Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tố tụng dân sự 9 ĐIỂM: Đương sự và việc xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.02 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì đương sự là chủ thể không thể thiếu. Trong
tiếng việt “đương sự” được hiểu “là người, là đối tượng trong một sự việc nào đó được đưa ra
giải quyết”. Như vậy theo nghĩa chung nhất thì đương sự chỉ là người, là đối tượng trong một
vụ việc nào đó được đưa ra giải quyết trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, các vấn đề về
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của đương sự chưa được chính bản thân của mọi người nắm
bắt rõ. Vì vậy, để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, nhóm em xin được chọn đề : “Đương sự và
việc xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự”
NỘI DUNG
I.

Pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự
1. Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự

Căn cứ theo khoản 1, Điều 68 BLTTDS 2015 có quy định: “Đương sự trong vụ án
dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan”.
Như vậy các đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự.
Sự khác biệt giữa quy định đương sự của BLTTDS năm 2011 với quy định của
BLTTDS năm 2015 phân định rõ đương sự vụ án dân sự và đương sự trong vụ án dân sự.
Trong đó, đương sự là cơ quan bao gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân. Cơ
quan tham gia tố tụng dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật (thủ trưởng cơ quan)
hoặc đại diện theo ủy quyền. Đương sự là tổ chức bao gồm: tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp. Tổ chức
tham gia tố tụng dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc dại diện theo ủy quyền.
Tổ chức là pháp nhân hoặc không phải là pháp nhân đều có thể tham gia tố tụng dân sự với tư
cách là đương sự. Đối với cơ quan, tổ chức nước ngoài thì năng lực pháp luật tố tụng dân sự
được xác định theo pháp luật của nước cơ quan, tổ chức đó được thành lập, pháp luật tố tụng
dân sự được xác định trên cơ sở điều ước Quốc tế là căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế
hoạt động của tổ chức Quốc tế hoặc điều ước Quốc tế đã được ký kết với cơ quan có thẩm


quyền của Việt Nam. Đương sự là cá nhân bao gồm công dân Việt Nam, người có quốc tịch
nước ngoài, người không có quốc tịch1.
2.

Năng lực pháp luật năng lực hành vi tố dụng dân sự của đương sự
i.

1

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự

Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2015, TS. Bùi Thị Hiền (Chủ biên). NXB Lao Động. .tr.112

1


Khoản 1 điều 69 BLTTDS 2015 quy đinh:
“ Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng dân sự
như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”
Đối với cá nhân: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân là khả năng có các
quyền và nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá
nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết đi. Mọi cá nhân đều có năng
lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau.
Đối với pháp nhân: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của pháp nhân (tổ chức) là khả
năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành
lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân. Người đại diện theo pháp luật hoặc người
đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ tố tụng dân sự.
ii.


Năng lực hành vi tố tụng dân sự

Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự được định nghĩa tịa khoản 2 điều 69
BLTTDS 2015:
“Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân
sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.”
Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự được quy định cụ thể như sau:
Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân
sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ được xác định theo quyết định của
Tòa án.
Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không
có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương
sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện
hợp pháp của họ thực hiện.
Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những
người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ, việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho họ được xác định theo quyết định của Tòa án.

2


Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao
động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình
tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó.

Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố
tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự
tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
3. Quyền và nghĩa vụ đương sự trong vụ án dân sự
Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự được quy định tại điều 70
BLTTDS năm 2015. BLTTDS năm có một điều (Điều 70) quy định quyền và nghĩa vụ của
đương sự, đây là quyền và nghĩa vụ chung cho các đương sự, ngoài quyền và nghĩa vụ chung
này, còn có các điều quy định quyền và nghĩa vụ riêng, đặc thù của từng đương sự, bao gồm:
nguyên đơn (Điều 71), của bị đơn (Điều 72), của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Điều
73), kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng (Điều 74).
Bên cạnh quy định quyền chung của các đương sự tại Điều 58 BLTTDS 2004 (Điều 70
BLTTDS 2015) còn quy định quyền riêng của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan phù hợp với tư cách tham gia tố tụng của họ.
Để khắc phục một số vướng mắc của BLTTDS năm 2004, đảm bảo quyền lợi của các
đương sự trong vụ án, BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định về quyền, nghĩa vụ của bị đơn có
yêu cầu phản tố ở khoản 4 và khoản 5 Điều 72 BLTTDS 2015. Theo đó, bị đơn có yêu cầu
phản tố thì có quyền của nguyên đơn. Ví dụ như trường hợp bị đơn vắng lần thứ hai tại phiên
tòa, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì nay BLTTDS 2015 đã có
căn cứ để đình chỉ yêu cầu phản tố của họ, cụ thể: “Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà
không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án
quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của
pháp luật”.
Ngoài ra việc quy định thêm trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu độc lập đối với người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở khoản 5 Điều 72 BLTTDS 2015 như trên tạo nên sự thống
nhất với khoản 1 Điều 200 BLTTDS 2015, khắc phục được sự không tương thích như ở
BLTTDS 2004.
II.

Xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự

1. Cơ sở của việc xác định tư cách đương sự

Thứ nhất: xác định tư cách đương sự trên cơ sở xác định chủ thể có quyền khởi kiện,
bị khởi kiện hoặc có quyền yêu cầu, có liên quan đến giải quyết yêu cầu:

3


Khi chủ thể khởi kiện hoặc yêu cầu thì tòa án cần xác định một cách chính xác các vấn
đề sau đây:
-

Phải xác định chỉ thể có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu hay không?

-

Họ khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích của mình hay của người
khác?

-

Họ có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu đối với ai?

Việc xác định ai có quyền khởi kiện, ai có quyền yêu cầu cần phải căn cứ vào bản chất
của mỗi quan hệ pháp luật đang được xem xét, gái quyết và đối chiếu với các quy phạm pháp
luật nội dung tương ứng.
Thứ hai: xác định tư cách của đương sự căn cứ vào sự liên quan về quyền, nghĩa vụ và
vào thời điểm tham gia tố tụng đương sự đó.
Khi xem xét sự liên quan về quyền, nghĩa vụ mà xác định việc giải quyết mối quan hệ
giữa nguyên đơn và bị đơn có liên quan đến quyền và lợi ích của chủ thể thứ ba thì tòa án cần

xác định chủ thể này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Đồng
thời, khi xem xét yêu cầu giải quyết việc dân sự thì cần xác đúng việc giải quyết việc dân sự
sẽ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những ai thì cần được xác định là người có liên quan.
Ngoài ra căn cứ vào thời điểm tham gia tố tụng cũng là cơ sở để xác định tư cách tham
gia của đương sự là nguyên đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Như vậy, có
nhiều cơ sở để xác định tư cách chủ thể tham gia tố tụng, việc xác định chủ thể tham gia tố
tụng chính xác sẽ giúp cho qua trình tố tụng được nhanh chóng, hiệu quả.
2.

Các quy định về việc xác định tư cách đương sự

i. Xác định tư cách nguyên đơn
Xác định tư cách nguyên đơn trong trường hợp tùy theo mục đích khởi kiện để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của cá nhân hay bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015 thì: “Nguyên đơn trong vụ án
dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy
định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án
bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên
đơn.”
Như vậy, khi xác định tư cách nguyên đơn ta xét theo hai trường hợp:
Trường hợp 1: khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân.
Theo đó, chủ thể được xác định là nguyên đơn phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện:

4


Thứ nhất: được giả thiết có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp
với bị đơn.

Thứ hai: tự mình khởi kiện hoặc được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện.
Đây là hai điều kiện cần và đủ, hay nói cách khác, thiếu một trong hai điều kiện, một
người không thể trở thành nguyên đơn.
Trên thực tế, đa số mọi người đồng nhất người khởi kiện chính là nguyên đơn, đây là
quan điểm không chính xác. Nguyên đơn có thể là người tự mình đứng ra khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc được cơ quan, tổ chức cá nhân khác khởi kiện thay.
Khi này, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện thay đó sẽ tham gia vụ án với tư cách là người
đại diện của nguyên đơn ( theo khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2015).
Ví dụ:
1. A cho B vay 500 triệu Việt Nam đồng, có giấy vay nợ với chữ kí của cả hai bên. Đến
hạn trả, B không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, A tự mình khởi kiện B ra Tòa án yêu cầu
B trả lại số tiền đã vay của A.
Trong trường hợp này, A thỏa mãn cả hai điều kiện: là người có quyền lợi bị xâm
phạm (B vay tiền nhưng đến hạn không trả) đồng thời A là người khởi kiện B ra Tòa nên A là
nguyên đơn.
2. X đi xe sai luật gây thiệt hại cho cháu Y (7 tuổi), Z là mẹ của cháu Y đã khởi kiện X
yêu cầu Y bồi thường thiệt hại cho cháu Y.
Ở đây, người có quyền lợi trực tiếp bị xâm phạm là Y, Z là người khởi kiện để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho Y. Y tuy không phải là người khởi kiện nhưng là người có quyền lợi
giả thiết bị xâm phạm, Y được Z khởi kiện thay nên Y là nguyên đơn. Theo đó, Z là người đại
diện theo pháp luật của Y.
3. Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người cha phải thực
hiện cấp dưỡng cho con chưa thành niên.
Tương tự như trên, người con chưa thành niên đó là nguyên đơn, còn ủy ban bảo vệ
và chăm sóc trẻ em sẽ có đại diện tham gia vụ án với tư cách là người đại diện của nguyên
đơn.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều có thể khởi kiện thay, cần căn cứ vào các
quy định cụ thể của luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, thương mại... và dựa trên cơ sở
quan hệ pháp luật có tranh chấp, pháp luật nội dung điều chỉnh quan hệ đó. Ví dụ trong quan
hệ hôn nhân, theo khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì chỉ vợ, chồng

hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Nhà làm luật quy định như
vậy trên cơ sở đây là quyền nhân thân của vợ, chồng, người khác không thể thực hiện thay

5


(trừ trường hợp quy định tai khoản 2 điều luật này). Như vậy, nếu anh A có hành vi bạo lực
gia đình với vợ là chị B (chị B có năng lực pháp luật, năng lực hành vi đầy đủ), anh A không
muốn ly hôn, chị B tuy là người có quyền lợi bị xâm phạm nhưng người khác không thể khởi
kiện thay chị B yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Trường hợp 2: khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước.
Cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách và khi đó sẽ tham gia vụ án với tư cách là nguyên
đơn. Các cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật
hoặc đại diện theo ủy quyền. Khi đó, cơ quan, tổ chức này vẫn là nguyên đơn, tham gia vụ án
thông qua người đại diện.
Ví dụ: Cơ quan bảo vệ tài nguyên, môi trường khởi doanh nghiệp vì doanh nghiệp này
đã làm ô nhiễm môi trường. Cơ quan này khởi kiện không phải vì lợi ích của cơ quan họ mà
là vì lợi ích xã hội.
Ngoài ra, cần chú ý tới hai trường hợp sau:
+ Với chủ thể khởi kiện là đơn vị thuộc pháp nhân như chi nhánh, văn phòng đại diện,
sở giao dịch ... thì pháp nhân mới là nguyên đơn vì các đơn vị này không có tư cách pháp
nhân nên không thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Ví dụ: X vay tiền của ngân hàng TMCP Liên Việt chi nhánh Đông Đô. Đến hạn trả
tiền X đã không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng vay tài sản nên giám đốc ngân hàng
TMCP Liên Việt chi nhánh Đông Đô đã nộp đơn khởi kiện X đến Tòa án để yêu cầu X thực
hiện nghĩa vụ trả tiền như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Khi này, ngân hàng TMCP Liên Việt là nguyên đơn và tham gia vụ kiện thông qua
người đại diện theo ủy quyền là giám đốc ngân hàng TMCP Liên Việt chi nhánh Đông Đô.
+ Với doanh nghiệp tư nhân, tuy có chủ doanh nghiệp là người đại diện theo pháp luật

nhưng khi tham gia vụ án dân sự thì chủ doanh nghiệp này là nguyên đơn (theo khoản 3 Điều
185 Luật Doanh nghiệp 2014) vì doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân nên
không thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Ví dụ: A là chủ doanh nghiệp tư nhân X kí hợp đồng vận chuyển hàng hóa với B. Khi
B vi phạm hợp đồng, A khởi kiện B ra Tòa yêu cầu bồi thường thiệt hại do đã vi phạm nghĩa
vụ của hợp đồng.
Khi này, A tham gia vụ án dân sự này với tư cách là nguyên đơn.
ii.

