BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THÙY LINH
CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hà
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn và giúp đỡ từ các thầy cô, các anh chị, các em và các bạn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Bộ môn Luật dân sự và Tố tụng dân sự
trường Đại học Luật Hà Nội và các bạn học viên khóa Cao học 21 đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Thu Hà người đã hết lòng giúp đỡ, chỉ bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn các thầy, cô giáo đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức nền tảng quý
báu trong quá trình đào tạo tại trường Đại học Luật Hà Nội.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh, động viên và giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian qua.
Tác giả luận văn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo sát tình
hình thực tiễn dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thu
Hà.Các thông tin, số liệu, các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thùy Linh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
BLTTDS
: Bộ luật Dân sự
: Bộ luật Tố tụng dân sự
CNSTT
HĐXX
HĐTPTANDTC
LTCTAND
: Công nhận sự thỏa thuận
: Hội đồng xét xử
: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
: Luật Tổ chức Toà án nhân dân
LTCVKSND
NQ số 03/2012/
NQ-HĐTP
: Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
: Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012 Hướng dẫn thi hành
NQ số
một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung”
của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS.
: Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
05/2012/NQHĐTP
Toà án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012 Hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án
tạiTòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ
NQ số
06/2012/NQHĐTP
sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.
: Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012 Hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án
PLTTGQCVADS
tạiTòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT
PLTTGQCTCLĐ
TAND
TANDTC
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
: Toà án nhân dân
: Toà án nhân dân tối cao
TTDS
VVDS
VADS
VDS
: Tố tụng dân sự
: Vụ việc dân sự
: Vụ án dân sự
: Việc dân sự
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG
5
NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC CÔNG NHẬN
5
SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm công nhận sự thỏa thuận của đương
5
sự trong tố tụng dân sự
1.1.2. Đặc điểm của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố
12
tụng dân sự
1.1.3. Ý nghĩa của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố
17
tụng dân sự
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN
20
CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.2.1. Xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp luật dân sự
20
1.2.2. Phù hợp với các quy định của pháp luật nội dung
20
1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tố tụng dân sự
21
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CÔNG NHẬN SỰ THỎA
22
THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.3.1. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về công nhận sự
22
thỏa thuận của các đương sự
1.3.2. Sự hiểu biết pháp luật tố tụng dân sự của đương sự về công
23
nhận sự thỏa thuận của đương sự
1.3.3. Trình độ, năng lực chuyên môn của thẩm phán
1.4. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TỐ
23
24
TỤNG DÂN SỰ VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
24
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
26
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
27
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
30
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA
THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. QUY ĐỊNH VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA
30
CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
2.1.1. Nguyên tắc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong
30
tố tụng dân sự
2.1.2. Quy định về phạm vi các vụ án mà Tòa án công nhận sự
32
thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
2.1.3. Quy định về thủ tục công nhận sự thỏa thuận của đương sự
34
trong tố tụng dân sự
2.1.4. Quy định về hình thức của việc công nhận sự thỏa thuận của
40
đương sự
2.1.5. Quy định về thẩm quyền công nhận sự thỏa thuận của các
42
đương sự
2.1.6. Quy định về hiệu lực của việc công nhận sư thỏa thuận của
44
đương sự
2.2. QUY ĐỊNH VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA
.46
CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG TRƯỜNG HỢP CÁC ĐƯƠNG SỰ TỰ
THỎA THUẬN TRƯỚC KHI KHỞI KIỆN VÀ YÊU CẦU TÒA ÁN
CÔNG NHẬN
2.2.1. Quy định phạm vi các yêu cầu mà Tòa án công nhận sự thỏa
46
thuận của các đương sự
2.2.2. Quy định về thủ tục, thẩm quyền, hình thức và hiệu lực của
47
việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
51
THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
51
VIỆT NAM VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ
3.1.1. Những kết quả đạt được
51
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc
52
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc
61
công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ BẢO
63
ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ CÔNG
NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về công nhận sự thỏa
63
thuận của đương sự
3.2.2. Nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật trong thực tiễn
66
KẾT LUẬN
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
71
PHỤ LỤC
75
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng
thời hội nhập nền kinh tế thế giới thì các mối quan hệ dân sự cũng ngày càng trở nên
đa dạng và phức tạp hơn. Điều này một mặt thúc đẩy giao lưu dân sự song mặt khác
cũng dẫn đến sự phát sinh của nhiều tranh chấp trong quan hệ dân sự. Báo cáo tổng kết
công tác của tòa án nhân dân (TAND) mười năm trở lại đây cho thấy, các tranh chấp
dân sự ngày càng có xu hướng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung tranh chấp.
Trong hoạt động tố tụng dân sự (TTDS), sự thỏa thuận của các đương sự là đặc
trưng cơ bản khi các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh
chấp. Sự thỏa thuận này không chỉ có ý nghĩa trong việc giải quyết tranh chấp giữa các
đương sự, khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn có ý nghĩa trong
việc góp phần xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân.
Với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã hội, Nhà nước đã
ban hành rất nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ một
cách tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong đó, Bộ luật Tố tụng dân
sự (BLTTDS) năm 2004 là một trong những văn bản quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối
với việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. BLTTDS là công cụ
pháp lý quan trọng để các cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự cũng như đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc
dân sự (VVDS) được đúng đắn khi các chủ thể xảy ra tranh chấp.
Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng trong thực tiễn, BLTTDS đã cho thấy còn
nhiều vấn đề hạn chế, bất cập. Một trong những vấn đề đó là các quy định của pháp
luật về việc công nhận sự thỏa thuận (CNSTT) của đương sự trong pháp luật TTDS và
thực trạng của các quy định này trong đời sống xã hội. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên
cứu làm rõ các quy định của pháp luật và thực tiễn của việc CNSTT của đương sự
cũng như các giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một vấn đề cần
thiết.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong muốn góp phần
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNSTT của đương sự trong pháp luật
2
TTDS Việt Nam, trên cơ sở đó, góp phần hoàn thiện các quy định trong hệ thống pháp
luật TTDS Việt Nam nói chung và các quy định về CNSTT của đương sự nói riêng.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu pháp lý liên quan đến
vấn đề CNSTT của đương sự trong TTDS như: Luận án tiến sĩ luật học với đề tài
“Chế định hòa giải trong pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực
tiễn” của Trần Văn Quảng năm 2004; Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Hòa giải trong
tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của La Phương Na năm 2011;
Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của Nguyễn Văn Tuyết năm 2011; Khóa luận tốt
nghiệp đề tài “Hòa giải vụ án dân sự” của Bùi Ngọc Thủy năm 2012; Khóa luận tốt
nghiệp đề tài “Vấn đề công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong Tố tụng dân sự”
của Ngô Thị Hà năm 2015...
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Cần có hướng dẫn áp
dụng quy định về thời hạn ra quy định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”
của tác giả Nguyễn Thanh Trúc đăng trên Tạp chí kiểm sát số 3/2005; “Về hiệu lực
của quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo quy định tại Điều 220 Bộ
luật tố tụng dân sự” của tác giả Đỗ Đức Anh Dũng đăng trên Tạp chí TAND số
16/2006; “Về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự” của TS.
Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Luật học số 8/2007; “Vướng mắc trong việc thi hành
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự” của tác giả Phạm Cao Khải
đăng trên Tạp chí TAND số 8/2010; “Thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự như thế nào” của tác giả Lê Viết Tâm đăng trên Tạp chí dân chủ và
pháp luật số chuyên đề 4/2012...
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
nào nghiên cứu một cách tập trung, đầy đủ và chi tiết về CNSTT của đương sự trong
pháp luật TTDS Việt Nam và việc thực hiện các quy định của pháp luật về vấn đề này
trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật TTDS về CNSTT của các đương sự, đánh giá thực
trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị
3
nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật TTDS về CNSTT
của đương sự.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về CNSTT của đương sự như: Khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của việc quy định CNSTT của đương sự trong TTDS,
các yếu tố ảnh hưởng đến việc CNSTT của đương sự trong pháp luật TTDS và lược
sử hình thành và phát triển của pháp luật TTDS về CNSTT của đương sự.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về CNSTT
của đương sự và thực trạng áp dụng các quy định đó trong thực tế.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật
TTDS về CNSTT của đương sự.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Vấn đề CNSTT của đương sự trong TTDS bao gồm việc Tòa án CNSTT của
đương sự trong quá trình giải quyết các VVDS và CNSTT của đương sự trong quá
trình THADS. Tuy nhiên, trong luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu CNSTT của
đương sự trong quá trình giải quyết VVDS tại Tòa án, gồm việc dân sự và vụ án
dân sự. Vấn đề CNSTT của đương ở giai đoạn THADS tác giả xin được tiếp tục
nghiên cứu trong các công trình khoa học tiếp theo.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp
và sử dụng các kết quả thống kê của ngành Tòa án để làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu của luận văn.
6. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về CNSTT của đương sự trong TTDS.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành
4
về CNSTT của đương sự trong TTDS.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về CNSTT của đương sự.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÔNG NHẬN SỰ THỎA
THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân
sự
1.1.1.1. Khái niệm thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự là vấn đề nhân quyền đã và đang
được đặt ra với mỗi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể nếu chỉ được công nhận bởi pháp luật mà không có cơ chế bảo vệ chúng
trong trường hợp bị xâm phạm thì việc ghi nhận đó chỉ là vô nghĩa. Đúng như ông
Nguyễn Huy Đẩu đã nói: “Một quyền lợi được luật pháp công nhận nhiều khi không
đủ đảm bảo cho người có chủ quyền hưởng dụng: quyền lợi có thể bị phủ nhận, bị xâm
phạm” [9, tr.3]. Do đó, cần phải có cơ chế thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp khi quyền này bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Theo đó, để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình, con người có quyền thực hiện các biện pháp khác nhau để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp như tự giải quyết, yêu cầu Tòa án hoặc các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác bảo vệ. Trong các biện pháp này thì việc giải quyết tranh
chấp, mâu thuẫn bằng con đường thỏa thuận thường được các chủ thể lựa chọn áp
dụng vì tính dễ sử dụng, chi phí thấp, giải quyết tranh chấp trong thời gian ngắn, các
bên được tiếp cận công lý một cách nhanh nhất và họ được quyền tự quyết định việc
giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp của mình mà không cần phải nhờ đến Tòa án giải
quyết bằng việc mở phiên tòa.
Hiện nay, ở các nước trên thế giới hầu hết đều thừa nhận thỏa thuận là một
trong các phương thức giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Việc thỏa thuận này có thể
được thực hiện thông qua việc tự thỏa thuận giữa các đương sự, hòa giải do người thứ
ba tiến hành hoặc hòa giải do Tòa án tiến hành. Chẳng hạn như ở Mỹ, trước khi các
đương sự khởi kiện đến Tòa án thì các bên gặp nhau để trao đổi, thỏa thuận trước khi
nộp bất cứ, tài liệu gì cho Tòa án. Sau khi các bên gặp nhau mà vẫn không thỏa thuận
6
được thì họ vẫn có thể nhờ sự giúp đỡ của người thứ ba không phải là nhân viên của
Tòa án (bạn bè, người thân, luật sư…). Nếu các bên đạt được thỏa thuận thì các bên sẽ
tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Ngoài ra, ở Mỹ việc thỏa thuận của các đương sự
còn thông qua một con đường hòa giải chính thức được tiến hành bởi các trọng tài viên
hoặc hòa giải viên (không phải là nhân viên của Tòa án). Việc thỏa thuận thông qua
hòa giải chính thức có thể là bắt buộc hoặc không bắt buộc. Đối với việc hòa giải
thông qua các trọng tài viên thì các bên có thể chọn cho mình 1 trọng tài viên và các
trọng tài viên này chọn trọng tài viên thứ ba. Các trọng tài viên này sẽ nghe các đương
sự trình bày và ra phán quyết về vụ kiện. Còn việc hòa giải thông qua các hòa giải viên
thì các hòa giải viên gặp cả 2 bên đương sự để xác định tư cách pháp lý của họ trong
vụ kiện hoặc hòa giải viên sẽ gặp 1 bên đương sự trước để tìm hiểu chính xác yêu cầu
cụ thể của bên đương sự đó là gì. Sau đó, hòa giải viên tiến hành tương tự đối với bên
đương sự còn lại. Hòa giải viên là cầu nối, trung gian giữa 2 bên để giải quyết vụ kiện.
