Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
CHƯƠNG I
KHÁI QT VỀ BỐI CẢNH ĐỊA LÝ VÀ LỊCH SỬ NAM BỘ
ĐẦU THẾ KỶ XX
-----&----Những điều kiện thiên nhiên có tính đặc thù của một vùng đất khơng thể khơng
để lại dấu ấn trong đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân sống trên
địa bàn ấy.
Do vậy, tìm hiểu một tơn giáo địa phương, ra đời và phát triển trên một địa bàn
nhất định khơng thể khơng tìm hiểu đặc điểm địa lý - sinh thái và mơi trường xã hội,
tức bối cảnh lịch sử đã hình thành và ni dưỡng tơn giáo đó.
I.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ - SINH THÁI
Nam bộ là một vùng địa lý có nhiều nét riêng biệt, ở vào vị trí mở về thiên
nhiên, kinh tế và văn hóa. Nam bộ là châu thổ lớn của vùng Đơng Nam Á và là đồng
bằng lớn nhất ở nước ta. Do cấu tạo tự nhiên, Nam bộ chia làm hai khu vực lớn:
Khu vực thứ nhất là vùng phù sa cổ đệm giữa cao ngun đất đỏ và châu thổ
sơng Cửu Long rộng khoảng 26.000km2 gồm các tỉnh miền Đơng, còn gọi là miền
Đơng Nam bộ... Trong lịch sử khẩn hoang Nam bộ, khu vực này là nơi dừng chân đầu
tiên tâm
của nhiều
dânCần
từ miền
ngồi
chuyển
phíacứu
Nam
Trung
Họcđồn
liệulưu
ĐH
Thơ
@ vào,
Tài trước
liệu khi
họcdi tập
vàxuống
nghiên
[11, 45 ].
Khu vực thứ hai thuộc châu thổ sơng Cửu Long, có diện tích 40.000km2, còn
gọi là miền Tây Nam Bộ... Đồng bằng rộng lớn này được tưới tắm bởi một hệ thống
sơng rạch dày đặc mà khơng nơi nào trên đất nước có thể bì được [11, 45 ].
Từ rất sớm, Nam bộ đã là nơi hội tụ, gặp gỡ của các luồng văn hóa Đơng - Tây,
một giao điểm động, thống, mở. Nam bộ được xem như một tiểu vùng văn hóa ở vào
vị trí “ ngã tư đường của các cư dân và nền văn hóa, văn minh” [15, 17 ].
Đồng bằng Nam bộ có con sơng lớn thứ muời trên thế giới chảy qua - sơng
Mékong, với chiều dài 4.200km, tạo ra nhiều nhánh sơng phụ và kênh gạnh lớn. Chỉ
tính riêng đồng bằng sơng Cửu Long đã có 37 con sơng, tổng chiều dài 1.708km và
137 kênh gạch lớn, tổng chiều dài 2.780km [3, 28].
Sơng ngòi, kênh rạch Nam bộ khơng những thoả mãn điều kiện tối cần thiết đối
với cư dân sống bằng nghề trồng lúa nước, cung ứng nguồn tài ngun, thực phẩm
phục vụ cho cuộc sống con người, mà còn tạo điều kiện và ưu thế cho việc đi lại, giao
lưu kinh tế, văn hố, nối liền vùng đất Nam bộ với bên ngồi.
Nam bộ có mơi trường sinh thái đa dạng, phong phú. Đa dạng ở chỗ Nam bộ có
nhiều vùng sinh thái. Đó là vùng phù sa cổ đệm giữa cao ngun đất đỏ và châu thổ
sơng Cửu Long với chín tiểu vùng sinh thái: Vùng phù sa nước ngọt ven và giữa sơng
Tiền - sơng Hậu, vùng đồng bằng ven biển cao, vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau,
3
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
vùng rừng U Minh, vùng đồng bằng ven biển ngập triều, vùng trũng Đồng Tháp Mười,
vùng thềm phù sa cổ - đất xám bạc màu, vùng trũng Hà Tiên, vùng Bảy Núi và đồi núi
thấp An Giang [13, 10-11].
Chế độ gió mùa, chế độ mưa, chế độ nhiệt ở Nam bộ tương đối đồng nhất trong
tồn khu vực. Khí hậu mang tính chất cận xích dạo với tổng nhiệt độ hoạt động cao,
nhiệt độ trung bình tháng vừa cao vừa ổn định và tương đối đều giữa các tiểu vùng
[14, 52]. Khơng giống với nhiều khu vực khác trong tồn quốc, ở Nam bộ có sự phân
biệt rõ ràng giữa mùa khơ và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10
(dương lịch), tương ứng với sự hoạt động của gió mùa Đơng Bắc. Còn mùa khơ kéo
dài từ tháng 11 đến tháng 4 (năm sau), tương ứng với sự hoạt động của gió mùa Tây
Nam. Mưa ở Nam bộ có đặc điểm thường ngắn, còn gọi là mưa rào, khơng kéo dài như
ở miền Bắc hay miền Trung.
Nhìn chung, với một vị trí địa lý thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi về tài
ngun đất, nước, khí hậu. Nam bộ đã trở thành vùng đất đầy hứa hẹn cho những
người nơng dân ra đi mở đất, mở nước, tìm kế sinh nhai. Tuy nhiên, vốn là một vùng
đất hoang, trước đó nhiều thế kỷ chưa được khai phá, cho nên thiên nhiên Nam bộ
cũng hết sức khắc nghiệt, nào cảnh “khỉ khọt trên cây, dưới sơng sấu lội, trên rừng cọp
um”, nào cảnh “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội tựa bánh canh”, nào cảnh “nước mặn
đồng chua, hổ mây, cá sấu thi đua vẫy vùng”, đến cả chuyện “cỏ mọc thành tinh, rắn
đồng biết gáy” [11, 61].
Những thuận lợi và khó khăn của đặc điểm địa lý - sinh thái Nam bộ khơng
những tác động trực tiếp đến q trình lao động mà còn ảnh hưởng đến đời sống văn
Trung
Học
ĐH
@ Tài
tậplàvà
cứu
hố tâm
và tâm
linh liệu
của cư
dânCần
NamThơ
bộ. Quan
niệmliệu
Namhọc
bộ như
mộtnghiên
vùng linh
địa,
miền đất thiêng cũng dần dần nảy sinh và phát triển trong cư dân. Châu thổ sơng Cửu
Long bằng phẳng, đất đai màu mỡ, sơng ngòi chằng chịt, khơng có một ngọn núi. Chỉ
ở vùng “An Giang tân cương”, miền cực Tây được khai phá sau cùng đầy lam sơn,
chướng khí và bí hiểm với những ngọn núi vươn cao giữa đồng bằng được xem là hài
hòa, biểu tượng cho giang sơn - Đất nước [7, 20]. Vào mùa nước nổi đồi núi An Giang
như những hòn non bộ giữa cái bể cạn mênh mơng của châu thổ sơng Cửu Long. An
Giang (cũ) có tất cả 23 ngọn núi, trong đó có 7 ngọn trong “Thất Sơn” được xem là
những điểm “linh huyệt” của vùng đất này. Thất Sơn sớm trở thành nơi hội tụ của các
bậc tu tiên, phương ngữ Nam bộ có câu “tu phật Phú n, tu tiên Bảy Núi” [7, 22], đã
phần nào chứng tỏ vị trí của Thất Sơn trong đời sống tâm linh của một bộ phận cư
dân. Từ giữa thế kỷ XIX đến mãi sau này, nhiều tơn giáo địa phương như Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo... đã xuất hiện và phát triển ở An
Giang, nhất là vùng Bảy Núi.
Có thể nói đặc điểm địa lý - sinh thái, trực tiếp là vùng địa linh “Bảy Núi” đã có
những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống văn hóa và tâm linh của cư dân Nam bộ,
góp phần tạo điều kiện khách quan đưa đến sự ra đời của các tơn giáo địa phương Nam
bộ nói chung và đạo Hòa Hảo nói riêng.
I.2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Lịch sử Nam bộ đầu thế kỷ XX nằm trong bối cảnh chung của lịch sử Việt
Nam bấy giờ. Song, hồn cảnh cụ thể của Nam bộ với những nét đặc trưng tiêu biểu
4
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
mới là tác nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các tơn giáo địa phương nói chung,
trong đó có đạo Hòa Hảo.
Nam bộ là một vùng hỗn hợp cư trú của nhiều dân tộc, trong đó chủ yếu là bốn
tộc người: Việt, Khmer, Hoa, Chăm... Trước thế kỷ XVII, khi chưa có sự di cư của
người Việt, người Hoa và người Chăm tới vùng đất này, thì người Khmer và văn hố
Khmer đã có vai trò chủ thể ở vùng đất Nam bộ. Người Khmer là cư dân nơng nghiệp,
họ sống trong phum sóc trên các giồng đất cao, làm ruộng rẫy, giỏi nghề trồng lúa
nước. Mỗi sóc bao gồm một số phum. Phum là đơn vị cư trú được cấu tạo bởi những
người cùng chung một dòng họ... Phum sóc là đơn vị cư trú cơ bản của người Khmer
[5, 80]. Do sinh sống trên một địa bàn rộng lớn, trãi qua một q trình phát triển lâu
dài, người Khmer đã sáng tạo cho mình một nền văn hố phù hợp với những điều kiện
nơi thiên nhiên đa dạng và bí ẩn.
Người Hoa có mặt ở Nam bộ vào nửa sau thế kỷ XVII. Cụ thể, năm 1680 lớp di
dân người Hoa đầu tiên xuất hiện ở đồng bằng sơng Cửu Long [5, 58]. Họ đến Việt
Nam chủ yếu để cư trú chính trị - xây dựng lực lượng chờ cơ hội trở về đánh bại triều
đình phong kiến Mãn Thanh. Nhưng, do địa vị thống trị của nhà Thanh ngày càng
được củng cố, triều Minh khơng còn cơ may khơi phục. Thế nên, những nhóm người
Hoa di cư đến Nam bộ đã nhập vào cộng đồng Việt Nam sinh sống lâu dài, phần lớn
người Hoa sống ở nơng thơn, một số tập trung ở các vùng ven biển và những thị trấn,
thị tứ đầu mối các đường giao thơng thuỷ bộ [5, 216]. Nếp sống cộng đồng của người
Hoa được giữ gìn trong các sinh hoạt lễ hội như hát tuồng (Tàu), múa lân, tập tục thờ
cúng: Qn Thánh Đế Qn, Thánh Mẫu, Ơng Bổn... cũng đã ảnh hưởng và trở thành
đối tượng
thờ cúng
trong
vài tơn
giáo@
củaTài
người
ở Nam
24-25]. cứu
Trung
tâm Học
liệu
ĐHmột
Cần
Thơ
liệuViệt
học
tập bộ
và[7,nghiên
Người Chăm Nam bộ, là một bộ phận người Chăm từ miền Nam Trung bộ
(Việt Nam) đã đến sinh sống tại các tỉnh Nam bộ... Họ cư trú tập trung nhất tại tỉnh An
Giang trên vùng đồng bằng sơng Cửu Long từ nửa đầu thế kỷ XIX và tụ cư thành từng
làng (palay). Tổ tiên những người Chăm này đã sang Campuchia sinh sống từ thế kỷ
XVII. Nửa đầu thế kỷ XIX họ đến định cư ở An Giang trên địa bàn như hiện nay [5,
283]. Hoạt động kinh tế của người Chăm ở An Giang là sự kết hợp giữa các hoạt động
bn bán, dệt thủ cơng, đánh cá và sản xuất nơng nghiệp [5, 286]. Người Chăm ở đồng
bằng sơng Cửu Long và ở Nam bộ nói chung đều theo Hồi giáo. Hồi giáo chi phối sâu
sắc đời sống tinh thần, đồng thời tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực văn hố, kinh tế,
xã hội của người Chăm.
