Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Công ước của liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người quá trình tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.48 KB, 93 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THÁI DUY

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG TRA TẤN
VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐỐI XỬ HOẶC TRỪNG PHẠT TÀN BẠO,
VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC CON NGƯỜI - QUÁ TRÌNH THAM GIA
VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÀNH VIÊN CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THÁI DUY

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG TRA TẤN


VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐỐI XỬ HOẶC TRỪNG PHẠT TÀN BẠO,
VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC CON NGƯỜI - QUÁ TRÌNH THAM GIA
VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÀNH VIÊN CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60380108

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kim Ngân

HÀ NỘI - NĂM 2016


3

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thị
Kim Ngân - Phó Trưởng Khoa Pháp luật quốc tế - Đại học Luật Hà Nội, người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành Luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban Giám hiệu Đại
học Luật Hà Nội, cùng toàn thể các lãnh đạo, cán bộ, các thầy, cô giáo Khoa Pháp
luật quốc tế, Khoa Sau đại học và các Khoa, Phòng thuộc Đại học Luật Hà Nội đã
luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên cứu của tôi trong hai
năm qua cũng như đã truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu để tôi có thể
hoàn thành Luận văn này.
Hơn một lời cảm ơn, tôi xin dành đến gia đình và bạn bè, những người luôn
gắn bó và ủng hộ tôi trong suốt những năm tháng vừa qua.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do kinh nghiệm nghiên cứu cũng như kiến thức
còn hạn chế, Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi kính mong
nhận được sự góp ý của quý thầy, cô giáo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn!


Học viên
Hoàng Thái Duy


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài "Công ước của Liên hợp quốc về chống
tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
con người - Quá trình tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam" là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN

NGƯỜI CAM ĐOAN

TS. Nguyễn Thị Kim Ngân

Hoàng Thái Duy


5

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 7
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG
TRA TẤN VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐỐI XỬ HOẶC TRỪNG PHẠT TÀN BẠO,
VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC CON NGƯỜI ..................................................... 7
1.1. Bối cảnh ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và
các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
con người ....................................................................................................... 7
1.2. Nội dung cơ bản của Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và
các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
con người ....................................................................................................... 9
1.2.1. Phạm vi áp dụng và mục đích của Công ước................................................ 10
1.2.2. Nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước ................................................ 12
1.2.3. Thẩm quyền và phương thức hoạt động của Uỷ ban chống tra tấn ............... 29
1.2.4. Một số quy định khác của Công ước ............................................................ 30
1.3. Ý nghĩa của Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình
thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người .... 32
Chương 2: VIỆT NAM THAM GIA VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THÀNH
VIÊN CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG TRA TẤN VÀ CÁC
HÌNH THỨC ĐỐI XỬ HOẶC TRỪNG PHẠT TÀN BẠO, VÔ NHÂN ĐẠO
HOẶC HẠ NHỤC CON NGƯỜI ....................................................................... 35
2.1. Quá trình và ý nghĩa Việt Nam tham gia Công ước của Liên hợp quốc về
chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc hạ nhục con người ....................................................................................... 35


6

2.1.1. Quá trình Việt Nam tham gia Công ước chống tra tấn ................................. 35
2.1.2. Ý nghĩa Việt Nam tham gia Công ước chống tra tấn .................................... 39

2.2. Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước của Liên hợp quốc về
chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc hạ nhục con người ....................................................................................... 41
2.2.1. Thiết chế quốc gia triển khai thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước ........ 41
2.2.2. Biện pháp thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước ..................................... 45
2.3. Một số đánh giá về quá trình Việt Nam tham gia và thực hiện nghĩa vụ
thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối
xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người .................. 59
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TRIỂN KHAI THỰC THI HIỆU QUẢ CÔNG
ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG TRA TẤN VÀ CÁC HÌNH THỨC
ĐỐI XỬ HOẶC TRỪNG PHẠT TÀN BẠO, VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ
NHỤC CON NGƯỜI ........................................................................................... 64
3.1. Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của
Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người ................................ 64
3.2. Đề xuất các biện pháp nhằm triển khai thực thi hiệu quả Công ước của
Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.......................................................... 71
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi giành được độc lập đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định
con người là một trong những nhân tố cơ bản và quan trọng nhất tạo ra động lực cho
sự phát triển của đất nước. Do đó, trong quá trình phát triển của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm của các