Chỉ có hòa giải viên mới biết được thực chất mỗi bên đương sự yêu cầu cụ thể như thế
nào. Trên cơ sở đó họ sẽ thuyết phục các bên đương sự chấp nhận phương án mà họ
đưa ra để tiến tới một giải pháp chung cho vụ kiện mà cả hai bên đương sự đều đồng ý
[34, tr.13,14,15, 23]. Sở dĩ ở Mỹ hay các nước theo truyền thống pháp luật án lệ, các
thẩm phán không tiến hành hòa giải mà Tòa án chuyển vụ việc cho hòa giải viên ngoài
Tòa án tiến hành. Bởi vì, mô hình này (i) tiết kiệm được thời gian mà lẽ ra thẩm phán
hoặc cán bộ tòa án phải dành ra để hòa giải vụ việc. Hệ thống này có thể vận hành khá
độc lập. Vì thế, mô hình này tối ưu hóa các nguồn lực của Tòa án; (ii) thường tạo cho
các bên cơ hội để lựa chọn hòa giải viên cho mình với những kỹ năng và kiến thức
chuyên môn mà họ tin rằng có ích nhất cho mâu thuẫn của họ; (iii) nếu các hòa giải
viên được đãi ngộ hợp lý, họ rất có thể có động lực để dành cho các bên đủ thời gian
để hòa giải thấu đáo và có được giải pháp công bằng dựa trên nguyên tắc [42, tr.8, 9].
Ở Cộng hòa Pháp, khi các đương sự đã khởi kiện ra Tòa án thì việc thỏa thuận
của các bên đương sự được thực hiện thông qua việc các bên tự hòa giải, thẩm phán
tiến hành hòa giải[20, tr.3], hòa giải do người thứ ba tiến hành do thẩm phán Tòa sơ
thẩm thẩm quyền hẹp ủy quyền hòa giải cho người thứ ba [19, tr.16]. Ngoài ra, khi
chưa khởi kiện ra Tòa án thì các bên có thể thương lượng và yêu cầu Tòa án công nhận
kết quả thương lượng giữa các bên [19, tr.17] hoặc các bên có thể yêu cầu CNSTT đối
với VDS như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn (Điều 1099 BLTTDS Cộng hòa
7
Pháp) [18]. Như vậy, khác với các nước theo truyền thống pháp luật án lệ thì Cộng hòa
Pháp hay các nước theo truyền thống pháp luật dân sự lại sử dụng mô hình thẩm phán
tiến hành hòa giải. Bởi vì, vai trò của thẩm phán thường bao gồm việc nỗ lực giúp các
bên giải quyết vấn đề của họ đồng thời hòa giải tại tòa cho phép Tòa án có sự kiểm
soát mạnh hơn và giám sát trực tiếp toàn bộ quá trình để bảo đảm rằng mỗi vụ việc đều
được giải quyết nhanh chóng, phù hợp, với chất lượng hòa giải chấp nhận được [42,
tr.7, 8].
Như vậy, dù thỏa thuận giữa các đương sự trong VVDS đạt được bằng cách nào
thì đó không chỉ là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả mà còn là một biện
pháp hàn gắn vết thương thay vì cắt bỏ vết thương [19, tr.15]. Theo đó, các cá nhân và
doanh nghiệp quen với việc sử dụng hòa giải ngay khi bắt đầu có mâu thuẫn, thậm chí
trước khi xem xét thủ tục tố tụng. Điều này giúp tránh được những vụ việc không cần
thiết phải đưa ra khiếu kiện tại Tòa án[42, tr.3]. Thậm chí khi các bên đưa vụ kiện ra
Tòa án thì các bên vẫn có thể thỏa thuận để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn của mình.
Vậy để có thể hiểu được thế nào là thỏa thuận của đương sự trong TTDS thì trước tiên
cần phải làm rõ thuật ngữ “TTDS” và “đương sự”.
Về mặt thuật ngữ, theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh: "tố tụng" là việc
thưa kiện (procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách
tố tụng (code deprocédure)"[1, tr.302]. Sách Tiếng nói nôm na của Lê Gia[10, tr.10271028] giải thích chi tiết hơn: "Tố tụng" là vạch tội và đưa ra cửa công để phân giải
phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thưa kiện ở cửa công để xin phân phải
trái". Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì "Tố tụng" là việc thưa kiện ở Tòa án.
TTDS được ghép hai từ “tố tụng” và “dân sự”. “Tố tụng” là một thuật ngữ có
nguồn gốc từ tiếng La tinh (procedere), được hiểu là một đường lối phải tuân theo để
đi đến chỗ thắng kiện. Ngoài ra, còn có một thuật ngữ khác tương đương với thuật ngữ
“tố tụng” là thuật ngữ “thủ tục”, có nguồn gốc từ tiếng Nhật Bản, được hiểu là một thể
thức phải làm để đạt được một kết quả nhất định [9, tr.3,4]. Ở các nước trên thế giới,
chẳng hạn như Anh thì các nhà nghiên cứu luật học quan niệm tố tụng (procedure) là
những bước tiến hành mang tính hình thức mà thông qua đó vụ kiện được giải quyết.
