được
phân minh, có hiệu quả và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức
1.1.3. Ý nghĩa của tranh tụng trong tố tụng dân sự
Để đảm bảo cho một nền công lý công bằng, trong sạch và trung thực
cần phải có tranh tụng trong tố tụng dân sự, do đó tranh tụng không chỉ bảo
đảm sự công bằng, bình đẳng về mọi mặt pháp lý cho mọi cá nhân, tổ chức
mà còn tạo điều kiện cho việc đạt được sự bình đẳng, công bằng về thực tế

của các cá nhân, tổ chức đó.
Thứ nhất, tranh tụng đã tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Với việc giải quyết vụ án dân sự, khi các đương sự tham gia vào hoạt
động tranh tụng, các đương sự có điều kiện trình bày, đưa ra các chứng cứ, lỹ
lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận để chứng minh cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của mình. Khi tham gia vào tranh tụng, các đương sự phải chủ động, nỗ lực,
tích cực hơn trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ


12

để chứng minh, lập luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Kết quả
tranh tụng là cơ sở quan trọng để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên các
đương sự phải nỗ lực để thực hiện nghĩa vụ chứng minh, tìm ra căn cứ pháp lý
thuyết phục Hội đồng xét xử về yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp,
đồng thời nhằm bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia.
Thứ hai, tranh tụng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
dân sự giúp cho Tòa án giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác và
đúng pháp luật.
Thứ ba, tranh tụng trong tố tụng dân sự thể hiện tính chất dân chủ,
công khai và minh bạch của TTDS.
Trong quá trình thực hiện tranh tụng, các đương sự, người đại diện của
đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đều được
bình đẳng, chủ động, công khai trong việc đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp
lý và đối đáp với nhau để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Tất cả các
đương sự đều có cơ hội trình bày yêu cầu, chứng cứ, lỹ lẽ, lập luận của mình
và được biết các yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ, lập luận của phía bên kia một cách
công khai. Tòa án đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng để đảm bảo cho
quá trình này được thực hiện đúng theo quy định pháp luật, trên cơ sở đó sử

dụng kết quả tranh tụng của các bên để giải quyết vụ án dân sự một cách
khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
Do đó, tranh tụng không những tạo điều kiện cho đương sự thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình mà qua quá trình tranh tụng, Tòa án
xác định được sự thật khách quan của vụ án dân sự. Từ cơ sở kết quả tranh
tụng, Tòa án giải quyết được các yêu cầu của các đương sự, xác định các
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên và ban hành phán quyết theo đúng quy định
của pháp luật.


13

1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa
dân sự sơ thẩm
1.2.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
Phiên tòa dân sự sơ thẩm (PTDSST) thể hiện đầy đủ nhất bản chất của
quá trình tranh tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia
đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên tòa,
bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến, đánh giá và đề xuất của các
bên tham gia tố tụng, Tòa án tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án
và đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách
quan và đúng pháp luật.
Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối
đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết
của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải
quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Tranh tụng tại PTDSST được
tiến hành công khai, bằng lời nói để làm rõ các yêu cầu, căn cứ thực tiễn và
pháp lý của các yêu cầu đó cũng như các tình tiết khác liên quan đến việc xác
lập lại cho đúng các quan hệ pháp luật dân sự mà các bên tham gia hoặc quan

hệ mà pháp luật điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của các bên khi có sự kiện
pháp lý xảy ra theo đó xác định đúng các quyền, nghĩa vụ của mỗi bên theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm là quá trình làm rõ
sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa giữa các bên có quyền đối lập
nhau, phản kháng với nhau bằng các chứng cứ, lý lẽ, lập luận tại phiên tòa
nhằm chứng minh rằng những yêu cầu hoặc phản bác yêu cầu của mình đối
với bên kia là xác đáng, có căn cứ, cơ sở và đúng pháp luật, ngược lại những
yêu cầu hoặc phản bác của bên kia là không có căn cứ và không đúng pháp
luật.