So với người Chăm và người Hoa, người Việt vào định cư và khai phá vùng đất
Nam bộ sớm hơn, từ thế kỷ XVII [2, 26]. Do q trình khai phá Nam bộ diễn ra trong
thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, chia cắt Đàng trong - Đàng ngồi, nên lưu dân vào
Nam chủ yếu là người có gốc từ vùng Thuận - Quảng, địa đầu xứ Đàng Trong [7, 2627]. Tuy có nguồn gốc địa phương khác nhau; phong tục tập qn, cách thức làm ăn,
thân phận giàu nghèo, dân tộc và tơn giáo có thể khơng giống nhau, nhưng tất cả họ
đều chung một mục tiêu lớn là đẩy lùi đầm lầy, cây dại, thú dữ để có ruộng đồng phì
nhiêu, xóm làng trù mật, đầm ấm. Họ sống cởi mở rộng rãi và hào hiệp hơn. Sự gò bó,
cứng nhắc, hẹp hòi được cởi bỏ lại đằng sau, để sáng tạo ra một phong cách sống tự do
phóng khống hơn. Họ khơng khuất phục cường quyền, sẵn sàng làm tất cả vì việc
nghĩa, bênh vực kẻ yếu, bao bọc kẻ thất cơ lỡ vận [7, 28-29].
5
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Những đặc trưng trong bản thân mỗi con người Nam bộ kể trên là điều kiện để
họ cũng như các tộc người khác dễ dàng giao lưu văn hố, ảnh hưởng lẫn nhau.
Nam bộ là mảnh đất có nhiều tín ngưỡng, tơn giáo nhất ở nước ta, với những
nét đặc thù mà nơi khác khơng có. Q trình hình thành, du nhập và phát triển của các
tín ngưỡng, tơn giáo Nam bộ gắn liền với lịch sử thăng trầm và tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội có nhiều biến động của vùng đất này.
Phật giáo sớm du nhập vào nước ta rất sớm, có ảnh hưởng sâu sắc đến q trình
hình thành văn hố Đại Việt và chi phối mọi mặt đời sống nhân dân. Nhưng từ trước
đó (thế kỷ XV) và nhất là đến giữa thế kỷ XIX, kéo dài đến đầu thế kỷ XX, Phật giáo
Việt Nam vẫn trong cơn suy thối. Giáo lý nhà Phật vốn cao siêu và thâm th, trong
bối cảnh suy thối, thiếu những bậc chân tu dìu dắt, trong một chừng mực nào đó
khơng còn thích hợp. Do đó, Phật giáo ít có điều kiện ăn sâu vào đời sống tinh thần
của đại đa số nơng dân.
Đạo giáo xâm nhập vào nước ta theo gót chân của phong kiến phương Bắc. Nếu
như Nho giáo cần một cơ sở xã hội để bám rể, phải học nhiều chữ mới biết thì Đạo
giáo vào nước ta như có sẵn miếng đất thuộc, chính vì vậy mà nơng dân Việt Nam
theo Đạo giáo mà khơng biết rằng đó là Đạo giáo. Trong nhân dân, Đạo giáo - với
những dấu ấn tín ngưỡng dân gian của nó, vẫn tồn tại phổ biến bằng hình thức này hay
hình thức khác, như thờ Ngọc Hồng, thờ Quan Cơng, Tam Phủ...
Trước và trong thời quốc gia phong kiến độc lập, tư tưởng và tín ngưỡng Đạo
giáo đã có điều kiện phát triển rộng rãi, trở thành một thứ tín ngưỡng trong đời sống
Trung
Học
liệu
ĐH
@ Tài
liệu
tậpbộvà
cứu
tinh tâm
thần của
nhân
dân.
TuyCần
nhiênThơ
tín ngưỡng
Đạo
giáohọc
ở Nam
bấynghiên
giờ vẫn khơng
phải là tư tưởng chủ đạo chi phối mọi mặt đời sống văn hố tinh thần, tâm linh của
nơng dân.
Từ nửa sau thế kỷ XVIII, Thiên Chúa giáo đã bắt đầu du nhập vào nước ta và
giáo hội Thiên Chúa giáo được thành lập. Nhưng Thiên Chúa giáo vốn có những giáo
lý xa lạ với phong tục tập qn Việt Nam. Sang thế kỷ XIX, nó xuất hiện cùng với tai
họa ngoại xâm, đe doạ độc lập dân tộc. Đối với dân tộc ta, việc lựa chọn tiếp nhận tơn
giáo dường như gắn liền với tiêu chí dựng nước và giữ nước. Những gì khơng giúp ít
cho sự nghiệp đó đều được tiếp nhận một cách thận trọng hoặc bị tẩy chay. Hơn nữa,
Thiên Chúa giáo bị nhà Nguyễn bài xích, cấm nhân dân tin theo. Do vậy, ảnh hưởng
của Thiên Chúa giáo khơng mạnh, khơng đáng kể.
Như vậy, suốt một thời gian dài, trong cộng đồng cư dân người Việt Nam bộ
khơng có một hệ tư tưởng hay tơn giáo chủ đạo nào chi phối, mà trái lại bị nhiều hệ tư
tưởng, tơn giáo khác nhau cùng tác động. Vào thời điểm đó nhu cầu về tín ngưỡng,
tâm tư tình cảm và đời sống tinh thần tâm linh đã khơng được đáp ứng. Điều đó là
ngun nhân dẫn đến sự ra đời của nhiều tơn giáo địa phương ở Nam bộ.
Sự xuất hiện của các tơn giáo địa phương ở Nam bộ còn có ngun nhân sâu xa
ngay trong đặc điểm hồn cảnh lịch sử cụ thể của Nam bộ bấy giờ.
Năm 1858, thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng. Đầu năm 1859, Pháp xâm lược
Nam kỳ. Năm 1867, Pháp chiếm trọn Nam bộ. Thực dân Pháp tiến hành cơng cuộc
6
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
bình định Việt Nam về mặt qn sự, và trong bối cảnh đó bắt tay vào khai thác thuộc
địa Việt Nam nói chung và Nam bộ nói riêng một cách quy mơ.
Trong khi triều đình nhà Nguyễn ngày càng bế tắc trước sứ mệnh bảo vệ độc
lập dân tộc, nhân dân khắp các tỉnh Nam kỳ đã đồng lòng đứng lên khởi nghĩa. Các
phong trào đấu tranh chống Pháp của sĩ phu u nước nổ ra liên tục và khắp nơi,
nhưng cuối cùng đều thất bại. Bên cạnh đó, phong trào cơng nhân cũng diễn ra rầm rộ,
sơi nổi và gây được tiếng vang lớn. Đối với thực dân Pháp, một mặt chúng ra sức đàn
áp bắt bớ những người tham gia phong trào hòng đẩy lùi phong trào đấu tranh u
nước của nhân dân, mặt khác, chúng thi hành chính sách cai trị hà khắc, thực hiện việc
cấm đốn tín ngưỡng, tơn giáo... Sự thất bại của các phong trào u nước chống Pháp
và sự đàn áp dã man của kẻ xâm lược đã tạo nên tình trạng khủng hoảng tâm lý nặng
nề.
Nam bộ đầu thế kỷ XX, có thể nói lại rơi vào thế bế tắc, tình trạng xã hội hết
sức tồi tệ. Trong khi các tơn giáo thế giới khơng có điều kiện để gây ảnh hưởng lớn ở
Nam bộ, những người dân nghèo lại đặt một niềm tin vào “Đấng cứu thế” để cứu dân
nghèo khỏi cảnh bế tắc và đem lại một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Tóm lại, đến đầu thế kỷ XX, Nam bộ vẫn là một vùng đất với nhiều đặc thù mà
các nơi khác ở nước ta khơng có. Mơi trường thiên nhiên đa dạng, phong phú, vừa
khắc nghiệt vừa thuận lợi, thành phần cư dân, dân tộc phức hợp, q trình giao lưu văn
hố diễn ra mạnh mẽ nhưng khơng có một tư tưởng chủ đạo hay tơn giáo nào chi phối.
Bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt là mơi trường thuận lợi tạo các yếu tố xã hội cho tơn
giáo địa phương ra đời và phát triển, trong đó có đạo Hòa Hảo.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
7
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
CHƯƠNG II
Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ĐẠO HỊA HẢO NAM BỘ
-----&-----
II.1 Q TRÌNH HÌNH THÀNH ĐẠO HỊA HẢO NAM BỘ
II.1.1. Nguồn gốc
Một tơn giáo ra đời sau dường như bao giờ cũng có sự kế thừa phần nào giáo lý,
lễ nghi của tơn giáo ra đời trước. Việc đạo Hòa Hảo có nhiều nét tương tự Bửu Sơn Kỳ
Hương có khẳng định đạo Hòa Hảo là sự tiếp nối, kế tục hay giai đoạn phát triển sau
của Bửu Sơn Kỳ Hương hay khơng? Hay đạo Hòa Hảo chỉ kế thừa một phần của Bửu
Sơn Kỳ Hương cần được nghiên cứu và làm rõ.
II.1.1.1. Vài nét về đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
Người sáng lập và truyền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là ơng Đồn Văn Hun. Sau
này ơng có pháp danh là Minh Hun.
Đồn Văn Hun sinh ngày 15 tháng 10 năm Đinh Mão (1807) tại làng Tòng
Sơn, thuộc Cái Tàu Thượng, Sa Đéc (Trấn Vĩnh Thanh xưa, nay là Đồng Tháp).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Năm 1849, Đồn Văn Hun về làng Kiến Thạnh (miền Thất Sơn, An Giang)
giữa lúc bệnh dịch đang hồnh hành, số người mắc bệnh chết rất nhiều... Ơng đã chữa
bệnh cho nhân dân bằng pháp thuật và bùa chú: dùng nước cúng trên bàn thờ, bao
nhang, giấy vàng bạc, hoa dâng Phật... Đồn Văn Hun vừa chữa bệnh vừa khun
mọi người tu niệm theo những đạo lý đơn giản, dễ đi vào lòng người, đã cuốn hút rất
nhiều người tin theo. Do nhu cầu chữa bệnh và truyền đạo ngày càng lớn, dân chúng
đến thọ giáo ngày một đơng nên Đồn Văn Hun đã cho đệ tử dựng lên một ngơi
chùa, sau này gọi là Tây An Cổ Tự. Tây An Cổ Tự được xây dựng vào khoảng năm
1849, sau đó khơng lâu ơng chính thức khai đạo, mở lối tu hành riêng của mình.
Vào thời điểm đó vừa chữa bệnh vừa truyền đạo một thời gian, Đồn Văn
Hun bị chính quyền địa phương cho là “gian đạo sĩ”, tụ hợp người làm loạn, chống
triều đình. Ơng bị bắt đưa về Châu Đốc. Sau đó, ơng được thả ra cho hành đạo tại chùa
Tây An Núi Sam. Tại đây, Đồn Văn Hun tiếp tục truyền bá, phát triển một mối đạo
mà đến lúc này ơng gọi là Bửu Sơn Kỳ Hương. Do ở chùa Tây An chữa bệnh và
truyền đạo, nên ơng được dân chúng kính cẩn gọi là Đức Phật Thầy Tây An.