Các nhà nghiên cứu của Pháp thì cho rằng tố tụng là toàn bộ những thể thức phải theo
để đệ trình một yêu cầu trước Thẩm phán [2, tr.11]. Như vậy, có thể thấy đa số các
nước đều thừa nhận TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải
8
quyết một vụ kiện dân sự.
Ở Việt Nam, về nội hàm của khái niệm TTDS vẫn còn có những ý kiến trái ngược
nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng THADS là một hoạt động của TTDS [36, tr.11]. Ý kiến thứ
hai cho rằng THADS là một dạng của hoạt động hành chính bởi THADS là hoạt động
mang tính điều hành và chấp hành mà điều hành và chấp hành là đặc trưng của hoạt
động hành chính. Mặt khác, THADS ở nước ta lại không do Tòa án - cơ quan tư pháp
tổ chức. Ý kiến thứ ba cho rằng thi hành án là dạng hoạt động hành chính - tư pháp vì
THADS là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành quyết định của Tòa án - cơ
quan tư pháp[37, tr.10].
THADS không phải là hoạt động hành chính bởi vì bản chất của thi hành án là
một dạng của hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử
với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục
đích cuối cùng của THADS là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong
bản án, quyết định được thực thi trong thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng
pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành – nét đặc trưng của hoạt động hành chính.
Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động THADS mà còn là
yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý nghĩa cao nhất là chấp
hành các quy định của pháp luật. Bản thân các quy định của pháp luật được Nhà nước
ban hành đã có tình bắt buộc chung mà mọi người phải tôn trọng thực hiện. Ngoài ra,
THADS không phải là hoạt động TTDS, nó có những đặc trưng khác biệt với hoạt
động giải quyết VVDS của Tòa án. Nếu hoạt động xét xử VVDS của Tòa án nhằm giải
quyết VVDS, xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên đương sự thì hoạt động
THADS của các cơ quan thi hành án không nhằm giải quyết về nội dung vụ việc,
không xét xử lại VVDS, mà áp dụng các biện pháp cần thiết tổ chức và thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tòa án. Do đó, mục đích của hoạt động THADS không phải
là ra các quyết định giải quyết về nội dung VVDS mà là làm cho các bản án, quyết
định của Tòa án được thực thi trên thực tế. Như vậy, THADS có sự độc lập tương đối
với việc giải quyết VVDS của Tòa án nên không được coi là một giai đoạn của TTDS.
Hay nói cách khác, TTDS là trình tự, thủ tục được pháp luật quy định để Tòa án giải
quyết VVDS do các cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật yêu cầu.
Trình tự, thủ tục đó bao gồm: khởi kiện, yêu cầu và thụ lý giải quyết VVDS, lập hồ sơ
9
VVDS, hòa giải VVDS, xét xử VVDS theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm [2,
tr.12].
Mục đích của TTDS là giải quyết khách quan, công bằng và đúng pháp luật các
VVDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Tham gia vào quá trình giải
quyết VVDS tại Tòa án có rất nhiều các chủ thể khác nhau. Ngoài Tòa án và Viện
kiểm sát còn có các chủ thể khác tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, của người khác hoặc hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết VVDS. Để thực
hiện được mục đích của TTDS, pháp luật TTDS phải quy định rõ địa vị pháp lý của
các chủ thể cũng như quyền và nghĩa vụ của họ trong TTDS. Trong đó, đương sự là
một trong những chủ thể không thể thiếu trong quá trình Tòa án giải quyết VVDS,
đương sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong TTDS, bởi vì quyền và lợi ích của họ là
nguyên nhân và mục đích của quá trình tố tụng.
Về mặt thuật ngữ, đương sự là “người là đối tượng trực tiếp của một việc đang
phải giải quyết” [41, tr.681]. Trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt, đương sự lại được
định nghĩa là “người có liên quan trực tiếp tới một việc” [14, tr.232]. Như vậy, đương sự
có thể hiểu một cách chung nhất là người có liên quan trực tiếp đến một vụ việc nào đó xảy
ra đang được đưa ra xem xét, giải quyết trong cuộc sống.
Về mặt pháp lý, theo Từ điển Luật học năm 2006 thì“Đương sự là cá nhân, pháp
nhân tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND
trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động”
[40, tr.278, 279]. Theo Từ điển Luật học của Mỹ, đương sự được định nghĩa là “người
đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện”[43, tr.515]. Như vậy, đương sự trong
một vụ việc là những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc đang được xem
xét, giải quyết. Tùy thuộc vào tính chất của từng loại vụ việc được Tòa án giải quyết
mà có đương sự trong VVDS, đương sự trong vụ án hành chính và đương sự trong vụ
án hình sự. Trong đó, đương sự trong VVDS“là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS”[38, tr.105].
Các đương sự trong VVDS có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức, tham gia tố tụng
với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
10
VADS; người yêu cầu, người bị yêu cầu, người có liên quan trong VDS.
Về khái niệm thỏa thuận của các đương sự trong TTDS, dưới góc độ ngôn ngữ
học, theo Đại từ điển tiếng Việt “thỏa thuận” có nghĩa là “nhất trí, đồng ý với nhau
sau khi bàn bạc”[41, tr.1578]. Như vậy, theo nghĩa chung nhất thỏa thuận của các
đương sự trong TTDS là việc các bên đã thống nhất ý chí với nhau về việc giải quyết
VVDS sau khi đã bàn bạc, trao đổi. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự nhất trí chung, thể
hiện ở việc không có sự đối lập hay mâu thuẫn nào giữa các bên liên quan đối với vấn
đề được thỏa thuận. Thông qua thỏa thuận, mọi quan điểm của các bên đều phải được
xem xét và dung hòa tất cả các tranh chấp. Bên cạnh đó, các bên tự nguyện cùng nhau
thực hiện nghĩa vụ mà họ đã thương lượng, thỏa thuận vì lợi ích của nhau. Yếu tố thỏa
thuận đã bao hàm cả yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống nhất, đồng tình về mặt
ý chí giữa các bên.