Xác định tư cách của bị đơn
Khoản 3 Điều 86 BLTTDS năm 2015 quy định như sau:

6


“Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân
sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.”
Việc xác định tư cách của bị đơn luôn được xác định cùng với tư cách nguyên đơn,
theo đó, chủ thể được coi là bị đơn nếu thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau:
Thứ nhất: giả thiết đã xâm phạm hoặc tranh chấp với quyền lợi của nguyên đơn hoặc
xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng.
Thứ hai: Bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khởi kiện
thay cho nguyên đơn.
Như vậy, việc xác định tư cách bị đơn được thực hiện sau khi xác định tư cách nguyên
đơn và dựa trên cơ sở của việc xác định tư cách nguyên đơn. Việc tham gia tố tụng của bị đơn
thường mang tính thụ động do bị bắt buộc tham gia vào tố tụng.
Cũng như cách xác định tư cách nguyên đơn, chủ thể chỉ được coi là bị đơn nếu thỏa
mãn cả hai điều kiện nêu trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì đều không được coi là bị
đơn.

Ví dụ: A cho B mượn laptop. B lấy laptop này bán lại cho C, C cho rằng B là chủ sở
hữu mà không hề biết A mới chính là chủ sở hữu chiếc laptop. Khi A phát hiện C đang giữ
chiếc laptop của mình đã lập tức kiện đòi tài sản cụ thể là khởi kiện C ra Tòa án yêu cầu C
trả lại mình chiếc laptop.
Trong tình huống này, A là nguyên đơn, tuy C là người bị A khởi kiện nhưng C không
phải bị đơn vì C thỏa mãn điều kiện thứ hai nhưng không thỏa mãn điều kiện thứ nhất. Điều
kiện thứ nhất là giả thiết đã xâm phạm hoặc tranh chấp với quyền lợi của nguyên đơn hoặc
xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng hay nói cách khác người đó phải thực hiện
hành vi được cho là xâm phạm hoặc tranh chấp với quyền lợi của nguyên đơn hoặc có hành
vi được cho là xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. C ở đây thực hiện hợp đồng
mua bán tài sản hợp pháp với B, tài sản là chiếc laptop là vật không có đăng kí quyền sở hữu
nên C không có nghĩa vụ phải biết về chủ sở hữu của chiếc laptop đó. Việc sở hữu tài sản của
C là ngay tình, không hề có hành vi được coi là xâm phạm hay tranh chấp với quyền và lợi
ích hợp pháp của A.
B chính là người xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của A (vì thực hiện hành vi
đem chiếc laptop của A đi bán) nghĩa là B đã thỏa mãn điều kiện thứ nhất khi xác định tư
cách của bị đơn nhưng B vẫn không được coi là bị đơn vì còn thiếu điều kiện thứ hai đó là bị
nguyên đơn khởi kiện (A khởi kiện C chứ không khởi kiện B).
iii.

Xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

7


Trong vụ án dân sự, ngoài nguyên đơn và bị đơn còn xuất hiện một chủ thể khác là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Theo quy định tại khoản 4 điều 68 BLTTDS 2015: “.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện,
không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ
nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa

họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp
việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà
không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.” Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham vào vụ án dân sự bên cạnh
nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi giải quyết một vụ án dân sự, giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn
không tránh khỏi việc có sự ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người thứ ba. Vì vậy, để giải
quyết vụ án dân sự một cách triệt để, toàn diện đòi hỏi phải có sự tham gia của bên thứ ba này
với vai trò là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án dân sự tuy không phải là người khởi kiện, người bị kiện nhưng họ tham gia để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên thứ ba chỉ được xác định là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan khi vụ án dân sự được giải quyết thì họ được hưởng các quyền hoặc phải
thực hiện một số nghĩa vụ. Họ có thể chủ động tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của mình
bằng cách tự mình đề nghị hoặc được các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận,
hoặc Tòa án phải chủ động đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm hai loại: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập:
-

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã xảy ra với nguyên đơn và bị đơn để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Họ cho rằng đối tượng tranh chấp của nguyên
đơn và bị đơn là thuộc về họ chứ không phải thuộc về nguyên đơn và bị đơn. Vì vậy những
yêu cầu mà họ đưa ra có thể gây bất lợi cho nguyên đơn hoặc bị đơn. Tuy nhiên, trên thực tế
những yêu cầu này hoàn toàn độc lập với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn. Do những yêu
cầu này độc lập, không phụ thuộc vào nguyên đơn và bị đơn nên người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập có đủ điều kiện để khởi kiện vụ án dân sự để Tòa án giải

quyết yêu cầu của mình. Nhưng do vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn nên
họ phải tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để bảo vệ quyền