Để có nơi tu luyện, tránh sự dòm ngó của chính quyền và có đất cho tín đồ, đệ
tử làm ruộng rẫy sinh sống, Đức Phật Thầy Tây An đã cùng đệ tử, tín đồ vào Thới Sơn
- Nhà Bàng, Láng Linh lập trại ruộng, dựng chùa.
Những ngơi chùa do Phật Thầy Tây An dựng lên khơng bài trí một hình ảnh
hay cốt tượng Phật giáo nào. Ơng chỉ cho thờ một mếng vải màu đỏ, gọi là Trần Điều,
treo trước tường chính diện. Bàn thờ bày hoa, nước lã, nhanh đèn, khơng có chng,
8
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
mõ... Tấm Trần Điều được hiểu là tiêu biểu cho tấm lòng từ bi, bát ái, đồn kết, u
mến đồng bào nhân loại... trong chùa khơng có hình bóng màu áo tu sĩ nhà Phật,
khơng có tiếng tụng kinh, tiếng gõ mõ. Mọi người từ đệ tử đến tín đồ đều được tự do
để tóc, để râu, khơng bị kiêng cấm việc dựng vợ gả chồng. Tất cả đều có gia đình riêng
và tự làm ăn sinh sống.
Như vậy, chùa của Đồn Văn Hun hồn tồn khác với chùa của đạo Phật
trong tổ chức, sinh hoạt và ngay cả trong nghi thức thờ phụng, lễ bái...
Nhiều người cho rằng Bửu Sơn Kỳ Hương là lấy bốn chữ đầu của một bài thơ:
“Bửu ngọc qn minh thiên việt ngun,
Sơn trung sư mạng địa nam tiền,
Kỳ niên trạng tái tân phục quốc,
Hương xuất trình sinh tạo nghiệp n.”
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do Đồn Văn Hun khai sáng trong thời kỳ xã hội
đen tối, chiến tranh tàn khốc diễn ra liên miên, đói kém, dịch bệnh đe doạ mọi người.
Theo ơng con người phải vượt lên trên, loại trừ mọi cái xấu để bước vào Hội Long
Hoa - Hội chọn những người hiền đức, ăn ở có nhân, có nghĩa được sống cuộc đời an
lạc, thái bình mãi mãi, đồng thời cũng là hội của Tiên Phật trừng trị những kẻ gian ác
mất nhân tính.
Trung tâm
Học
Thơđược
@ dự
TàiHội
liệu
học
tập
nghiên
cứu
Theo
Phậtliệu
ThầyĐH
Tây Cần
An, muốn
Long
Hoa,
mỗivà
người
phải loại
trừ
cái xấu, vượt lên trên bằng cách thực hiện Tu Nhân Học Phật. Tu Nhân là rèn luyện
tâm tính, làm lành lánh dữ để tích đức. Muốn Tu Nhân phải thực hiện Tứ đại trọng Ân,
tức coi trọng việc thực hiện, đền trả bốn Ân lớn, đó là Ân tổ tiên, cha mẹ; Ân đất nước;
Ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và Ân đồng bào, nhân loại. Tứ đại trọng Ân là nền
tảng đạo lý của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, chi phối tư tưởng, đời sống của tín đồ theo
u cầu của tơn giáo này.
Học Phật là niệm Phật, tức trì niệm danh hiệu Phật-A-Di-Đà (Nam mơ A-DiĐà-Phật). Phật Thầy Tây An khơng thuyết giáo nhiều và khơng đặt nặng vấn đề Học
Phật đối với tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Thực tế cho thấy, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương
chỉ chú trọng Tứ đại trọng Ân và trì niệm danh hiệu Phật-A-Di-Đà. Học phật tức là noi
gương theo Đức Phật mà thơi...
Tất cả tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đều khơng phải ly gia cát ái, khơng phải ăn
chay trường. Phật Thầy dạy cho tín đồ thờ cúng tại nhà. Trong nhà ngồi bàn thờ Tổ
tiên, ơng bà, cha mẹ còn có ngơi Tam Bảo, trên chỉ bài trí một miếng Trần Điều,
hương hoa, nước lã và cũng giống như ở chùa Bửu Sơn Kỳ Hương.
Sự ra đời của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương với một lượng tín đồ đáng kể khơng
những đã chi phối đời sống tinh thần của người dân đồng bằng sơng Cửu Long trong
hồn cảnh xã hội bế tắc, đáp ứng những nhu cầu có lợi ích thiết thực cho người dân
Nam bộ bấy giờ là chữa bệnh, khai hoang, lập làng, tạo dựng cuộc sống mới, mà còn
là tổ chức tập hợp lực lượng, vừa tun truyền lòng tơn kính Tổ tiên, u thương nòi
9
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
giống, đồng loại và đặc biệt là tình u thương q hương đất nước, vừa thực hiện
khởi nghĩa chống ngoại xâm. Chính sự thuyết phục của một giáo lý và nghi thức đơn
giản, phù hợp với trình độ người dân Nam bộ lúc ấy; chính vì đáp ứng được nhu cầu
thực tiễn một cách thiết thực mà Bửu Sơn Kỳ Hương đã nhanh chóng phát triển. Tuy
nhiên, do tác động của hồn cảnh khách quan lẫn chủ quan, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương bị
phân tán, mất cơ sở tổ chức trước sự khủng bố và cấm đạo của thực dân Pháp. Tầm
ảnh hưởng của Bửu Sơn Kỳ Hương thu hẹp dần...
II.1.1.2. Sự ra đời của đạo Hòa Hảo
Sau thời điểm ra đời đạo Cao Đài ít lâu, trên đất Nam bộ lại tiếp tục xuất hiện
một ơng đạo khác, lập ra cái đạo của mình ngay tại trong gia đình. Chẳng bao lâu đạo
này cũng được mở rộng thành một tơn giáo, chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống
tâm linh và đời sống chính trị, xã hội trên địa bàn một số tỉnh Nam bộ, đó là đạo Hòa
Hảo.
Đạo Hòa Hảo còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo ra đời năm 1939 tại làng Hòa Hảo,
quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc ( nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang ) và phát triển chủ yếu ở các tỉnh vùng đồng bằng sơng Cửu Long.
Lúc đầu, đạo Hòa Hảo xuất hiện như nhiều hiện tượng mê tín thường thấy ở
vùng đồng bằng sơng Cửu Long, nơi mà người dân rất tin vào sức mạnh huyền bí của
những “ Thầy”, những “ Cậu”, những “ Bà”... hiện thân của Trời Phật, Thần linh.
Trong số các “Thầy”, các “Cậu” ở vùng Bảy Núi, Châu Đốc trước đây (còn gọi là
vùng Thất Sơn ) có ơng Huỳnh Phú Sổ là người có sức thu hút mạnh nhất, trở thành
Trung
tâm
ĐH Hảo.
Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
người
sángHọc
lập raliệu
đạo Hòa
Ơng Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi (ngày 15 tháng 01 năm
1920) tại làng Hòa Hảo là con thứ tư của ơng Huỳnh Cơng Bộ và bà Lê Thị Nhậm,
một gia đình địa chủ ở vùng Châu Đốc. Thuở thiếu thời ơng Huỳnh Phú Sổ là người
lãnh đạm, trầm lặng, ít vui đùa ca hát, thường xa lánh nơi đơng người. Nhưng bù lại
ơng là người thơng minh, nhạy cảm và có năng khiếu thơ văn. Sau khi tốt nghiệp tiểu
học, ơng phải bỏ học vì sức khoẻ yếu. Đến tuổi trưởng thành, nhưng ơng khơng nghĩ
đến chuyện vợ con, gia đình ơng Huỳnh Cơng Bộ rất lo lắng, tìm mọi cách chạy chữa,
nếu nghe ở đâu có lương y, thầy bùa cũng tìm đến, nhưng các lương y, thầy bùa đạo sĩ
nổi tiếng vùng Thất Sơn đều bó tay.
Đồng thời ơng Sổ cũng tự mình đi tìm thầy chữa bệnh. Là người sáng dạ nên
q trình đi chữa bệnh ở trên núi, ơng Huỳnh Phú Sổ học được nhiều bài thuốc Nam,
phương pháp luyện bùa chú. Đặt biệt, ơng đã dành nhiều thời gian đọc sấm của Trạng
Trình (đó là ơng Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585 ) q ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng, đỗ
Trạng Ngun vào cuối đời Lê, đầu đời Mạc. Ơng được vua phong là Trình Quốc
Cơng nên được gọi là Trạng Trình. Ơng làm nhiều thơ lấy tên là Bạch Vân. Thơ ơng
tập trung vào triết lý “nhân”, “đạo” và mang tính cảm hứng thế sự như những tiên tri
về thời vận ) và nghiên cứu tư tưởng của mơn phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy
Tây An. Đạo Hòa Hảo chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Bửu Sơn Kỳ Hương, điều
này được thể hiện qua các mặt sau:
- Về giáo lý:
10
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Giáo lý đạo Hòa Hảo với nội dung Học Phật Tu Nhân, trong đó đặt nặng việc
Tu Nhân đối với tín đồ, đặc biệt lấy việc thực hiện Tứ đại trọng Ân làm nền tảng đạo
lý chi phối tư tưởng, đời sống tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.
- Về luật lệ lễ nghi:
Biểu tượng đặt trên bàn thờ đạo là tấm vải gọi là Trần Điều (màu đỏ) - có từ
thời Phật Thầy Tây An đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, sau này đạo Hòa Hảo đổi Trần Điều
thành Trần Dà (màu nâu).
Lễ vật cúng Phật chỉ có bơng hoa, nước lã và nhang đèn, khơng cần tụng kinh,
gõ mõ...
Tất cả tín đồ khơng phải xuất gia tu hành, khơng phải ăn chay trường, tùy ý để
râu, tóc và tự do trong việc dựng vợ gã chồng...
- Về tổ chức:
Đạo Hòa Hảo cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương chủ trương khơng có hàng giáo
phẩm và hệ thống tổ chức của đạo.
Như vậy, giữa Bửu Sơn Kỳ Hương và Hòa Hảo có những điểm giống nhau
trong tổ chức, sinh hoạt và ngay cả trong nghi thức thờ phụng, lễ bái...
Những tư tưởng này sẽ được giải thích rõ ở phần sau.
Trung tâm
liệulên
ĐH
Thơkhơng
@ Tài
liệu
tập
và nghiên
SauHọc
thời gian
núiCần
chữa bệnh
khỏi,
trở học
về, ơng
Huỳnh
Phú Sổ tựcứu
nhận
là bậc “ sinh như tri” biết được những việc q khứ và tương lai. Ơng nói đã gặp Phật
A-Di-Đà, Phật Thích-Ca, Ngọc Hồng Thượng Đế, được thọ mệnh của các vị đó,
xuống trần với nhiệm vụ truyền bá tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để “ chấn hưng Phật
giáo cứu độ chúng sinh khỏi sơng mê, bể khổ, về chốn Tây phương cực lạc” [2, 200201]. Ơng Huỳnh Phú Sổ bắt tay vào việc chữa bệnh cho nhân dân bằng những bài
thuốc đã học. Đồng thời với việc chữa bệnh, ơng rao giảng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của
Phật Thầy Tây An qua những bài sấm kệ do ơng soạn ra như:
“Đức Di-Đà truyền mở đạo lành
Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh
Ra sắc lệnh bảo ta truyền dạy” [6, 97].