Như vậy, thỏa thuận của đương sự trong TTDS chính là sự tự nguyện thương
lượng, thống nhất về ý chí giữa các bên về việc giải quyết VVDS.
1.1.1.2. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân
sự
Khi các bên đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết VVDS thì các bên
sẽ tự nguyện thực hiện thỏa thuận đã đạt được hay sự thỏa thuận này cần phải có sự
công nhận của Tòa án. Ở Mỹ thì về nguyên tắc khi các bên tự thỏa thuận với nhau hay
người thứ ba đứng ra hòa giải (người thân, luật sư, bạn bè…) thì các bên sẽ tự nguyện
thực hiện thỏa thuận đó. Còn nếu thỏa thuận giữa các đương sự đạt được thông qua các
trọng tài viên, hòa giải viên (không phải nhân viên Tòa án) tiến hành hòa giải thì vì
đây là các vụ việc mà Tòa án chuyển giao cho các hòa giải viên nên các quyết định của
trọng tài viên, hòa giải viên sẽ được Tòa án tôn trọng và phê chuẩn để thi hành. Tuy
nhiên, kết quả hòa giải thành sẽ không được Tòa án chấp nhận nếu nó xâm phạm đến
trật tự, lợi ích công cộng hay lợi ích của người khác và Tòa án sẽ xem xét lại thỏa
thuận đó từ đầu[34, tr.14, 27, 28].
Còn theo quy định pháp luật TTDS của Cộng hòa Pháp thì trong suốt quá trình
tố tụng các bên có thể tự hòa giải với nhau hoặc theo sáng kiến của thẩm phán. Khi các
bên tự hòa giải thì các bên có quyền yêu cầu thẩm phán ghi nhận sự hòa giải giữa các
bên. Sự thỏa thuận do các bên tự hòa giải hay do thẩm phán tiến hành sẽ được thẩm
phán ghi nhận trong biên bản có chữ ký của thẩm phán và các bên đương sự (Điều
11
127, 129, 130 BLTTDS Cộng hòa Pháp)[18]. Còn trong trường hợp khi vụ kiện được
giải quyết ở Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp thì thẩm phán Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp
ủy quyền hòa giải các bên cho một người thứ ba. Có hai thủ tục hòa giải mà thẩm phán
có thể tiến hành. Đó là, trong phạm vi một quận, thẩm phán Tòa sơ thẩm thẩm quyền
hẹp tự động chuyển mọi đơn khởi kiện mà mình nhận được cho hòa giải viên. Hòa giải
viên triệu tập các bên. Nếu hòa giải thành thì thẩm phán công nhận kết quả hòa giải.
Nếu hòa giải không thành thì thẩm phán nhận lại vụ kiện để xét xử theo thẩm quyền
của mình. Trong một Tòa án khác, hòa giải viên ngồi bên cạnh thẩm phán. Khi các bên
đồng ý với yêu cầu của thẩm phán, hòa giải viên tiến hành hòa giải trong một phòng
bên cạnh phòng xử án. Nếu các bên thống nhất được với nhau thì sẽ quay trở lại gặp
thẩm phán để thẩm phán công nhận ngay lập tức kết quả hòa giải[19, tr.16, 17].
Như vậy, có thể nhận thấy rằng trong trường hợp khi các bên chưa khởi kiện ra
Tòa án mà tự thỏa thuận được với nhau hoặc thỏa thuận do người thứ ba tiến hành thì
các bên sẽ tự nguyện thực hiện thỏa thuận này. Vấn đề đặt ra là sau khi đạt được thỏa
thuận thì một trong các bên thay đổi ý kiến không thực hiện thỏa thuận đó thì giải
quyết như thế nào? Thẩm phán Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng, Tòa án Quốc gia
Singapore - Dorcas Quek Anderson và trọng tài viên Singapore - Mr. Lawrence Boo
đều cho rằng do điều kiện dân trí và văn hóa pháp lý cao nên các bên khi đã đạt được
thống nhất sau rất nhiều lần trao đổi, bàn bạc về hướng giải quyết vụ kiện thì họ rất ít
khi thay đổi. Nếu một trong các bên thay đổi ý kiến thì có quyền yêu cầu Tòa án ra
lệnh buộc thực hiện kết quả hòa giải thành vì thỏa thuận của các bên có giá trị như hợp
đồng và có hiệu lực bắt buộc các bên phải thực hiện1. Còn trong trường hợp các bên
đạt được thỏa thuận là do các hòa giải viên (không phải là thẩm phán hoặc nhân viên
tòa án) tiến hành (thường được các nước theo truyền thống pháp luật án lệ áp dụng như
Mỹ, Anh...) thì vì hòa giải viên là những người có kiến thức chuyên môn, kỹ năng hòa
giải nhưng lại không phải là người đại diện cho cơ quan thực hiện quyền tư pháp nên
kết quả hòa giải cần phải được Tòa án công nhận. Còn trong trường hợp các bên đạt
được thỏa thuận là do các hòa giải viên (là các thẩm phán chuyên hòa giải hoặc cán bộ
Tòa án) tiến hành thì kết quả hòa giải thành được thực thi trực tiếp như các lệnh của
Tòa. Trong trường hợp khi vụ kiện đã được Tòa án thụ lý giải quyết thì các thẩm phán
1
Ý kiến phát biểu trực tiếp tại Hội thảo Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khác trong hệ thống tư pháp
hiện đại, Hà Nội, ngày 9,10/4/215.
12
tổ chức hòa giải, kết quả hòa giải thành được thẩm phán ghi nhận vào biên bản hòa
giải thành và có hiệu lực pháp luật ngay. Như vậy, dù thỏa thuận của các đương sự đạt
được bằng phương thức nào, do ai tiến hành thì thỏa thuận đó vẫn cần được công nhận
bởi Tòa án để đảm bảo giá trị pháp lý của thỏa thuận giữa các bên đương sự.