chính sách kinh tế - xã hội; được chú trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần;
quyền con người và quyền công dân ngày càng được bảo đảm và mở rộng; cơ chế
bảo vệ quyền con người, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngày
càng được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện.
Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân
quyền trong tình hình mới đã chỉ rõ: “Mục tiêu của chúng ta đang hướng tới là đảm
bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của nhân dân, xây dựng một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng
thời chủ động ngăn chặn âm mưu sử dụng vấn đề “nhân quyền” để chống phá cách
mạng Việt Nam”. Theo đó, Ban Bí thư cũng chỉ ra một trong các công tác trọng tâm
cần phải thực hiện tốt là: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quyền con người, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của nước
ta và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Tiếp tục xem xét
kỹ các khía cạnh chính trị, kinh tế, pháp luật, đối ngoại để quyết định tham gia các
điều ước quốc tế về quyền con người và tổ chức thực hiện tốt các điều ước đó ở
Việt Nam”.
Trong những hành vi vi phạm quyền con người, tra tấn là một trong những
hành vi vi phạm nghiêm trọng nhất. Vấn đề cấm tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người được quy định lần đầu tiên trong Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, sau đó được tái khẳng định trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã là thành viên.
Đặc biệt, vấn đề này được quy định riêng biệt, chi tiết trong Công ước của Liên hợp
quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo


2

hoặc hạ nhục con người (Công ước chống tra tấn) - một trong những điều ước quốc
tế quan trọng về quyền con người, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
bằng Nghị quyết số 39/46 ngày 10/12/1984. Giống như các điều ước quốc tế về

nhân quyền khác, Công ước chống tra tấn cũng được xây dựng trên những nguyên
tắc đã được tuyên bố trong Hiến chương của Liên hợp quốc về công nhận quyền
bình đẳng và bất khả xâm phạm của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là
nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Vì vậy, việc tham gia Công
ước chống tra tấn không chỉ góp phần tăng uy tín chính trị của Việt Nam trên
trường quốc tế, khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam trong bảo vệ quyền
con người mà còn ngăn chặn được mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân chủ, nhân quyền để chống phá Nhà nước Việt Nam; đồng thời tranh thủ
được cảm tình và sự ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới, tạo cơ sở cho việc
tăng cường đối thoại và trao đổi với các nước và tổ chức quốc tế về nhân quyền;
khẳng định Việt Nam là một thành viên tích cực của Hội đồng nhân quyền Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016.
Tuy vậy, việc trở thành thành viên chính thức của Công ước chống tra tấn
cũng đặt ra yêu cầu cho Việt Nam về việc nội luật hóa một số quy định của Công
ước cũng như tăng cường năng lực của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi
đầy đủ các quy định của Công ước. Vì vậy, có thể nói việc nghiên cứu quá trình
Việt Nam tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước chống tra tấn và đề
xuất phương án hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về chống tra tấn cũng như
những biện pháp nhằm triển khai thực thi hiệu quả các quy định của Công ước có
vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ quyền con người nói chung và phòng,
chống tra tấn nói riêng tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền không bị tra tấn và đối xử
tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm là một vấn đề tương đối phức tạp, thu
hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia và học giả quốc tế. Trên thế giới đã có nhiều
công trình nghiên cứu chuyên sâu về tra tấn và vấn đề phòng, chống tra tấn như:


3


Lene Wendland (2002), A Handbook on State Obligations under the UN
Convention against Torture; Conor Foley (2003), Combating Torture - A manual
for Judges and Prosecutors; Redress Trust (2006), Bring the International
Prohibition of Torture home; William F. Schulz (2007), The Phenomenon of
Torture: Readings and Commentary; Steven Lee (2007), Intervention, Terrorism,
and Torture: Contemporary Challenges to Just War Theory…
Tại Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về đảm bảo quyền
con người và phòng, chống tra tấn trong tố tụng hình sự và thi hành án hình sự cũng
như những nghiên cứu về nội dung của Công ước chống tra tấn. Có thể kể đến một
số công trình như: "Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người" (Nxb
Chính trị quốc gia, 2009) do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao và TS.
Lã Khánh Tùng đồng chủ biên; cuốn sách "Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009) của TS. Trần Quang Tiệp; cuốn sách "Công ước của Liên hợp quốc về
chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ
nhục con người và sự tham gia của Việt Nam" (Nxb Lao động - Xã hội, 2014) do
GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh làm chủ biên; luận án tiến sĩ luật học "Thực hiện quyền
bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự" của Hoàng Thị Sơn (Đại học Luật
Hà Nội, 2003); luận án tiến sĩ luật học "Thực hiện pháp luật về quyền con người của
phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam" của Nguyễn Đức Phúc (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2012); luận văn thạc sĩ luật học “Phòng, chống tra
tấn trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam: Phân tích so sánh” của Nguyễn
Hải Yến (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014); bài viết "Hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật về phòng, chống tra tấn ở Việt Nam" của TS. Vũ Công Giao (Kỷ yếu
Hội thảo "Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam, 2014); bài
viết "Gia nhập Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc và nhu cầu sửa đổi pháp
luật ở Việt Nam" của TS. Trương Hồ Hải (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
2/2015); bài viết "Sự hài hòa, tương thích của pháp luật Việt Nam với Công ước
chống tra tấn (UNCAT)" của PGS. TS. Trương Thị Hồng Hà (Tạp chí Lý luận



4

chính trị, số 3/2015)... Ngoài ra, vấn đề phòng, chống tra tấn cũng đã được đề cập
trong rất nhiều hội nghị, hội thảo có liên quan như: Hội thảo quốc tế "Công ước
Chống tra tấn và sử dụng các hình thức trừng phạt hay đối xử khác tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc nhục hình" do Trung tâm nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Ngoại giao tổ chức vào tháng 12/2003;
Hội thảo "Nghiên cứu khả năng Việt Nam gia nhập Công ước chống tra tấn của
Liên hợp quốc" do Bộ Công an tổ chức vào tháng 11/2008; Hội thảo "Về việc tham
gia Công ước chống tra tấn" do Ban nghiên cứu gia nhập Công ước chống tra tấn Bộ Công an tổ chức vào tháng 6/2013; Hội thảo “Công ước Chống tra tấn và các
hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” do
Bộ Ngoại giao phối hợp với Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức vào
tháng 6/2014; Hội thảo "Tham vấn và tập huấn phục vụ xây dựng báo cáo quốc gia
về thực thi Công ước chống tra tấn" do Bộ Công an phối hợp với Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc tổ chức vào tháng 9/2015.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền con người nói
chung và phòng, chống tra tấn cũng như các quy định của Công ước chống tra tấn
nói riêng. Tuy nhiên, kể từ khi Quốc hội khóa XIII thông qua một số bộ luật và luật
có những thay đổi căn bản về chính sách pháp luật liên quan đến quyền con người
và phòng, chống tra tấn, bức cung, dùng nhục hình như: Bộ luật Hình sự năm 2015,
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015,
Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015..., vẫn chưa có công trình nào phân
tích, đánh giá, so sánh một cách có hệ thống giữa các quy định của Công ước chống
tra tấn và các quy định mới về phòng, chống tra tấn trong các văn bản quy phạm
pháp luật kể trên; cũng chưa có công trình nào nêu ra những giải pháp toàn diện để
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của Công ước
chống tra tấn cũng như đề ra những phương hướng cụ thể nhằm thực thi hiệu quả
Công ước chống tra tấn tại Việt Nam. Đề tài luận văn "Công ước của Liên hợp quốc
về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc



5

hạ nhục con người - Quá trình tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt
Nam" về cơ bản là đề tài mới, chưa được nghiên cứu toàn diện.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nhận thức rõ về tính cấp thiết cũng như tình hình nghiên cứu đề
tài, mục đích của luận văn là phân tích những nội dung cơ bản của Công ước chống
tra tấn; đánh giá quá trình Việt Nam tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên
Công ước chống tra tấn; từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại nhằm đề
xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung để làm hài hòa hệ thống pháp luật Việt
Nam với các quy định của Công ước chống tra tấn cũng như những biện pháp nhằm
thực thi hiệu quả Công ước chống tra tấn tại Việt Nam, góp phần bảo vệ quyền
con người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu hướng tới:
- Quá trình ký kết và nội dung các quy định của Công ước chống tra tấn;
- Thực tiễn tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước chống tra
tấn của Việt Nam;
- Các văn bản pháp luật Việt Nam có liên quan đến chống tra tấn.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn xác định các câu hỏi nghiên cứu chính gồm:
- Vị trí và vai trò của Công ước chống tra tấn trong pháp luật quốc tế về
quyền con người nói chung và phòng, chống tra tấn nói riêng?
- Sự cần thiết và ý nghĩa của việc Việt Nam phê chuẩn Công ước chống tra
tấn? Công ước chống tra tấn xác định những nghĩa vụ gì đối với các quốc gia thành
viên, trong đó có Việt Nam?
- Những biện pháp Việt Nam cần tiến hành để tiếp tục thực thi hiệu quả
Công ước chống tra tấn?

6. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa


6

Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác
nhau, gồm: phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng minh, thống kê, so sánh, kết
hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn...
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát triển những vấn
đề lý luận về hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người nói chung và phòng,
chống tra tấn nói riêng, tạo cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nhằm tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn và bảo vệ quyền con
người.
Kết quả nghiên cứu của luận văn không chỉ là tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến nội dung hệ thống pháp
luật quốc tế về quyền con người, về phòng, chống tra tấn mà còn là tài liệu cho các
cơ quan, tổ chức trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về bảo vệ quyền con người, bảo đảm quyền không bị tra tấn của mọi công dân.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, phần nội dung, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung của luận văn được bố cục thành ba (03) chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và
các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Chương 2: Việt Nam tham gia và thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước
của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,

vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Chương 3: Một số đề xuất triển khai thực thi hiệu quả Công ước của Liên
hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc hạ nhục con người.


7

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1

TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ
CHỐNG TRA TẤN VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐỐI XỬ HOẶC TRỪNG
PHẠT TÀN BẠO, VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC CON NGƯỜI
1.1. Bối cảnh ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các
hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng kiến những diễn biến vô cùng phức
tạp trên thế giới. Những mâu thuẫn dân tộc, tình trạng chiến tranh, bất ổn chính trị
và nội chiến diễn ra ở nhiều nơi đã đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định và
phát triển của toàn nhân loại. Sau những thảm hoạ kinh hoàng, nhất là sự chà đạp
nhân phẩm con người trong Chiến tranh thế giới thứ hai (trong đó, tra tấn và hạ
nhục diễn ra phổ biến) mà “thủ phạm” chính là "sự coi thường và xâm phạm các
quyền con người" - cộng đồng nhân loại đã nêu khát vọng chung trong bản Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 10/12/1948) là làm sao để con người tự do “không còn phải chịu nỗi sợ hãi và
nghèo khổ cùng cực”1.
Năm 1955, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Các nguyên tắc về tiêu
chuẩn tối thiểu trong đối xử với tù nhân2.Văn kiện này bao gồm những tiêu chuẩn
áp dụng cho tất cả những ai bị tước đoạt tự do, vì bị cáo buộc phạm tội hay bị tuyên
án3.