...
“Ta thương người len lỏi xuống trần
Đạo vơ vi của Phật ân cần
Nối theo chí Thích-Ca ngày trước” [6, 59].
Đặc biệt trong khi thuyết giảng, ơng Huỳnh Phú Sổ xen vào tun truyền ca
ngợi truyền thống chống giặc ngoại xâm của các bậc tiền bối, nhất là gương chiến đấu
11
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
chống thực dân Pháp của các đệ tử của Phật Thầy Tây An như: Quản Thành (Trần
Văn Thành ), Chài Lịch ( Nguyễn Trung Trực ), Ngơ Lợi, Cử Đa... Vì vậy, quần chúng
nơng dân quanh vùng An Giang vừa khổ đau vì bệnh tật được thầy cứu chữa, vừa đói
nghèo bất cơng trong cuộc sống được thầy rao giảng nên đã đến với đạo của Huỳnh
Phú Sổ ngày một đơng.
Sau một thời gian vừa chữa bệnh, vừa thuyết giảng, gieo đức tin về cứu khổ cứu
nạn vào khơng ít quần chúng đang cần cả trong hiện thực cuộc sống, lẫn trong đời
sống tâm linh, ngày 18 tháng 05 năm Kỷ Mão, nhằm ngày 04 tháng 07 năm 1939, khi
20 tuổi thấy cơ dun lập đạo đã đến, ơng Huỳnh Phú Sổ tổ chức lễ khai đạo tại gia
đình, chính thức cho ra đời một mơn phái mới của Phật giáo, lấy tên làng Hòa Hảo đặt
cho nó: Phật giáo Hòa Hảo hay đạo Hòa Hảo. Ơng Huỳnh Phú Sổ được tín đồ suy tơn
làm giáo chủ của đạo, với những danh xưng: Ơng Tư Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ,
Đức Phật Thầy...
II.1.2. Giáo lý, luật lệ lễ nghi và tổ chức
II.1.2.1. Giáo lý
Giáo lý đạo Hòa Hảo được thể hiện trong những bài sấm kệ do Đức Huỳnh
Giáo Chủ soạn ra gồm sáu tập:
- Sấm khun người đời tu niệm,
- Kệ dân của người khùng,
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
- Sấm giảng,
- Giác mê tâm kệ,
- Khuyến thiện,
- Những điều sơ học cần biết của kẻ tu hiền.
Một số sách của Ngài soạn ra có nội dung tương tự của Sư vãi Bán Khoai (đệ tử
đời thứ tư của Phật Thầy Tây An ). Có quyển trùng cả tên sách như Giác mê tâm kệ,
Sấm khun người đời tu niệm, Kệ đân của người khùng. Cả Đức Huỳnh Giáo Chủ và
Sư vãi Bán Khoai đều xưng danh là khùng điên và được giải thích là: khi xuống phàm
độ thế, xưng danh khùng điên cốt để đối lại với người đời khơn lanh.
Có thể nói giáo lý đạo Hòa Hảo là sự tiếp thu và nâng cao tư tưởng Bửu Sơn Kỳ
Hương của Phật Thầy Tây An. Nội dung giáo lý gồm hai phần:
- Phần Học Phật.
- Phần Tu Nhân.
12
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
II.1.2.1.1. Phần Học Phật
Phần Học Phật chủ yếu dựa vào giáo lý Phật giáo, nhưng được đơn giản, tóm
lược đi nhiều và có sửa đổi đơi chút. Đạo Hòa Hảo cho rằng phần Học Phật có ba pháp
mơn chính, đó là Ác pháp, Chân pháp và Thiện pháp.
- Ác pháp là các pháp làm trở ngại cho Thiện pháp, làm ơ nhiễm thân tâm, gây
nên tội lỗi khiến cho con người vướng mãi trong vòng ln hồi sinh tử. Thuộc về Ác
pháp có:
“ Tam nghiệp” là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, tạo ra mười điều ác:
sát sinh, đạo tặc (trộm cắp), tà dâm thuộc về ác của thân nghiệp; vọng ngữ (nói dối),
lưỡng thiện (nói hai mặt), ác khẩu (nói điều ác), ỷ ngơn (nói khốc lác) thuộc về ác của
khẩu nghiệp; tham lam, sân nộ (giận dữ), mê si thuộc về ác của ý nghiệp.
“ Thất tình” là bảy trạng thái tình cảm: mừng, giận, buồn, u, ghép, muốn, sợ.
“ Lục dục” là sáu điều ham muốn: danh vị, tài lợi, sắc đẹp, tư vị, hư vọng, tật
đế.
“ Ngũ uẩn” là năm thứ (tham, sân, si, nhân, ngã) làm cho con người trở nên đần
độn, ngu si, tối tăm cản trở con người đến chỗ siêu thốt.
(Ngũ uẩn trong thuyết vơ ngã của Phật giáo gồm năm yếu tố: sắc, thụ, tưởng,
hành, thức tạo nên con người, ngũ uẩn kết hợp thì con người sinh, ngũ uẩn tan rã thì
Trung
con tâm
ngườiHọc
diệt). liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
“ Tứ đồ tường” là bốn bức tường làm cho con người sa ngã, nhốt chặt con
người trong vòng tối tăm tội lỗi: tửu, sắc, tài, khí.
- Chân pháp là các pháp phá tan những mê hoặc tối tăm để bừng sáng về trí
tuệ, để giác ngộ chân lý. Thuộc về Chân pháp có:
“ Tứ diệu đế” là bốn chân lý cao siêu của Phật.
Ÿ Khổ đế là sự khổ.
Ÿ Tập đế là nguồn gốc của sự khổ.
Ÿ Diệt đế là cách diệt khổ.
Ÿ Đạo đế là con đường tu tập để giải thốt.
(Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng nhìn nhận thuyết “Tứ diệu đế” của Phật giáo
nhưng trong khi thuyết pháp, Ngài chuyển thứ tự và nội dung như sau:
Ÿ Tập đế là khi mới bước vào tu tập.
Ÿ Diệt đế là phải diệt trừ các Ác pháp.
Ÿ Khổ đế là nhẫn nại nhịn khổ trong tu tập.
13
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Ÿ Đạo đế là đạt đến bậc giác ngộ (thành đạo).
“ Thập nhị nhân dun” là mười hai nhân dun chằng chịt tạo ra chuỗi dây
nhân quả trong vòng ln hồi sinh tử mà con người vướng mắc khơng thốt ra được.
Theo Đức Huỳnh Giáo Chủ: “Nhơn dun thứ nhất phát khởi từ màn vơ minh mà che
lấp bản ngã (linh hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu
nẻo ln hồi thống khổ. Đây là mười hai dun sanh: vơ minh sanh hành, hành sanh
thức, thức sanh danh sắc, danh sắc sanh lục nhập, lục nhập sanh xúc động, xúc động
sanh thọ cảm, thọ cảm sanh ái, ái sanh bảo thủ, bảo thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh
sanh lão tử” [6, 380].
“ Ngũ trượt” là năm thứ nhơ bẩn làm ơ nhiễm thân tâm, mãi say đắm trong cõi
trần ai tục luỵ: kiếp trược, kiến trượt, phiền não trượt, chúng sanh trượt, mạng trượt.
Nếu con người hiểu được nguồn gốc sự khổ, ngun nhân của ln hồi sinh tử
và nhất là thấy cõi trần cũng như cuộc đời con người ơ trượt (nhơ bẩn), thì khơng còn
say đắm chấp ngã, sẽ nhanh chóng tìm phương cách tu hành, để thốt khỏi cõi đời ơ
trượt.
- Thiện pháp là các pháp lành mà con người cần tu tập để gây thiện dun, sửa
trị thân tâm cho thanh sạch. Thuộc về Thiện pháp có:
“ Bát chính đạo” là tám con đường tu hành chân chính, nếu ai theo sẽ diệt trừ
các Ác pháp do thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tạo ra: chính kiến, chính nghiệp,
chính mạng sẽ diệt trừ các Ác pháp về thân nghiệp, chính ngữ diệt trừ các Ác pháp về
Trung
Học
liệu
Cần tinh
Thơ
@chính
Tài định,
liệu chính
học niệm
tập và
khẩutâm
nghiệp;
chính
tư ĐH
duy, chính
tiến,
diệt nghiên
trừ các Áccứu
pháp
về ý nghiệp.
“ Bát nhẫn” là tám điều nhẫn nhịn để vượt qua những thử thách trong xử thế và
trong tu tập:
Ÿ Nhẫn năng xử thế là cách xử thế với đời.
Ÿ Nhẫn giới là giữ ngun giới luật.
Ÿ Nhẫn hương lân là giữ hòa khí với cộng đồng làng xóm.
Ÿ Nhẫn phụ mẫu là giữ kính trọng hiếu thảo với cha mẹ.
Ÿ Nhẫn tâm là giữ lòng an định.
Ÿ Nhẫn tính là giữ cho tính tình điềm đạm.
Ÿ Nhẫn đức là giữ cho đức độ hòa nhã.
Ÿ Nhẫn thành là thành tâm thành tính.
Nói tóm lại, phần Học Phật của đạo Hòa Hảo cho rằng con người ta do “tam
nghiệp”, “lục dục”, “ngũ uẩn” ... nên phạm phải các điều ác, chịu đau khổ trong vòng
ln hồi sinh tử. Chỉ khi nào có Chân pháp, hiểu được lý “tứ diệu đế”, “Thập nhị
nhân dun” thì mới diệt trừ Ác pháp và đồng thời phải tu theo “Bát chính đạo”, chịu
14
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
“Bát nhẫn” thì mới có Thiện pháp để thốt khỏi vòng ln hồi trở thành bậc hiền
nhân.
II.1.2.1.2. Phần Tu Nhân
Theo giáo lý đạo Hòa Hảo Tu Nhân là tu “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”. Tứ Ân Hiếu
Nghĩa là bốn điều ân nghĩa mà “Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các
mơn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy sinh
gắng gổ mới mong làm trọn.
Ÿ Ân Tổ tiên cha mẹ,
Ÿ Ân đất nước,
Ÿ Ân Tam Bảo,
Ÿ Ân đồng bào và nhân loại.” [6, 146]
- Ân Tổ tiên cha mẹ:
Mỗi con người được sinh ra, ni dưỡng trưởng thành là nhờ cơng lao cha mẹ,
cơng sinh thành ra cha mẹ là ơng bà Tổ tiên, do đó phải sống hiếu nghĩa với cha mẹ,
ơng bà Tổ tiên.
Con người phải có trách nhiệm đền ơn đáp nghĩa với cha mẹ, ơng bà Tổ tiên,
“muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẻ phải
Trung
tâm
Học
liệu lời,
ĐHchớ
Cần
@ Tài
liệu lòng
học cha
tậpmẹ...”
và nghiên
ta rán
chăm
chỉ nghe
nên Thơ
xao lãng,
làm phiền
và “ta cầncứu
phải
lo ni dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh hoạn ốm đau...” [6,
147]. Muốn đền ơn ơng bà Tổ tiên “là đừng làm điều gì tồi tệ điếm nhục tơng mơn,
nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết
chí tu cầu và trong sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.” [6, 147].