Về khái niệm CNSTT của các đương sự trong TTDS, theo Hán Việt Từ điển thì
“công nhận là ai nấy đều thừa nhận” [1, tr.120]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt, “công
nhận” là sự thừa nhận trước mọi người một điều gì đó là phù hợp với sự thật, với lẽ
phải hoặc với thể lệ, luật pháp[39, tr.202]. Như vậy, theo nghĩa chung nhất CNSTT
của đương sự trong TTDS là hoạt động của Tòa án thừa nhận việc thương lượng,
thống nhất ý chí giữa các bên đương sự.
Trong TTDS, việc CNSTT của đương sự là hoạt động của Tòa án thừa nhận việc
thương lượng, thống nhất ý chí của các bên đương sự trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết thì các đương sự tự thỏa thuận
được với nhau và yêu cầu Tòa án CNSTT đó của đương sự.
Thứ hai, sau khi các đương sự đã khởi kiện ra Tòa án thì các đương sự tự thỏa
thuận và yêu cầu Tòa án CNSTT đó hoặc đương sự hòa giải thành về việc giải quyết
VADS.
Như vậy, khái niệm “CNSTT của đương sự trong TTDS” có thể được hiểu như
sau: “CNSTT của đương sự trong TTDS là hoạt động của Tòa án thừa nhận việc thống
nhất ý chí giữa các đương sự về việc giải quyết VVDS theo quy định của pháp luật
TTDS”.
1.1.2. Đặc điểm của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng
dân sự
- Chủ thể CNSTT của đương sự là Tòa án.
Như đã phân tích ở phần 1.1.1.2 thì ở các nước nếu các đương sự đạt được thỏa
thuận là do các đương sự tự thỏa thuận được với nhau hay do người thứ ba hòa giải
hay do Tòa án tiến hành hòa giải thì việc CNSTT của các đương sự phải là Tòa án để
đảm bảo giá trị pháp lý của thỏa thuận. Ở Việt Nam, Điều 102 Hiến pháp năm 2013
quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xét xử các vụ
việc, trong đó có VVDS. Do đó, nếu như các đương sự thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết VVDS thì Tòa án (cụ thể là Thẩm phán hoặc HĐXX) sẽ ra quyết định
13
CNSTT của các đương sự. Cụ thể:
- Trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết thì các đương sự tự thỏa thuận được với
nhau và yêu cầu Tòa án CNSTT đó của đương sự. Đây là những trường hợp mặc dù
các đương sự tự thỏa thuận được với nhau trước khi khởi kiện ra Tòa án nhưng việc tự
thỏa thuận này của các đương sự làm mất đi giá trị pháp lý của các quyết định trước đó
nên cần phải được Tòa án xem xét và công nhận. Chẳng hạn khi các đương sự thuận
tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì việc vợ chồng cùng nhau
yêu cầu ly hôn sẽ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng mà quan hệ này
được xác lập trên cơ sở đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó,
để có cơ sở xóa tên vợ chồng trong sổ đăng ký kết hôn và thu hồi giấy đăng ký kết hôn
thì cần phải có quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn của Tòa án. Hoặc sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, vì lợi ích
của con, người cha, người mẹ có quyền thỏa thuận lại với nhau về việc thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nhưng việc thỏa thuận này làm quyết định giao con
cho một bên nuôi dưỡng trước đó không còn có hiệu lực nên thỏa thuận này cần phải
được Tòa án công nhận. Hoặc trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận. Bởi vì,
thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung làm cho bản án, quyết định
của Tòa án trước đó về chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân
không còn hiệu lực nên thỏa thuận này cũng cần phải được Tòa án công nhận. Việc
công nhận này của Tòa án được thực hiện theo thủ tục giải quyết VDS bởi giữa các
đương sự không có tranh chấp mà thỏa thuận cùng nhau yêu cầu Tòa án CNSTT.
- Sau khi các đương sự đã khởi kiện ra Tòa án thì thẩm phán hay HĐXX ra
quyết định tùy thuộc vào từng thời điểm các đương sự đạt được sự thỏa thuận. Nếu các
đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm, tức là trước thời điểm Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm thì thẩm quyền ra quyết định công nhận thuộc về thẩm phán, bởi lúc này vụ án
đang do thẩm phán phụ trách. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm mà
các đương sự thỏa thuận được với nhau thì việc thỏa thuận này phải được công nhận ở
tại phiên tòa và do HĐXX quyết định. Bởi vì, mặc dù lúc này chưa mở phiên tòa
nhưng đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử nên khi các đương sự thỏa thuận được với
14
nhau mà thẩm phán ra quyết định CNSTT thì vụ án có hai quyết định. Điều này là
không hợp lý, nên việc CNSTT sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm phải
do HĐXX công nhận. Còn việc công nhận ở tại phiên tòa sơ thẩm thì đương nhiên do
HĐXX công nhận.
Ở thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì dù các đương sự có đạt được
sự thỏa thuận ở trước hay tại phiên tòa thì thẩm quyền CNSTT của các đương sự vẫn
phải thuộc về HĐXX phúc thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm. Bởi vì, việc
thỏa thuận của các đương sự ở thời điểm này dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án có
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm phải xem xét về số phận pháp lý của bản án sơ
thẩm, phúc thẩm nên thẩm quyền công nhận phải thuộc về HĐXX.
- Tòa án CNSTT của các đương sự khi việc thỏa thuận của các đương sự xuất
phát tự ý chí tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội.
Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, các đương sự được tự do lựa chọn cách
giải quyết như tự thỏa thuận với nhau, hòa giải hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, các
đương sự vẫn có quyền tự định đoạt về tranh chấp của mình trong vụ án phù hợp với
quy định của pháp luật.
Đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, do đó chỉ đương sự mới có
quyền tự mình, bằng hành vi tố tụng của mình để tự thương lượng, thỏa thuận với nhau
hoặc thông qua sự giúp đỡ của Tòa án để thỏa thuận với nhau trong việc giải quyết vụ
án. Việc thỏa thuận giữa các đương sự chỉ đạt được trên cơ sở thương lượng một cách
tự nguyện, trung thực, hợp lý, hợp tình và không một ai với bất kì một hình thức nào
cưỡng ép, can thiệp vào việc thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, không phải bất
cứ thỏa thuận nào của các đương sự cũng đều được Tòa án công nhận mà nội dung của
thỏa thuận đó phải không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức
pháp luật. Hay nói cách khác, Tòa án chỉ công nhận những thỏa thuận nào của các
đương sự xuất phát từ ý chí tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm
pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
- Hình thức CNSTT của đương sự là bằng một quyết định hoặc một bản án.
Sự thỏa thuận của các đương sự có thể được Tòa án công nhận bằng một quyết
định hoặc một bản án, tùy thuộc vào thời điểm mà Tòa án CNSTT của đương sự. Cụ
15
thể:
+ Trước khi khởi kiện các đương sự tự thỏa thuận và yêu cầu Tòa án CNSTT
thì như đã phân tích ở phần trên đây là một loại VDS nên Tòa án sẽ CNSTT bằng một
quyết định.
+ Khi các đương sự đã khởi kiện VADS ra Tòa án thì nếu Tòa án CNSTT của
các đương sự tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tức là thời điểm trước khi Tòa án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Thẩm phán ra quyết định CNSTT đó. Khi đã mở
phiên tòa sơ thẩm và HĐXX tiến hành xét xử thì sự thỏa thuận của đương sự phải
được công nhận bằng một bản án. Việc CNSTT của các đương sự ở giai đoạn phúc
thẩm thì do HĐXX phúc thẩm ra quyết định công nhận bằng một bản án phúc thẩm. Ở
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì do hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm không xét xử
nên việc CNSTT của đương sự bằng một quyết định.
- Trình tự, thủ tục CNSTT của đương sự phải tiến hành theo quy định của pháp
luật TTDS.
Việc CNSTT của đương sự cũng như các thủ tục tố tụng khác đều được Tòa án
tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật. Việc quy định trình tự, thủ tục CNSTT
của đương sự trong pháp luật TTDS nhằm đảm bảo sự khách quan, công bằng trong
hoạt động tố tụng của Tòa án cũng như đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong
quá trình giải quyết vụ việc. Các quy định của pháp luật TTDS về trình tự, thủ tục
CNSTT của đương sự là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận và bắt buộc Tòa án
phải tuân thủ những quy định đó. Như vậy, việc CNSTT của đương sự cũng chỉ có
hiệu lực pháp luật khi được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật TTDS
quy định.
- Thời điểm Tòa án CNSTT của các đương sự là trước khi mở phiên tòa, phiên
họp hoặc tại phiên tòa, phiên họp.
Quyền tự định đoạt của đương sự có thể được thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào
của quá trình tố tụng. Do đó, đối với VADS, sự thỏa thuận của các đương sự có thể
được thực hiện trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa sơ thẩm, trước khi mở
phiên tòa phúc thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm hoặc ngay cả khi Tòa án xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên,
nếu việc thỏa thuận của các đương sự đạt được do Tòa án tiến hành hoạt động hòa giải
thì việc CNSTT của các đương sự chỉ được thực hiện ở thời điểm trước khi mở phiên
16
tòa sơ thẩm. Bởi vì, xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu đối với VADS nên pháp luật quy
định Tòa án có trách nhiệm hòa giải, giúp các bên hiểu rõ hơn quan hệ pháp luật đang
tranh chấp và các quy định pháp luật để thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án,
qua đó tránh được tình trạng khiếu kiện kéo dài, giảm thiểu chi phí cho các bên tham
gia tố tụng. Còn các giai đoạn sau của quá trình tố tụng thì do các đương sự đã được
Tòa án tổ chức hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm nhưng không thành nên sau đó
Tòa án không tiến hành hòa giải nữa.
Đối với trường hợp đương sự tự thỏa thuận trước khi khởi kiện và yêu cầu Tòa
án CNSTT thì về nguyên tắc do các đương sự không có tranh chấp nên Tòa án sẽ mở
phiên họp để ra quyết định công nhận. Tuy nhiên, đối với yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản thì trước khi mở phiên họp Tòa án vẫn
tiến hành hòa giải. Trong đời sống xã hội, quan hệ hôn nhân là yếu tố cơ bản, đầu tiên
để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của gia đình - tế bào của xã hội. Việc ly hôn sẽ tác
động tiêu cực đến các quan hệ xã hội khác như phân chia tài sản, nuôi dạy con cái...
Trong thực tiễn không phải mọi trường hợp thuận tình ly hôn đều do “tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”[15]
mà có thể do mâu thuẫn nhất thời, do tự ái, hiểu lầm. Việc giúp đương sự trong trường
hợp thuận tình ly hôn có cơ hội để khắc phục sai lầm, đoàn tụ với nhau, hàn gắn những
rạn nứt trong hôn nhân là một vấn đề nhân đạo sâu sắc. Do đó, hòa giải khi vợ, chồng
có yêu cầu ly hôn là vô cùng cần thiết.