8


và lợi ích của mình. Sự tham gia của họ giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng và chính
xác hơn.
Ví dụ: Chị B khởi kiện ra tòa án huyện X giải quyết việc ly hôn của chị và anh A. Trong quá
trình giải quyết li hôn phải phân chia tài sản chung vợ chồng. Trước đó, anh A có vay anh C
một khoản tiền để làm ăn đã đến hạn phải trả. Nay biết việc anh A li hôn với chị B và phải
phân chia tài sản, anh C có đơn yêu cầu Tòa án huyện X giải quyết khoản nợ quá hạn của
anh A với mình. Như vậy, trong trường hợp này, anh C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập vì yêu cầu đòi nợ của anh C hoàn toàn độc lập với yêu cầu giải
quyết li hôn của chị B.
-

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập hay còn gọi là người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn.
Nghĩa là khi tham gia vào vụ án dân sự đã xảy ra giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ luôn phụ thuộc
vào những yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn. Vì có sự phụ thuộc như vậy nên họ không
thể khởi kiện ra Tòa án để giải quyết yêu cầu của mình, mà việc yêu cầu của họ sẽ được giải
quyết ngay trong vụ án phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn.
Ví dụ: A có 3 người con là B,C,D. A chết không để lại di chúc, B kiện C ra tòa yêu cầu chia
thừa kế. Sau khi thụ lý trong thời hạn 15 ngày tòa án gửi yêu cầu đến D để hỏi D có yêu cầu
gì không? Và B không có yêu cầu gì về việc chia thừa kế đó. Như vậy, trong trường hợp này,
D là người có quyền lợi liên quan không có yêu cầu độc lập.
3. Ý nghĩa của việc xác định tư cách đương sự

Việc xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự có ý nghĩa quan
trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án, bởi mỗi đương sự có một tư cách tố tụng riêng
biệt và tương ứng với đó là các quyền, nghĩa vụ mà BLTTDS 2015 đã quy định cho họ.
Trường hợp xác định sai tư cách tố tụng của đương sự hoặc đưa thiếu đương sự liên
quan vào tham gia tố tụng trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của
họ, làm họ không có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Qua đó làm sai
lệch bản chất của vụ án và đây được coi là một vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
III.

Một số tồn tại thiếu sót của pháp luật trong việc quy định về đương sự và
hướng hoàn thiện

1. Một số tồn tại, thiếu sót của pháp luật trong việc quy định về đương sự
Những quy định về đương sự, đặc biệt là cách xác định tư cách của đương sự trong vụ
án dân sự của BLTTDS 2015 đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình trên thực tế, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý giúp Tòa

9


án giải quyết các vụ án dân sự một cách kịp thời, khách quan. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
các quy định về đương sự, xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự còn nhiều bất cập,
hạn chế. Có thể kể đến như sau:
Thứ nhất: về khái niệm đương sự, thành phần đương sự.
Khoản 1 Điều 68 BLTTDS 2015 mới chỉ dừng lại ở việc quy định về thành phần đương
sự mà không có quy định về khái niệm đương sự trong vụ án dân sự. Do không có quy định
cụ thể về vấn đề này nên trong thực tiễn áp dụng đã xảy ra không ít trường hợp Tòa án đã xác
định sai đương sự, dẫn đến việc triệu tập thiếu hoặc triệu tập tất cả những người không phải là
đương sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ án, làm cho quá trình giải quyết vụ án không
đúng đắn, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được tôn trọng và bảo vệ.

Mặt khác, theo Điều 188 BLTTDS 2015 quy định về phạm vi khởi kiện, thì trong một
vụ án dân sự có thể có nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn. Trong những vụ án này, có trường
hợp giữa các nguyên đơn, bị đơn với nhau không mâu thuẫn về quyền, lợi ích mà quyền, lợi
ích của họ chỉ mâu thuẫn với đương sự phía bên kia. Nhưng cũng có những trường hợp giữa
các nguyên đơn, bị đơn với nhau lại mâu thuẫn về quyền và lợi ích. Việc giải quyết vụ án
trong hai trường hợp trên sẽ khác nhau vì quyền và nghĩa vụ của đương sự trong từng trường
hợp có sự khác nhau. Đối với các vụ án mà giữa các nguyên đơn, bị đơn với nhau không mâu
thuẫn về quyền, lợi ích thì nên quy định họ là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn; còn nếu có mâu
thuẫn với nhau thì không phải là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn. Tuy nhiên, Điều 68 BLTTDS
2015 lại không có quy định thế nào là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn trong vụ án dân sự trong
khi đó thực tiễn lại xuất hiện không ít những vụ việc có nhiều đương sự, việc thiếu quy định
này sẽ gây khó khăn rất lớn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai: về năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Về nguyên tắc, để có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì trước hết phải có năng lực
hành vi dân sự. Tuy nhiên, năng lực hành vi dân sự khác với năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Bởi vì những người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc dù họ có thể tự mình
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác), nhưng không thể tự mình tham
gia tố tụng được vì họ hiểu biết về pháp luật chưa đầy đủ và chưa có khả năng tự bảo vệ
quyền lợi của mình trước Tòa án. Do vậy, các quy định tại Điều 69 BLTTDS 2015 lấy điều
kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, lao động làm điều kiện tham gia vào quan hệ
tố tụng dân sự là chưa hợp lý, vì nội dung và yêu cầu tham gia vào các quan hệ pháp luật khác
nhau là khác nhau.
Thứ ba: về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