Đây là điều ân nghĩa đầu tiên, quan trọng nhất trong Tứ đại trọng Ân.
- Ân đất nước:
Gắn liền với ân nghĩa cha mẹ, ơng bà Tổ tiên, mỗi người phải ân nghĩa với đất
nước, q hương, vì đó là nơi ni ta sống và ơng bà Tổ tiên ta thường sống; đó là nơi
cho ta thuần phong mỹ tục, nâng tâm hồn ta lên và nâng bước ta đi.
Mỗi con người phải u đất nước q hương, tuỳ theo tài lực của mình mà làm
cho q hương giàu mạnh. Để đền ơn đất nước “ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ
xuất đến đổi làm cho nước nhà đau khổ và đừng giúp cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại
đến đất nước” [6, 147].
- Ân Tam Bảo:
Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Ân Tam Bảo là ghi nhớ cơng ơn Phật, Pháp,
Tăng, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho rằng: “về phương diện tinh thần con người cần nhờ
đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng, khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng tồn
thiện, tồn mỹ, bát ái vơ cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm ln khổ
15
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
hải”. Vì vậy, “bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí
tuệ minh mẩn đặng đi đến con đường giải thốt...” [6, 148].
- Ân đồng bào nhân loại:
Mỗi con người phải sống ân nghĩa với đồng bào của mình, bởi vì “đồng bào ta
và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang
sử vẽ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận
sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang sơn đất nước” [6, 149].
Khơng những thế, mỗi con người phải ân nghĩa với đồng loại, nhân sinh, “là
những người đang sinh sống với chúng ta trên quả địa cầu” và “cái tình ấy, nó khơng
bến khơng bờ; khơng phân biệt màu da, khơng phân biệt chủng tộc; nó cũng khơng
luận sang hèn và xố bỏ hết các tầng lớp đẳng cấp xã hội” [6, 149-150].
Đạo Hòa Hảo chủ trương vừa Học Phật vừa Tu Nhân. Học Phật tạo nên đức,
Tu Nhân tạo nên cơng. Có cơng đức mới nhanh chóng trở thành bậc hiền nhân được.
Tuy nhiên trong hai phần Học Phật và Tu Nhân, đạo Hòa Hảo đặc biệt coi
trọng Tu Nhân, vì cho rằng việc tu hành phải dựa trên căn bản đạo đức, trước hết là
đạo làm người. Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên” (mn vạn
quyển kinh của Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu) [6, 146]. Thậm chí
khơng thực hiện Tu Nhân thì khơng có Học Phật được, hoặc có Học Phật được cũng
chẳng có ý nghĩa gì: “Dục tu tiên đạo, tiên tu nhân đạo; nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn
kỹ” (muốn tu thành tiên phật, trước hết phải tu đạo làm người; đạo người mà khơng tu
Trung
tâm
Học
ĐH
thì tiên
phật
còn liệu
xa vời)
[2, Cần
211]. Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Với nội dung giáo lý Học Phật Tu Nhân như nêu trên, Đức Huỳnh Giáo Chủ
cho rằng đạo Hòa Hảo là một mơn phái đặc sắc khác biệt nhất trong các mơn phái của
Phật giáo. Phật giáo Hòa Hảo sẽ khắc phục được những hạn chế của Phật giáo là có
q nhiều kinh sách, triết lý cao siêu trù tượng chỉ phù hợp trong việc giáo hóa cho
một số ít người có điều kiện xuất gia tu hành.
II.1.2.2. Luật lệ lễ nghi.
Đạo Hòa Hảo khơng xây dựng chùa chiền, khơng thờ tượng ảnh. Việc thờ
phụng và hành đạo của đạo Hòa Hảo rất đơn giản, chủ yếu là tiến hành tại gia đình.
(Tuy chủ trương khơng xây dựng chùa chiền, nhưng thực tế đạo Hòa Hảo đã
quản lý, sử dụng một số chùa của Phật giáo, chủ yếu ở những nơi đa số tín đồ Phật
giáo chuyển theo tín ngưỡng Hòa Hảo. Sau này ở các xã, ấp người ta cho xây dựng các
“tồ đọc giảng” để đọc sấm giảng và dạy giáo lý cho tín đồ, nhưng đó khơng phải là
nơi thờ tự của đạo).
Mỗi gia đình theo đạo Hòa Hảo lập trang thờ đạo ở gian chính giữa trong nhà,
hai bên đặt bàn thờ Tổ tiên và một trang thờ Thơng thiên ở sân trước cửa nhà. Bàn thờ
đạo ở gia đình ơng Huỳnh Phú Sổ gọi là “Thánh địa Tổ đình Phật tổ” [4, 87-88]. Biểu
tượng đặt trên bàn thờ Đạo là tấm vải Trần Điều (màu đỏ). Việc thờ Trần Điều có từ
thời Phật Thầy Tây An, thể hiện tư tưởng của Phật giáo “Phật tại tâm, tâm tức phật”.
Sau này đạo Hòa Hảo đổi Trần Điều thành Trần Dà (màu nâu), thể hiện sự hòa hiệp.
16
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Việc thờ tự đơn giản trên đây, được Đức Huỳnh Giáo Chủ giải thích: “từ trước đến
nay, các chùa chiền đã tạo q nhiều hình tượng. Đành rằng vì tơn kính đấng Từ-Bi
mới làm ra thờ phượng Ngài, nhưng cũng có những kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây giờ
chúng ta khơng nên tạo thêm nữa. Làm thế chúng ta khơng có ý hủy-báng sự phượng
thờ của các chùa chiền” [6, 165].
Ngài còn dạy rằng: “Ngồi sự thờ Phật, Tổ tiên, ơng bà, cha mẹ và những vị
anh hùng của đất nước, khơng nên thờ vị tà thần nào khác mà mình khơng rõ căn tích”
[6, 166].
Lễ vật cúng Phật “chỉ nên cúng nước lạnh, bơng hoa và nhang thơi. Nước lạnh
tiêu biểu cho sự trong sạch, bơng hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng để
bán mùi uế trượt. Ngồi ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ơng bà cúng
món chi cũng được” [6, 166].
Đạo Hòa Hảo khơng đọc kinh kệ Phật giáo chỉ đọc sấm giảng của Đức Huỳnh
Giáo Chủ soạn ra và niệm lục tự Nam-Mơ-A-Di-Đà-Phật để tĩnh tâm. Do cách hành
đạo niệm lục tự để tĩnh tâm nên còn gọi đạo Hòa Hảo là Pháp ngơn Tịnh độ Học Phật
Tu Nhân [2, 216].
Đạo Hòa Hảo còn có những quy định khác về tơn giáo, quan hệ gia đình và xã
hội. Người muốn nhập dạo “phải có hai người bổn đạo cũ, có đức hạnh tiến cử và bảo
lãnh... Khi nào khơng muốn giữ đạo, mình phải cho người tiến cử được bơi tên mình
ra. Khơng người nào được phép xưng mình là người trong đạo mà lại khơng giữ luật”
[6, 172].
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Về việc để tóc của tín đồ đạo Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo Chủ có nói: “tất cả
bổn đạo nên biết rằng thầy khơng có buộc để tóc vì đó thuộc về phong tục chứ chẳng
thuộc về tơn giáo... Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc và tu khơng phải là để tóc, để tóc
khơng phải là tu. Nếu để tóc mà khơng chọn trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu
hành” [6, 170-171]. Tín đồ phải thực hiện ăn chay “ngày 14-15, 29-30 và mồng 1...
trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay” [6, 176-177]. Ngày hai lần (sáng sớm từ 4giờ
đến 5giờ và chiều tối từ 18giờ đến 19giờ ) tín đồ phải cầu nguyện và khấn lại trước
bàn thờ ơng bà, trước bàn thờ Phật và bàn Thơng thiên. Đối với những người khơng ở
tại gia đình thì “đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá bốn hướng. Còn đi xa
nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được” [6, 177].
Những ngày lễ kỷ niệm của đạo Hòa Hảo (tính theo âm lịch)
- Ngày 01 tháng 01: Vía Đức Phật Di-Lặc
- Ngày 15 tháng 02: Rằm Thượng Nguơn (lễ Thượng Ngun).
- Ngày 07 tháng 03: Lễ kỷ niệm Đức Ơng.
- Ngày 08 tháng 04: Lễ Phật Đản.
- Ngày 26 tháng 04: Lễ kỷ niệm Đức Bà.
- Ngày 18 tháng 05: Đức Huỳnh Giáo Chủ khai đạo Phật giáo Hòa Hảo.
17
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
- Ngày 15 tháng 07: Rằm Trung Nguơn (lễ Trung Ngun).
- Ngày 12 tháng 08: Vía Phật Thầy Tây An.
- Ngày 15 tháng 10: Rằm Hạ Nguơn (lễ Hạ Ngun).
- Ngày 25 tháng 11: Đản sinh Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Ngồi ra còn có các ngày lễ kỷ niệm các đệ tử của Phật Thầy Tây An như
Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành, Ngơ Lợi, ...
II.1.2.3. Tổ chức
Với giáo lý, cách thức hành đạo như trên, đạo Hòa Hảo chủ trương khơng có
hàng giáo phẩm và hệ thống tổ chức của đạo.
Thời kỳ mới ra đời, đạo Hòa Hảo chỉ có một ít chức sắc đứng đầu lo việc đạo.
Tổ đình ở làng Hòa Hảo cũng chỉ là một ngơi nhà của một hộ trung nơng khá giả với
kiến trúc thơng thường như nhiều ngơi nhà ở của một gia đình nơng thơn, khơng hề có
vẻ gì của nơi đền miếu. Điểm khác biệt duy nhất đối với các ngơi nhà trong vùng có lẽ
chỉ là bốn chữ nhỏ đề trên cổng ra vào “q tiện đồng nghinh”. Nhưng đó chỉ là những
chữ được viết lên về sau này khi nền đạo đã được xác lập.
Sau này, đạo Hòa Hảo phát triển mạnh, một số chức sắc như Trần Văn Sối
(Năm Lửa), Lâm Thành Ngun, Nguyễn Giác Ngộ... có nhiều tham vọng chính trị
muốn khống chế tồn đạo phục vụ cho mục đích riêng của họ nên đã dựa vào các thế
Trung
tâm
Học
liệu
ĐH Cần
Thơ tổ@chức
Tàicác
liệu
tập
nghiên
cứu
lực đế
quốc
lập ra
và củng
cố hệ thống
Banhọc
Trị sự
từ và
Trung
ương đến
tận
cơ sở. Đặc biệt, họ còn lập ra lực lượng vũ trang và đảng chính trị riêng cho đạo Hòa
Hảo, hình thành hai hệ thống tổ chức đạo và đảng cùng tồn tại cho đến ngày miền
Nam giải phóng. Những sự kiện này sẽ được trình bày tiếp ở phần sau.
Ngày nay, đất nước được hòa bình thống nhất, Phật giáo Hòa Hảo tiếp tục sứ
mệnh phổ truyền giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ nhằm trao dồi và nâng cao đạo đức
cho tín đồ, chấn hưng nền đạo gắn bó với dân tộc và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Cụ thể, từ 1999 Phật giáo Hòa Hảo đã được khẳng định tư cách pháp nhân là được
hoạt động bình đẳng cùng các tơn giáo khác trong khối đại đồn kết dân tộc.