14

1.2.2. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
Thứ nhất, chủ thể của tranh tụng tại PTDSST là các đương sự. Họ giữ
vai trò chủ động, quyết định kết quả của quá trình tranh tụng.
Đương sự tham gia tranh tụng xuất phát từ chính yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích của họ trong vụ án, kết quả tranh tụng ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền và lợi ích của bản thân các đương sự. Hơn nữa, các vụ án dân sự xuất
phát chủ yếu là do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự. Vì
vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thì các
đương sự có trách nhiệm chứng minh cho Tòa án và những người tham gia tố
tụng khác thấy được rằng yêu cầu của mình là đúng đắn và có căn cứ, đồng
thời đưa ra được những tài liệu, chứng cứ, lập luận chứng minh rằng đương sự
bên kia phải có nghĩa vụ đối với mình. Trong suốt quá trình tố tụng, các bên
đương sự bình đẳng với nhau và liên tục trao đổi với nhau những chứng cứ, lý
lẽ, căn cứ hợp pháp của mình để chứng minh, biện hộ cho quyền lợi ích hợp
pháp của mình trước Tòa án trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Thứ hai, trong quá trình tranh tụng Tòa án có vai trò quan trọng như

là một Trọng tài giải quyết vụ án.
Đương sự là chủ thể của quá trình tranh tụng, nhưng để họ thực hiện
được việc này thì vai trò của Tòa án rất quan trọng. Để đảm bảo sự công
bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì trong quá trình tranh
tụng, Tòa án phải thực hiện đúng chức năng của mình là người tài phán công
minh, xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện tất cả các chứng cứ, căn cứ pháp
lý, lí lẽ, lập luận mà các bên đương sự đưa ra trong quá trình tranh tụng. Tòa
án phải hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho các bên đương sự thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ. Tòa án có vai trò quan trọng trong
việc điều khiển quá trình tranh tụng, bảo đảm quá trình tranh tụng diễn ra một
cách rõ ràng, trung thực và được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật
TTDS. Mọi phán quyết của vụ án phải căn cứ vào kết quả của quá trình tranh
tụng giữa các bên đương sự.


15

Thứ ba, quá trình tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành một cách
công khai, trực tiếp và bằng lời nói.
Tại phiên tòa, các bên đương sự được trực tiếp trình bày các yêu cầu,
đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý bằng lời nói. Việc các bên đương sự
trực tiếp trình bày, tranh luận bằng lời nói là một yếu tố quan trọng để đảm
bảo tính khách quan, trung thực trong lời khai của họ, giúp hội đồng xét xử
giải quyết các yêu cầu của đương sự, ra các quyết định chính xác nhất về việc
giải quyết vụ án. Những chứng cứ, tài liệu nào đó nếu không được trực tiếp
thẩm tra công khai tại phiên tòa đều không được dùng làm căn cứ cho các
quyết định của Tòa án.
Thứ tư, về căn cứ tranh luận tại PTDSST, chủ thể tranh luận thực hiện
tranh luận về các chứng cứ và chứng minh để chứng minh cho tất cả các yêu
cầu như yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, ý kiến phản đối

của đương sự nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để có thể phán quyết một bản án, quyết định công minh, làm sáng tỏ
được những tình tiết cần chứng minh của vụ án, bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự thì các đương sự phải được tranh luận về chứng
cứ, khẳng định giá trị chứng minh của chứng cứ mà mình xuất trình trước hội
đồng xét xử, trình bày quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết của vụ án
nhằm mục đích để hội đồng xét xử giải quyết các yêu cầu của đương sự, ra
các quyết định chính xác nhất về việc giải quyết vụ án. Các đương sự có trách
nhiệm chứng minh cho Tòa án và những người tham gia tố tụng khác thấy
được rằng yêu cầu của mình là đúng đắn và có căn cứ, đồng thời đưa ra được
những tài liệu, chứng cứ, lập luận chứng minh rằng đương sự bên kia phải có
nghĩa vụ đối với mình. Trong suốt quá trình tố tụng, các bên đương sự bình
đẳng với nhau và liên tục trao đổi với nhau những chứng cứ, lý lẽ, căn cứ hợp
pháp của mình để chứng minh, biện hộ cho quyền lợi ích hợp pháp của mình
trước Tòa án trên cơ sở các quy định của pháp luật.