- CNSTT của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay
Quyết định CNSTT của đương sự được ban hành dựa trên sự tự nguyện thỏa
thuận của các đương sự và được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ của pháp luật. Do đó,
khi các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết VVDS thì thỏa thuận
của các đương sự có hiệu lực ngay tại thời điểm các đương sự thỏa thuận. Bởi vì “bản
chất các thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án là giao dịch
dân sự thông thường thì bản thân thỏa thuận đó có hiệu lực ngay tại thời điểm các bên
thỏa thuận (được ghi nhận băng biên bản hòa giải thành) và có hiệu lực bắt buộc thực
hiện đối với các bên, việc Tòa án ra quyết định CNSTT đó vừa có tính công chứng,
vừa có tính cưỡng chế thi hành, nếu sau đó các bên không tự nguyện thi hành” [29,
tr.49]. Tuy nhiên, đề phòng tránh các sai lầm và vi phạm pháp luật có thể xảy ra, quyết
định CNSTT của đương sự vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
17
thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận trước đó của đương sự là do bị nhầm lẫn,
lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xuất hiện tình tiết mới.
Như vậy, qua phân tích các đặc điểm của CNSTT của các đương sự trong
TTDS, có thể thấy việc CNSTT của các đương sự trong TTDS ở Việt Nam có điểm
khác biệt cơ bản với hòa giải thành ngoài Tòa án (hòa giải thành ở cơ sở, hòa giải
thành tranh chấp lao động, hòa giải thành các tranh chấp thương mại, hòa giải thành
tranh chấp quyền sử dụng đất…). Đó là, quyết định CNSTT của đương sự trong TTDS
có hiệu lực pháp luật ngay, còn kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án không có giá trị
pháp lý để cưỡng chế thi hành. Hiện nay có quan điểm cho rằng, cần quy định chặt
chẽ điều kiện, thủ tục để Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án nhằm
nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ngoài Tòa án, giảm bớt việc khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết[33, tr.17].
Đúng là việc công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án làm giảm bớt việc
khởi kiện tại Tòa án nhưng hiện nay ở Việt Nam việc tiến hành hòa giải ngoài Tòa án
được giao cho những người chưa có đủ tiêu chuẩn nhất định (tiêu chuẩn pháp lý, kỹ
năng hòa giải, tiêu chuẩn đạo đức…) mà điều này thì các nước lại quy định rất cụ thể
nên hòa giải thành ngoài Tòa án có thể không chính xác thậm chí vi phạm điều cấm
của pháp luật. Do đó, Tòa án chưa thể công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
được.
1.1.3. Ý nghĩa của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân
sự
CNSTT của đương sự không chỉ có ý nghĩa trong đời sống xã hội mà còn có vị
trí quan trọng trong hoạt động tư pháp.
1.1.3.1. Ý nghĩa về chính trị - xã hội
Thứ nhất, việc CNSTT là phương thức giải quyết VVDS hiệu quả và bảo toàn
các mối quan hệ giữa các đương sự.
Trong nhiều thập kỷ qua hòa giải hay cụ thể hơn là sự thỏa thuận, thương lượng
đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, góp phần giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp,
củng cố khối đoàn kết giữa các quốc gia nói chung và giữa cộng đồng của dân tộc Việt
Nam nói riêng. Việc CNSTT giúp các đương sự hiểu biết và thông cảm với nhau, góp
phần khôi phục, duy trì mối quan hệ bình thường giữa các bên đương sự, hạn chế sự đối
đầu căng thẳng cũng như mâu thuẫn giữa các bên, ngăn ngừa tội phạm có nguồn gốc từ
18
tranh chấp dân sự phát sinh. Đúng như nguyên Chánh án Tòa án Tối cao Singapore Yong Pung How đã nhận xét: “hòa giải không phải như một phương tiện giúp giảm
lượng án tồn đọng mà như một cách tránh đối đầu để giải quyết mâu thuẫn nhằm duy trì
các mối quan hệ. Trong một xã hội châu Á bảo tồn các mối quan hệ thông qua xung đột
là một giá trị quan trọng” [42, tr. 21]. Kể cả khi các đương sự không hòa giải thành,
thì việc thỏa thuận cũng giúp các đương sự kiềm chế mâu thuẫn và không làm tranh
chấp phát triển phức tạp bởi trong thỏa thuận không có người thắng, người thua.
Thứ hai, CNSTT của các đương sự là một trong những cách tốt nhất để tăng
cường tiếp cận công lý.
Trên thực tế, việc tiếp cận công lý của người dân còn vô cùng khó khăn. Chính
vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra, các đương sự thường gặp trở ngại trong việc tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án
trong phiên hòa giải cũng như khi ra quyết định CNSTT của đương sự, các đương sự
sẽ hiểu được những quy định của pháp luật về vấn đề mà họ tranh chấp. Từ đó, các
bên có thể hiểu và tự đưa ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp đúng với quy
định của pháp luật. Việc các đương sự đạt được thỏa thuận đã mang lại nhiều lợi ích
cho các bên như hiểu được các quy định của pháp luật, giải quyết được tranh chấp
nhưng vẫn bảo tồn được mối quan hệ giữa các đương sự. Hay nói cách khác các bên
vẫn tiếp cận được công lý mà không cần Tòa án xét xử.
Thứ ba, CNSTT của các đương sự còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật của
các đương sự thông qua việc giải thích pháp luật của người thứ ba hoặc Tòa án.
Trên thực tế, các đương sự phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn có thể là do họ không
có hiểu biết pháp luật. Nhưng với sự giải thích pháp luật của Thẩm phán thì các đương sự
đã hiểu bổn phận và trách nhiệm của mình, qua đó mà đạt được thỏa thuận với nhau. Hay
nói cách khác thông qua việc Tòa án CNSTT của đương sự mà họ hiểu rõ các quy định
pháp luật liên quan đến quan hệ tranh chấp, quyền và nghĩa vụ của mình cũng như từ đó
thực hiện những hành vi đúng với quy định của pháp luật.
1.1.3.2. Ý nghĩa về pháp lý
Thứ nhất, CNSTT của các đương sự góp phần đảm bảo quyền tự định đoạt của
đương sự, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Khi tham gia vào các quan hệ dân sự thì các chủ thể có toàn quyền quyết định
tham gia hay không tham gia, quyết định quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như