Cùng với đó, Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo do Đại hội Đại biểu tín đồ Phật
giáo Hòa Hảo lần I (ngày 26 tháng 05 năm 1999) cử ra có 11 thành viên, nhiệm kỳ 05
năm (1999-2004) là tổ chức hợp pháp duy nhất của Phật giáo Hòa Hảo.Trụ sở Ban Đại
diện Phật giáo Hòa Hảo đặt tại An Hòa Tự, thị trấn Phú Mỹ, hun Phú Tân, tỉnh An
Giang.
Hệ thống tổ chức của Phật giáo Hòa Hảo gồm 02 cấp:
- Cấp tồn đạo gọi là Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo.
- Cấp cơ sở gọi là Ban Đại diện xã, phường, thị trấn.
18
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Giúp việc cho Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo và nối liên hệ với cơ sở, tại mỗi
tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) có người Đại diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh,
thành phố và các trợ lý đạo sự do Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo phân cơng. Cụ thể:
Tỉnh
Ủy viên Ban Đại diện
Trợ lý Đạo sự
STT
Thành Phố
Tỉnh
Xã
Tỉnh
Xã
1
An Giang
01
120
06
355
2
Bến Tre
01
03
3
Cần Thơ
01
24
04
27
4
Đồng Tháp
01
63
10
102
5
TP. Hồ Chí Minh
01
6
Kiên Giang
01
7
Tiền Giang
8
Vĩnh Long
13
05
09
04
03
01
30
17
05
05
101
Trong đó, Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo chọn cử ra:
01 Ủy
viênliệu
BanĐH
Đại diện
trách@
tỉnh.
Trung tâm
Học
Cầnđặc
Thơ
Tài liệu học tập và nghiên cứu
07 Đại diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh, thành phố.
34 trợ lý đạo sự tỉnh, thành phố.
232 Đại diện Phật giáo Hòa Hảo xã, phường, thị trấn.
620 trợ lý đạo sự xã, phường, thị trấn.
Tổng nhân sự: 914 vị.
Cùng với hệ thống tổ chức nhân sự, Ban Đại diện còn tổ chức 30 lớp bồi dưỡng
giáo lý căn bản Phật giáo Hòa Hảo ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh
Long, Kiên Giang, Bến Tre. Tổng số học viên tham dự 6.377. Nhiều nhất là An Giang
mở được 13 khóa với 3.404 đồng đạo học viên (đặc biệt ở An Hòa Tự 02 khóa có 904
học viên), Đồng Tháp có 08 khóa với 1.159 học viên, Cần Thơ có 04 khóa với 692 học
viên, Vĩnh Long có 02 khóa với 514 học viên, Kiên Giang có 02 khóa với 352 học
viên, Bến Tre có 01 khóa với 256 học viên tham dự.
Ở mọi điểm thuyết giảng vào ngày Rằm hoặc 30 (âm lịch), hàng tháng có
khoảng từ 200 đến 500 đồng đạo đến dự. Cụ thể, tại An Hòa Tự vào ngày Rằm tháng
10 có khoảng 1.000 đồng đạo đến dự.
19
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Ngồi ra, Ban Đại diện còn tổ chức sinh hoạt đạo sự 01 lần tại An Hòa Tự có
hơn 1000 người dự. Tại Đồng Tháp 03 lần, tại Cần Thơ 01 lần, tổng số người dự có
khoảng 3.000 người.
Cùng với thời gian, đường hướng hành đạo “vì đạo pháp, vì dân tộc” của Phật
giáo Hòa Hảo hoạt động trong 05 năm qua (1999-2004) ngày càng sáng tỏ, tạo niềm
tin tưởng nơi bà con tín đồ. Nhờ vậy nên được sự quan tâm, giúp đỡ từ mọi phía. Hệ
thống tổ chức của Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo ngày càng được củng cố, nâng cao
năng lực phục vụ nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của bà con đồng đạo.
Mặc dù, những thành quả đạt được tuy còn khiêm tốn nhưng đã nói lên sự đồn
kết, gắn bó của tồn thể tín đồ “chân tu tâm đạo”, chung sức chung lòng cùng Ban
Đại diện đóng góp “cả vật chất tinh thần lo đạo”. Bên cạnh đó, còn thể hiện sự giúp
đỡ nhiệt tình, hiệu quả từ mọi phía của các cấp Chính quyền, Ban ngành, Đồn thể ở
những nơi có đơng đồng bào theo đạo Phật giáo Hòa Hảo, tạo cho tín đồ an tâm tu tập
và dễ dàng báo đáp Tứ Ân mà Đức Huỳnh Giáo chủ đã chỉ dạy.
II.2. Q TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO HỊA HẢO
Lịch sử tồn tại và phát triển của đạo Hòa Hảo được chia ra làm các giai đoạn
với một số sự kiện nổi bậc như sau:
II.2.1. Giai đoạn 1940-1945
Năm 1940, khi đạo Hòa Hảo ra đời được một năm, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ
ra vàtâm
thất bại.
Pháp
thi hành
sách liệu
cai trịhọc
khắctập
nghiệt,
bớ, đàn cứu
áp dã
Trung
HọcThực
liệudân
ĐH
Cần
Thơchính
@ Tài
vàbắt
nghiên
man. Nam bộ bao trùm khơng khí khủng bố. Trong trạng thái hoang mang dao động.
Nhiều người đã theo đạo Hòa Hảo để tìm sự an ủi và cứu vớt. Đến cuối năm 1940, số
tín đồ Hòa Hảo có đến vài trăm ngàn người.
Năm 1941, đạo Hòa Hảo tiếp tục phát triển mạnh, ơng Huỳnh Phú Sổ có lực
lượng quần chúng hổ trợ, nên khi phát xít Nhật tràn vào Đơng Dương, thực dân Pháp
lo ngại ơng Huỳnh Phú Sổ theo Nhật nên đã câu thúc ơng ở Châu Đốc, rồi Cần Thơ,
Bạc Liêu.
Năm 1942, phát xít Nhật mua chuộc lơi kéo đạo Hòa Hảo, đưa ơng Huỳnh Phú
Sổ về Sài Gòn. Ơng Huỳnh Phú Sổ vận động một số nhân vật chính trị của một số tổ
chức, đảng phái thân Nhật như Đại việt, Quốc dân đảng... vào đạo Hòa Hảo để gây
thanh thế. Đồng thời, cũng trong thời gian này, phát xít Nhật còn lập ra các tổ chức
chính trị, xã hội, kinh tế, qn sự lơi kéo nhiều thanh niên đạo Hòa Hảo tham gia, làm
cho đạo Hòa Hảo ngày càng có thanh thế trong đời sống chính trị, xã hội Nam bộ lúc
bấy giờ.
Năm 1945, phát xít Nhật đưa ơng Huỳnh Phú Sổ đi “khuyến nơng” ở một số
vùng vừa để thực hiện chủ trương của Nhật (bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đai) vừa
thơng qua đó củng cố phát triển lực lượng tín đồ ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long.
cùng thời gian này, ơng Sổ và những người lãnh đạo đạo Hòa Hảo vận động thành lập
tổ chức “Việt Nam độc lập vận động hội”, nhưng khơng thành cơng. Sau đó, còn xây
dựng chương trình vận động thành lập liên hiệp các tổ chức hệ phái Phật giáo lấy tên
20
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
là “Việt Nam Phật giáo liên hiệp hội”, nhưng cũng khơng được giới Phật giáo hưởng
ứng. Sau những cố gắng khơng thành cơng, những người lãnh đạo đạo Hòa Hảo quay
về xây dựng, củng cố tổ chức đạo của mình, tiến hành lập Ban Trị sự ở các tỉnh và cơ
sở. Ban Trị sự Trung ương do ơng Huỳnh Phú Sổ làm Hội trưởng, Lương Trọng
Tường làm Tổng thư ký. Cùng với việc thiết lập tổ chức hành chính đạo, các đội bảo
an, một hình thức vũ trang, được hình thành ở các cơ sở của đạo Hòa Hảo. Lực lượng
này do các đệ tử của ơng Huỳnh Phú Sổ như Lê Quang Vinh, Trần Văn Sối, Lâm
Thành Ngun, Nguyễn Giác Ngộ chỉ huy.
II.2.2. Giai đoạn 1945-1954
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ơng Huỳnh Phú Sổ được cách mạng mời
tham gia Ủy ban kháng chiến Nam bộ với tư cách đại diện cho đồng bào theo đạo Hòa
Hảo. Đến năm 1945, tổng số tín đồ đạo Hòa Hảo khoảng 700.000 người.
Năm 1946, ơng Huỳnh Phú Sổ và những người lãnh đạo đạo Hòa Hảo thành lập
tổ chức “Việt Nam dân chủ xã hội đảng”, gọi tắt là đảng Dân xã bao gồm lực lượng
nồng cốt trong đạo Hòa Hảo và tổ chức “Việt Nam quốc gia độc lập đảng”. Đảng Dân
xã là một tổ chức chính trị có tun ngơn, điều lê, chương trình hoạt động và cơ cấu tổ
chức riêng. Đứng đầu đảng Dân xã lúc đó là Nguyễn Bảo Tồn (người của Việt Nam
quốc gia độc lập đảng). Sau khi lập đảng chính trị những người lãnh đạo đạo Hòa Hảo
còn lập ra lực lượng vũ trang riêng (dựa trên chi đội 30 được hình thành sau Cách
mạng tháng Tám) lấy tên là bộ đội Nguyễn Trung Trực với bảy chi đội vũ trang
khoảng 20.000 binh sĩ và 300.000 đội viên dân qn bảo an.
Trung tâm
Học
liệu
Cần
@ tại
TàiChâu
liệuĐốc.
họcSau
tập
Năm
1947,
ơngĐH
Huỳnh
PhúThơ
Sổ chết
đó,và
lựcnghiên
lượng vũcứu
trang
của đạo Hòa Hảo bắt đầu chia rẽ, mỗi nhóm cát cứ những vùng khác nhau:
- Lê Quang Vinh (Ba Cụt), tạo uy thế ở vùng Ơ Mơn, Thốt Nốt (Cần Thơ) và
Long Xun.
- Trần Văn Sối (Năm Lửa), đóng ở Cái Vồn (Bình Minh-Vĩnh Long) và Cần
Thơ.
- Lâm Thành Ngun (Hai Ngốn), lập tổng hành dinh ở Cái Dầu, kiểm sốt
Châu Đốc, Bảy Núi.
- Nguyễn Giác Ngộ, đóng ở Chợ Mới, kiểm sốt Chợ Mới-Long Xun.
Những năm 1946, 1947, 1948, lực lượng vũ trang Hòa Hảo phát triển mạnh.
Lực lượng vũ trang Hòa Hảo trong thời kỳ này với khẩu hiệu “bảo vệ đạo” đã tổ chức
nhiều cuộc tấn cơng vào các cơ sở kháng chiến của ta ở vùng đồng bằng sơng Cửu
Long, gây thiệt hại lớn cho cách mạng.
II.2.3. Giai đoạn 1954-1975
Đến năm 1955, Mỹ đưa Ngơ Đình Diệm về nắm chính quyền ở miền Nam, âm
mưu muốn xóa bỏ các giáo phái, kích động cuộc chiến tranh giữa các giáo phái ở miền
Nam (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xun), lực lượng vũ trang của đạo Hòa Hảo tan rã, đa
số sáp nhập vào qn đội Nguỵ.