16

Thứ năm, quá trình tranh tụng tại PTDSST giữa các chủ thể phải tuân
thủ theo trình tự, thủ tục thời hạn do pháp luật quy định.
Pháp luật TTDS và hoạt động TTDS của Tòa án nói chung và các chủ
thể tham gia TTDS nói chung là hai mặt không thể tách rời của một quy trình
tố tụng. Pháp luật TTDS là cơ sở pháp lý của hoạt động TTDS, vì vậy khi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình các chủ thể tham gia và quá trình tranh
tụng phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định,
nếu không tuân theo thì các quyền và lợi ích dù hợp pháp cũng có thể không
được công nhận.
Thứ sáu, phạm vi tranh tụng là tất cả các vấn đề mà các bên tham gia
tranh tụng phải làm rõ bằng các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lý lẽ, lập

luận.
Trong TTDS đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, được biết và ghi
chép, sao chụp các chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án
thu thập. Do đó, đương sự phía bên này nếu chấp nhận yêu cầu và nhận thấy
yêu cầu, chứng cứ mà đương sự phía bên kia cung cấp là hoàn toàn đúng đắn,
có cơ sở và họ thừa nhận chứng cứ đó thì sẽ giải phóng đương sự phía bên kia
khỏi nghĩa vụ chứng minh. Ngược lai, nếu những yêu cầu mà các bên hoặc
một bên không chấp nhận và những thông tin, tài liệu mà các bên không đồng
ý hoặc một bên đương sự không đồng ý là chứng cứ thì khi phiên tòa diễn ra
chỉ tập trung vào những vấn đề các bên hoặc một bên không công nhận, còn
những vấn đề khác các bên không từ chối thì coi như đã giải quyết và những
chứng cứ nào các bên đương sự đã thừa nhận thì cũng không tranh luận nữa.
Vì vậy, các chủ thể tranh tụng chỉ tranh luận với nhau về những vấn đề mà
các bên đương sự còn mâu thuẫn và những chứng cứ, chứng minh không
thống nhất.


17

Với phạm vi tranh tụng như vậy, PLTTDS cần phải có những quy định
đảm bảo cho các bên đương sự có thể biết tất cả các yêu cầu, các chứng cứ,
căn cứ pháp lý và lý lẽ, lập luận của đối phương cũng như có đủ thời gian để
chuẩn bị các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ để phản bác yêu cầu, chứng cứ
của đương sự phía bên kia.
1.2.3. Ý nghĩa tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
Một là, tranh tụng đã tạo ra cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Với việc giải quyết vụ án dân sự theo phương thức tranh tụng, các
đương sự có điều kiện trong việc trình bày, đưa ra những chứng cứ, lý lẽ

chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa, tranh tụng
cũng buộc các đương sự phải nỗ lực, tích cực hơn nữa trong việc tham gia tố
tụng. Kết quả tranh tụng là cơ sở để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên
đương sự phải tìm đủ mọi cách để thu thập chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý
để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp và bác bỏ yêu cầu
của đương sự phía bên kia.
Hai là, tranh tụng làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án giúp cho
Tòa án giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, đảm bảo cho bản án, quyết
định của Tòa đã tuyên là có căn cứ pháp lý.
Tranh tụng không những tạo điều kiện cho đương sự thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình mà trong quá trình tranh tụng: “Các chủ thể tham
gia tố tụng giúp cho Tòa án không những hiểu rõ yêu cầu của các đương sự,
có được những chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để xác định chân lý khách
quan của vụ việc mà còn giải quyết các yêu cầu của đương sự, xác lập lại cho
đúng các quan hệ pháp luật dân sự mà các bên tham gia hoặc những quan hệ
mà pháp luật điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ các bên khi có sự kiện pháp lý
xảy ra, xác định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của