10


BLTTDS 2015 chưa có quy định cụ thể về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự gồm hai loại: người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn, hay còn gọi là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập. Tuy nhiên, tại Khoản 4 Điều 68 BLTTDS
2015 chỉ quy định chung chung về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không có quy
định cụ thể về hai nhóm trên.
2. Phương hướng hoàn thiện.
Thứ nhất: hoàn thiện quy định của pháp luật về đương sự, xác định tư cách đương sự.
Từ những hạn chế, thiếu sót kể trên, nhóm em xin đưa ra một số giải pháp để hoàn
thiện quy định của pháp luật về đương sự, cụ thể:
Bổ sung khái niệm về đương sự như sau: “Đương sự trong vụ việc dân sự là
người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến vụ việc dân sự.” 2
Bổ sung khái niệm về đồng nguyên đơn, đồng bị đơn và quyền, nghĩa vụ của
họ.
-

Cần có tiêu chí rõ ràng để phân biệt người có người cơ quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan có yêu cầu độc lập với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập.
bởi trên thực tế, chính sự quy định không rõ ràng này mà trong thực tiễn xét xử, hầu hết Tòa
án chỉ xác định tư cách tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan một cách chung
chung, không có sự cụ thể hóa là người như thế nào, có yêu cầu độc lập hay không. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc Tòa án thường xác đinh sai hoặc thiếu tư cách
đương sự.
Thứ hai, về phía Tòa án
Tòa án cần phải bổ sung, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, đảm bảo phẩm chất
đạo đức, bản lĩnh chính trị cũng như trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Thẩm phán cần
phải phân biệt rõ tư cách đương sự của từng cá nhân, tổ chức khi tham gia tố tụng để giải

quyết đúng đắn. Nên tổ chức các buổi hội thảo có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức để
tuyên truyền pháp luật về đương sự như vậy sẽ tăng cường hiểu biết pháp luật về đương sự
cho từng cá nhân, tổ chức.
Thứ ba: đối với người dân đặc biệt là người có tư cách đương sự
Có thể thấy rằng không phải ai cũng biết về luật để có thể biết rõ tư cách đương sự của
mình khi tham gia tố tụng. Vì vậy khi trực tiếp tham gia tố tụng thì cá nhân, tổ chức nên tìm

2

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.107.

11


đến luật sư hoặc những người có hiểu biết pháp lý nhờ tư vấn để biết những quyền lợi và
nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.
KẾT LUẬN
Việc xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự có ý nghĩa quan
trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án, bởi mỗi đương sự có một tư cách tố tụng riêng
biệt và tương ứng với đó là các quyền, nghĩa vụ mà BLTTDS 2015 đã quy định cho họ.
Trường hợp xác định sai tư cách tố tụng của đương sự hoặc đưa thiếu đương sự liên quan vào
tham gia tố tụng trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của họ, làm
họ không có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Qua đó làm sai lệch
bản chất của vụ án và đây được coi là một vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2009.
2. Học viện tư pháp, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2007.
3. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
5. Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2015, TS. Bùi Thị Hiền (Chủ biên). NXB Lao
Động.
6. Bình luận khoa học – Một số vấn đề của pháp luật tố tùnh dân sự và thực tiễn áp dụng,
Ts. Lê Thu hà, Nxb tư pháp, Hà Nội, 2006.
7. Lê Nguyễn Hồng Phúc, Quyền khởi kiện với vấn đề xác định tư cách đương sự trong
TTDS, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2011.

13



×