21
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Đến năm 1964, được sự nâng đỡ hỗ trợ của Mỹ-Nguỵ, đạo Hòa Hảo củng cố
lại tổ chức, xây dựng, mở mang các cơ sở tơn giáo, văn hóa, xã hội. Hệ thống Ban Trị
sự được kiện tồn từ Trung ương đến tận cơ sở, với cơ cấu bốn cấp: Trung ương, tỉnh,
huyện, cơ sở của khoảng 2000 chức sắc do Lương Trọng Tường đứng đầu. Đảng Dân
xã cũng được củng cố để hỗ trợ cho đạo...
Năm 1967, cơ quan lãnh đạo đạo Hòa Hảo có sự chia rẽ, hình thành các phe
nhóm với hai Ban Trị sự Trung ương gồm phái cũ do Lương Trọng Tường và phái mới
do Huỳnh Văn Nhiệm lãnh đạo.
Năm 1972, Lê Quang Liêm lại tách ra khỏi phái Lương Trọng Tường lập ra
Ban Trị sự Trung ương mới, hình thành ba phái với ba Ban Trị sự Trung ương cùng
tồn tại đến ngày miền Nam giải phóng. Sau đó, đạo Hòa Hảo còn lập ra Tổng đồn bảo
an do Trần Văn Bảy (Hai Tập) làm Tổng trưởng, lập Viện Đại học Hòa Hảo...
Trong thời kỳ 1954-1975, do chiến tranh ác liệt, mặt khác do sự nâng đỡ, lơi
kéo của Mỹ-Nguỵ, nên đạo Hòa Hảo đã phát triển nhanh chóng. Đến năm 1975, tổng
số tín đồ đạo Hòa Hảo lên tới khoảng trên 2.000.000 người.
II.2.4. Giai đoạn 1975 đến nay
Đến đầu năm 1975, các Ban Trị sự Trung ương tranh chấp nhau ảnh hưởng
trước Mỹ-Nguỵ, với khẩu hiệu: “chống cộng, cứu nước, giữ đạo, thờ thầy”. Đầu tháng
05 năm 1975, đại bộ phận tan rã, trốn lủi ra nước ngồi, số còn lại “tử thủ” cho đến
ngày 05 tháng 05 năm 1975, mới đầu hàng hoặc bị bắt. Các Ban Trị sự giải tán, đạo
Trung
Học
Thơ @
Tài
liệulo học
Hòatâm
Hảo trở
lại liệu
là mộtĐH
tơn Cần
giáo khuyến
thiện,
chăm
đồn tập
kết vàvà
annghiên
ninh nơngcứu
thơn
miền Tây Nam bộ.
Từ sau năm 1975, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo giảm dần, còn khoảng 1.000.000
người. Gần đây một số chức sắc đạo Hòa Hảo kiến nghị với chính quyền các cấp và
Nhà nước ta cơng nhận đạo Hòa Hảo là một tơn giáo, cho khơi phục lại Ban Trị sự đạo
các cấp. Năm 1993-1994, Lê Quang Liêm nhiều lần thay mặt Trung ương 3 Phật giáo
Hòa Hảo (Ban Trị sự thành lập năm 1964 là Trung ương 1, lập năm 1967 là Trung
ương 2) gởi “thỉnh nguyện thư” lên các cấp chính quyền xin khơi phục lại Ban Trị sự
các cấp, nhưng khơng được chấp thuận.
Năm 1999, thể theo u cầu, nguyện vọng của đơng đảo tín đồ Phật giáo Hòa
Hảo, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương cho Phật giáo Hòa Hảo tổ chức Ban Vận
động, mở Đại hội Đại biểu tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thơng qua quy chế hoạt động,
chương trình đạo sự, đề cử Ban Đại diện...
Ngày 26 tháng 05 năm 1999, Ban Vận động Phật giáo Hòa Hảo tổ chức Đại hội
Đại biểu tín đồ Phật giáo Hòa Hảo lần thứ I, nhiệm kỳ (1999-2004). Đại hội đã thơng
qua: Quy chế Phật giáo Hòa Hảo-Tổ chức và hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo
Hòa Hảo; Nhân sự Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo...
Ngày 11 tháng 06 năm 1999, Trưởng ban Ban tơn giáo Chính phủ ra Quyết định
Về việc chấp thuận Tổ chức và hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo, đã
khẳng định tư cách pháp nhân của Phật giáo Hòa Hảo hoạt động bình đẳng cùng các
tơn giáo khác trong khối đại đồn kết dân tộc.
22
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Trong khi đa số tín đồ vui mừmg phấn khởi thì có một số người ra sức chống
phá trên nhiều mặt, hết ra văn bản này đến ra văn bản khác nêu những u sách khơng
phù hợp để kích động đấu tranh, chống đối Ban Đại diện, vu cáo cán bộ, vu cáo Đảng
và Nhà nước ta.
Ngày 24 tháng 02 năm 2000, ơng Lê Quang Liêm ra tun cáo có nhiều lời lẽ
vu cáo chế độ và nói: “Lê Quang Liêm trước đây chức vụ cao cấp trong qn đội và
hành chính chế độ cũ và từ năm 1990 Lê Quang Liêm đã cơng khai chống đối lại nhà
cầm quyền Cộng sản” [8, 1-2].
Qua các kháng thư, kiến nghị và tun cáo của ơng Liêm, có lẽ tín đồ Phật giáo
Hòa Hảo và nhân dân ta ai cũng biết hành vi của ơng Liêm là như thế nào? Chính ơng
Liêm sau học tập cải tạo về đã đi thú tội trước dân nhiều lần, nhiều cuộc. Trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước ơng Liêm là người có chức vụ cao cấp trong qn
đội và hành chính của chế độ cũ, đã tiếp tay với Mỹ-Nguỵ đàn áp, khủng bố, giết hại
đồng bào lương giáo chúng ta. Ngày nay, ơng Liêm có phải người lo cho Phật giáo
Hòa Hảo khơng? Chắc chắn là khơng, điển hình là ơng khơng cùng với Ban Đại diện,
với tín đồ chân chính chung lo cho nền đạo. Ngược lại, ơng còn ra sức chống phá làm
hại cho đạo, gây rối an ninh trật tự. Tun cáo của ơng Liêm vừa vi phạm pháp luật
Nhà nước, vừa trơ trẽn, vừa nổi lên bản chất tính tốn riêng tư của ơng ta, trong khi
Ban Đại diện được Đại hội Đại biểu tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đề cử, có quy chế,
chương trình đạo sự được Nhà nước cơng nhận và đặt trụ sở tại An Hòa Tự (thị trấn
Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang), ơng cho đó là thế này thế khác, những người
đó là Đảng viên Cộng sản. Còn tun cáo của ơng do ơng ký tên, ơng làm hội trưởng,
trụ sở
đặt Học
tại nhàliệu
riêngĐH
của Cần
ơng vàThơ
bản thân
ơng trước
Trung
Tỉnh trưởng
thì
Trung
tâm
@ Tài
liệu đây
họclàtập
vàtánghiên
cứu
ơng cho là đúng, là phù hợp, thật là vơ lý, khơng một ai có thể chấp nhận được. Nhưng
sự thật vẫn là sự thật! Đó chỉ là cách nghĩ của cá nhân ơng Liêm. Còn đối với đơng
đảo tín đồ Phật giáo Hòa Hảo hồn tồn qn lãng những chặng đường gập ghềnh xưa
kia, đang ngày đêm cùng làm việc và học hỏi với các giới trong các đồn thể: Nơng
dân, Thanh niên, Phụ nữ, cùng nhau xây dựng thơn ấp ấm no, u vui, lành mạnh.
Với đường hướng “vì đạo pháp, vì dân tộc” và nhờ được sự tin u, nhiệt tình
giúp đỡ, hỗ trợ mọi mặt từ nhiều phía, mà tích cực nhất, đáng kể nhất là cơng sức đóng
góp “cả vật chất, tinh thần lo đạo” của bà con đồng đạo gần xa, nên 05 năm qua,
trong khn khổ luật pháp Nhà nước hiện hành, và trong tinh thần “kiện tồn tổ chức,
phát huy nội lực để xiển dương chánh pháp” [1, 2], Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo
đã cùng bà con đồng đạo tích cực thực hiện chương trình đạo sự nhiệm kỳ I (19992004) đạt được những thành tựu nhất định rất đáng phấn khởi.
Ngày 22 tháng 04 năm 2004, căn cứ tình hình thực tế và những hoạt động trong
đạo sự nhiệm kỳ I (1999-2004), Ban Đại diện tổ chức Đại hội Đại biểu Phật giáo Hòa
Hảo nhiệm kỳ II (2004-2009). Đại hội đã thơng qua: Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Hòa Hảo, nhân sự Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo...
Ngày 28 tháng 06 năm 2004, Quyết định của Trưởng ban Ban tơn giáo Chính
phủ Về việc chấp nhận kết quả Đại hội Đại biểu tín đồ Phật giáo Hòa Hảo lần thứ II,
nhiệm kỳ (2004-2009), lại một lần nữa cho thấy Đảng và Nhà nước ta ln có chủ
trương, chính sách đúng đắn phù hợp đối với tơn giáo nói chung và Phật giáo Hòa Hảo
nói riêng.
23
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
Ngày nay, sống dưới chế độ mới, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo được chăm lo, giáo
dục, giác ngộ nên đa số đã hiểu rõ bản chất tốt đẹp của chế độ, tích cực góp phần xây
dựng Phật giáo Hòa Hảo phù hợp với tình hình đổi mới chung, đúng chính sách, pháp
luật Nhà nước.
Sau gần 30 năm, kể từ 1975-2003, theo thống kê của Ban tơn giáo Chính phủ,
tổng số tín đồ đạo Hòa Hảo Nam bộ còn lại 1.319.515 người.
II.3. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ
II.3.1. Về ý nghĩa tâm linh
Đã hơn 60 năm qua kể từ ngày Phật giáo Hòa Hảo được thành lập và phát triển,
có một điều mà ai cũng thấy và thắc mắc. Đó là, đạo Phật ở nước ta sẵn có, các ơng
thầy truyền đạo ở nước ta khơng thiếu, thế mà Phật giáo Hòa Hảo có đặc điểm gì mà
thu hút được đại đa số cư dân, mà chủ yếu là nơng dân trong một thời lượng ngắn như
thế? Đó là do phương pháp truyền đạo, do giáo lý thích hợp với căn cơ quần chúng và
do tư cách của vị giáo chủ.
Phương pháp truyền đạo khá hấp dẫn: chữa bệnh, thuyết pháp và viết kinh.
Chữa bệnh là một cơng đức bố thí, cứu người trong cơn nguy; có chữa bệnh quần
chúng mới có cơ hội gần gũi để nhân đó thuyết pháp và truyền đạo, nhưng thuyết pháp
chỉ cảm hố được người hiện diện, còn người vắng mặt thì khơng, vậy vấn đề viết kinh
là cần thiết để lan rộng đi xa.