18

pháp luât”10. Sở dĩ như vậy là khi các đương sự được thực hiện đầy đủ các
quyền TTDS của mình như quyền đưa ra các yêu cầu để Tòa án bảo vệ, quyền
đưa ra chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
quyền được biết chứng cứ do bên kia cung cấp, quyền áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, quyền được bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ, quyền
tranh luận tại phiên tòa,…thì các tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ, Tòa án
có đầy đủ các chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự một cách chính xác, khách
quan, công minh và đúng pháp luật.
Ba là, tranh tụng tại PTDSST thể hiện tính chất dân chủ, công khai và

minh bạch của TTDS.
Tranh tụng là một phương thức tố tụng thể hiện rõ tính chất dân chủ,
công khai và minh bạch của TTDS. Trong quá trình thực hiện việc tranh tụng,
các đương sự, người đại diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa
ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý và đối đáp nhau để làm rõ sự thật khách quan
của vụ án. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng đóng vai trò giám sát quá trình
tranh tụng, sử dụng kết quả tranh tụng của các bên để giải quyết vụ án dân sự
một cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
Bốn là, hoạt động tranh tụng tại PTDSST góp phần tuyên truyền giáo
dục pháp luật, nâng cao hiểu biết pháp luật trong các tầng lớp nhân dân.
“Thông qua hoạt động tranh tụng trong TTDS giúp cho công dân hiểu biết
thêm về pháp luật, củng cố thêm niềm tin vào chế độ, đường lối, chủ trương,
chính sách và pháp luật của Đảng và nhà nước,…góp phần vào việc giáo dục

10

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, tr.22 - tr.23


19

và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội
cho nhân dân, tạo điều kiện cho việc củng cố trật tự pháp luật và pháp chế.”11
1.3. Cơ sở tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm
Một sự vật hay một hiện tượng trong xã hội đều phải có một cơ sở nhất
định mà dựa vào đó để tồn tại và phát triển. Đề cấp đến cơ sở của việc quy
định tranh tụng tại PTDSST thì chúng ta cần phải hiểu “cơ sở” là gì?. Theo từ
điển Tiếng Việt, “cơ sở” là danh tự chỉ cái “nền tảng trong quan hệ với những
cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển”. Muốn quy định

và phát triển một sự vật hay một hiện tượng nào trong xã hội đòi hỏi phải có
những nền tảng nhất định để dựa vào đó mà phát triển, từ nhỏ thành to, từ yếu
thành mạnh, từ hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Trong vấn đề tranh tụng cũng
vậy, muốn quy định tranh tụng trong TTDS nói chung và trong PTDSST nói
riêng thì phải chỉ rõ được cơ sở để hình thành, quy định vấn đề này. Xuất phát
từ cơ sở tranh tụng trong TTDS, tranh tụng tại PTDSST được hình thành dựa
trên ba cơ sở: Cơ sở lý luận, có sở thực tiễn và cơ sở pháp lý.
1.3.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận đầu tiên để tranh tụng trong TTDS cũng như tranh tụng
tại PTDSST hình thành và phát triển đó là bảo vệ quyền con người. Quyền
con người là quyền tự nhiên mà tạo hóa ban cho con người và không thể bị
tước bỏ bởi bất kỳ ai và bất kỳ chính thể nào. Tôn trọng và thực hiện quyền
con người luôn là vấn đề trọng tâm được tất cả các nhà nước, các hình thái xã
hội quan tâm, lấy đó làm nên tảng phát triển cũng như đề ra các chính sách,
chủ trương. Nhà nước ra đời là để đại diện cho nhân dân, để phục vụ nhân
dân, do đó dù tồn tại dưới thể chế nào thì hoạt động của Nhà nước cũng phải
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Mỗi thể chế chính trị

11

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, tr.23


×