Về Học
giáo lýliệu
thì chuộng
điềuThơ
giản dị,
tu được
dạytập
niệm
ăn chay
kỳ,
Trung tâm
ĐH Cần
@người
Tài liệu
học
vàPhật,
nghiên
cứu
sửa mình, làm lành lánh dữ và sống lương thiện trong nghề nghiệp của mình, khơng
buộc phải thế phát vào chùa. Những mê tín dị đoan, đồng cốt, cúng bói, vàng mã, cùng
với những nghi lễ bề bộn như thầy cúng, thầy lễ, gõ mõ, tụng kinh đều được khun
đừng làm. Cúng Phật chỉ cúng hoa tươi và nước lã, chứ khơng cúng chè xơi hoặc sát
sinh. Thờ lạy chỉ được thờ Tổ tiên, ơng bà, cha mẹ, các anh hùng dân tộc và Phật trời,
khơng thờ những thánh thần nào khác, mà cũng khơng bày bố tượng cốt, hình tướng
cho thêm hao tốn và trái tinh thần vơ vi thanh tĩnh. Hơn nữa, giáo lý của đạo Hòa Hảo
còn mang ý nghĩa tâm linh mang tính thực tiễn cuộc đời. Đó là, Học Phật Tu Nhân để
trở thành hiền nhân trong cuộc đời, chứ khơng phải để lên cõi niết bàn xa vời nào đó.
Đó là gây ý thức trở về cội nguồn và nêu cao đạo làm người. Đạo làm người mà khơng
tu thì Tiên Phật cũng xa vời. Để tu đạo làm người thì phải giữ lấy hiếu nghĩa làm đầu.
“Tứ Ân Hiếu Nghĩa” trong giáo lý đạo Hòa Hảo theo thứ tự lần lượt là: Ân Tổ tiên cha
mẹ; Ân đất nước; Ân Tam Bảo; Ân đồng bào, nhân loại. Khơng Tu Nhân thì khơng thể
Học Phật được, đó là ý nghĩa thiêng liêng thực tiễn nổi bật nhất ở giáo lý đạo Hòa
Hảo.
II.3.2. Về quan hệ xã hội
Đạo Hòa Hảo ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp đơ hộ đất nước ta gần 100
năm, người dân sống trong cảnh đói khổ, tủi nhục, lầm than. Giáo pháp của đạo Hòa
Hảo là Học Phật Tu Nhân, thực hiện Tứ đại trọng Ân là góp phần giáo dục, hướng
dẫn một bộ phận nhân dân làm lành lánh dữ, trọng đạo làm người, u Tổ quốc, u
đồng bào... Từ đó tín đồ ngày càng phát triển, quần chúng lần lượt tin theo, sùng bái
24
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
làm cho thực dân, đế quốc chú ý và đi vào lợi dụng đạo Hòa Hảo. Từ một đạo, một
thầy chia ra thành lập nhiều tổ chức, Trung ương Giáo hội tách ra nhiều phe nhóm với
danh nghĩa này, danh nghĩa khác, tổ chức đảng phái chính trị như đảng Dân xã, thành
lập lực lượng vũ trang làm biến chất một số người trong đạo Hòa Hảo, sai với giáo
pháp, lem ố nền đạo, cũng có người mượn danh đạo tạo danh đời, làm Thượng, Hạ
nghị viện, làm sĩ quan, Tỉnh trưởng cho thực dân, đế quốc, những người đó trước đây
đã bao nhiêu lần ra lệnh cho máy bay, pháo súng bắn giết đồng bào, mở ra bao nhiêu
cuộc hành qn càn qt thảm hại dân lành, đề ra bao nhiêu cuộc tử hình những u
nước. Đặc biệt, là gây ra bao cảnh sát hại đồng đạo, khổ đau cho tín đồ.
Tuy nhiên, đó chỉ là thiểu số những chức sắc hám danh hám lợi “dựng đạo để
mưu đời” nên họ dễ dàng thỏa hiệp với thực dân, đế quốc. Còn đối với đơng đảo tín đồ
đạo Hòa Hảo đã thực hiện theo giáo pháp Học Phật Tu Nhân, Tứ đại trọng Ân nghe
theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, người theo đạo Hòa Hảo trong hai cuộc
kháng chiến đã tham gia đóng góp sức người sức của cho sự nghiệp Cách mạng giải
phóng dân tộc (thi hành nghĩa vụ qn sự (đi bộ đội); ni chứa, bảo vệ lực lượng cách
mạng; tiếp tế cho cán bộ, bộ đội; đưa con em vào vùng giải phóng tham gia cách
mạng...), đó là những tín đồ đã đóng góp những đóa hoa tươi thắm trong vườn hoa
chung của dân tộc.
Từ mối quan hệ xã hội đó ta thấy: Đời sống tơn giáo ln thay đổi cùng với
hồn cảnh chính trị của đất nước. Tơn giáo ln bị các thế lực chính trị có ý đồ xấu lợi
dụng. Loại trừ đạo dân tộc - đạo thờ Tổ, tất cả các tơn giáo có tổ chức khác cũng bị các
thế lực thực dân, đế quốc co kéo hết sức tinh vi và xảo quyệt. Do vậy, khơng chỉ đạo
Hòatâm
Hảo, Học
các đạo
khácĐH
cũng
bị chia
năm@
xẻ Tài
bảy, liệu
các tínhọc
đồ của
cũng đứng
Trung
liệu
Cần
Thơ
tậpmột
và đạo
nghiên
cứuở
hai chiến tuyến. Máu đổ, đức tin bị chà đạp, bị kẻ xấu làm nhơ bẩn.
Sau ngày đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta cùng Giáo hội Phật giáo
Hòa Hảo nhận thấy cần vận hành theo truyền thống tốt đẹp của đời sống tơn giáo.
Truyền thống hướng niềm tin tơn giáo vì hạnh phúc của cuộc đời, vì dân, vì nước.
Điều đó được đúc kết đầy đủ trong chủ trương tơn trọng tự do tín ngưỡng tơn giáo và
khơng tín ngưỡng tơn giáo, trong khẩu hiệu sống “tốt đời đẹp đạo”, “sống phúc âm
trong lòng dân tộc” , “Dân tộc - Đạo pháp - Xã hội chủ nghĩa”. Tất cả đều là hợp
lòng dân ý Đảng.
25
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
CHƯƠNG III
TƯ TƯỞNG HIẾU HỊA TRONG PHẬT GIÁO HỊA HẢO
-----&----Phật giáo Hòa Hảo ngay từ khi ra đời và trong suốt q trình tồn tại, phát triển
của mình vốn khơng có những biểu trưng nổi bật với các vật thể kiến trúc lớn lao như
nhà thờ của đạo Thiên Chúa, chùa tháp của đạo Phật, thánh đường của đạo Hồi. Hình
ảnh các “đọc giảng đường” chưa đủ tiêu biểu cho một tổ chức giáo hội. Nhưng do đâu
mà đạo giáo này đón nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của hàng triệu cư dân Nam
bộ, mà đặc biệt là ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long? Phải chăng, chính từ những
quan niệm gần gũi, giản dị, mà đặc biệt là chủ trương “tu tại gia” và với giáo lý đơn
giản, ý nghĩa tâm linh mang tính thực tiễn cuộc đời như tư tưởng trọng nhân nghĩa, tư
tưởng sống hòa hợp với con người, với đất trời... đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của
một bộ phận cư dân Nam bộ nói chung và đồng bằng sơng Cửu Long nói riêng.
III.1. TƯ TƯỞNG HIẾU HỊA QUA SẤM GIẢNG, GIÁO LÝ CỦA PHẬT
GIÁO HỊA HẢO
Sự kiện ngày 18 tháng 05 năm Kỷ Mão (1939) khi Đức Huỳnh Giáo Chủ chính
thức khai đạo và lấy tên làng của mình đặt sau hai chữ Phật giáo mà thành danh hiệu
của đạo - Phật giáo Hòa Hảo. Bản thân Ngài khơng hề khai thác yếu tố từ gốc gác,
q hương hay dòng dõi của mình để xây dựng đức tin cho đạo. Việc lấy tên làng
mìnhtâm
đặt cho
đạoliệu
cũngĐH
khơng
hề có
ý nghĩa
nàyhọc
là đất
gốcvà
củanghiên
đạo, mà cứu
là “để
Trung
Học
Cần
Thơ
@ coi
Tàilàng
liệu
tập
giới thiệu một đạo Phật đã được dân tộc hóa và địa phương hóa tại vùng đất Nam bộ”
[10, 20]. Mặt khác, tên gọi Hòa Hảo cũng nhằm nói lên khát vọng của một đạo giáo đã
tiếp nhận được một trong những tinh hoa của giáo lý đạo Phật, đó chính là sự hòa hợp.
Hòa hợp để mang lại sự tốt đẹp cho mình và cho người. Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy
rằng: “ Đối với nhân sinh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ và làm cho đơi đàng có
thiện cảm với nhau” [6, 170].
Tư tưởng hòa hợp cũng được thể hiện qua biểu tượng thờ của đạo, đó là màu dà
“màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa
hiệp của nhân loại khơng phân biệt chủng tộc và cá nhân” [6, 165]. Trong “Lời khun
bổn đạo”, Đức Huỳnh Giáo Chủ một lần nữa nhắc nhở các tín đồ thực hiện đúng tư
tưởng hiếu hòa “hãy lấy lòng khoan dung mà đối đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác ái
nhân đạo mà cư xử với mọi người”. Ngài nói:
“Đạo pháp thường hay dung với hòa,
Xét người cho tột xét thân ta.
Nếu người rõ phận vui lòng thứ,
Ta thứ được người, người thứ ta.” [6, 384]
Mặt khác, trong nội dung Sấm giảng ở quyển thứ năm “Khuyến thiện” cũng có
nói:
26
Luận văn Tốt nghiệp “Tìm Hiểu Đạo Hòa Hảo Nam Bộ”
“Ta thường nên tập khoan dung.
Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.
Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín đồ Phật giáo.
Nay ta đã quy y cầu Đạo,
Gây gỗ là trái thuyết từ bi.” [6, 135].
Khun người ta sống nhẫn nhục để được thuận hòa là một trong những nét nổi
bật trong nội dung Sấm giảng, giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Còn gì đáng nhẫn
nhục, hỷ xả hơn những câu:
“Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khun.
nhẫn
hòa ĐH
ta để Cần
đầu tiên,
Trung tâmChữ
Học
liệu
Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Thì đâu có mang câu thù ốn.
Việc hung ác hễ vừa thấp thống,
Chữ từ bi ta diệt nó liền.
Sự ốn thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù ốn tiêu tan mất hết.” [6, 167].
Trong bài nguyện của người cư sĩ tại gia cúng lạy trước bàn thờ Phật có câu:
“Nam mơ tứ nguyện cầu: “Bá tánh vạn dân từ tâm bác ái, giải thốt mê ly” [6, 175].
Đây cũng là câu nói thể hiện tư tưởng hiếu hòa được tín đồ đạo Hòa Hảo nhắc nhở
hằng ngày. Tư tưởng hiếu hòa cũng được đức Huỳnh Giáo Chủ thể hiện qua lời
khun những người theo đạo phải “Bài trừ sự mê tín ngơng cuồng của thiểu số người
trong đạo, làm cho tư tưởng thiện hòa của Phật Đạo được phát triển mau chóng” [6,
167].
Tư tưởng hiếu thảo cũng là một trong những tư tưởng thể hiện tính hiếu hòa
trong Phật giáo Hòa Hảo, đó là quan niệm về Tứ đại trọng Ân, đây là tư tưởng đặc
trưng, cốt lõi trong giáo lý đạo Hòa Hảo.
Ân đầu tiên và quan trọng hơn hết là Ân Tổ tiên cha mẹ, Đức Huỳnh Giáo Chủ
cho rằng: “Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc
27