Ngày 09/12/1975, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn về
bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn
1

Trích Lời nói đầu, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948.
Được thông qua tại Cuộc họp lần thứ nhất của Liên hợp quốc về ngăn ngừa tội phạm và đối xử với người
phạm tội, tổ chức tại Geneva năm 1955, và được Hội đồng Kinh tế - Xã hội phê chuẩn bằng các Nghị quyết
663C (XXIV) ngày 31/7/1957 và 2076 (LXII) ngày 13/5/1977.
3
Văn kiện này nhằm mục tiêu tạo ra một thực tiễn tốt đẹp trong đối xử với tù nhân và quản lý các cơ sở giam
cầm. Một trong những điều luật tối thiểu (Điều 31) nói rằng nhục hình, hình phạt giam hầm tối và tất cả các
hình phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục con người hoàn toàn bị cấm. Nghị quyết 2858 (XXVI) của Đại hội
đồng Liên hợp quốc (20/12/1971) khuyến nghị các quốc gia phải thực thi hữu hiệu những nguyên tắc này
trong điều hành các cơ sở giam giữ; đồng thời kêu gọi các quốc gia xem xét để đưa Các nguyên tắc về tiêu
chuẩn tối thiểu trong đối xử với tù nhân vào pháp luật quốc gia.
2


8

bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Nghị quyết 3452, XXX). Tuyên ngôn
nêu định nghĩa "tra tấn" là: "bất kỳ hành vi nào gây đau đớn và khổ nhục về thân thể
hay tinh thần do chính một quan chức chính quyền hay theo sự xúi giục của người
ấy áp đặt lên một con người nhằm lấy được từ anh ta hay từ một người thứ ba tin
tức hoặc lời thú nhận, để trừng trị anh ta về một hành vi anh ta gây ra hoặc nghi là
gây ra, hoặc để hăm dọa anh ta hay những người khác" (Điều 1). Tuyên ngôn
khuyến cáo các quốc gia, bằng tất cả trách nhiệm chính trị và đạo đức, cần nhanh
chóng loại trừ tra tấn ra khỏi đời sống xã hội. Đây là văn kiện riêng biệt đầu tiên về
vấn đề tra tấn, thể hiện mối quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế đối với loại tội
phạm này.

Ngày 17/12/1979, trong Nghị quyết 34/169, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
thông qua Các nguyên tắc điều chỉnh các viên chức thi hành pháp luật, kèm theo
khuyến nghị rằng các chính phủ cần phải tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng trong
khuôn khổ luật pháp và thực tiễn quốc gia4.
Năm 1982, bằng Nghị quyết 37/194, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông
qua Những nguyên tắc đạo đức ngành y tế5.Văn kiện này đề cập tới vai trò của nhân
viên y tế, đặc biệt là các thầy thuốc trong việc bảo vệ tù nhân, người bị giam cầm
khỏi mọi hành vi tra tấn và sự đối xử tàn bạo, vô nhân đạo với con người.
Ngày 10/12/1984, Đại hội đồng Liên hợp quốc trên cơ sở đề xuất của Ủy ban
thứ ba (Ủy ban xã hội, nhân đạo và văn hóa) đã thông qua Công ước chống tra tấn
và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con

4

Điều 5 của văn bản quy định: "Không một người thi hành luật pháp nào có thể áp đặt, xúi giục hay dung
thứ bất kỳ hành vi tra tấn, đối xử và áp dụng hình phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người, hay
không một ai được viện cớ mệnh lệnh cấp trên hoặc hoàn cảnh ngoại lệ như tình trạng chiến tranh, đe dọa
chiến tranh, đe dọa an ninh quốc gia, bất ổn định chính trị trong nước hay bất kỳ một tình trạng khẩn cấp
nào để biện bạch cho sự tra tấn và sự đối xử hay sử dụng hình phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người".
5
Nguyên tắc 1 quy định: "Nhân viên y tế, đặc biệt các thầy thuốc, lãnh trách nhiệm chăm sóc y tế cho tù nhân
và người bị giam cầm, có trách nhiệm bảo vệ họ về thân thể và tinh thần và điều trị bệnh với chất lượng và
tiêu chuẩn như với người không bị cầm tù". Nguyên tắc 2 quy định: "Sẽ là đi ngược lại hoàn toàn với đạo đức
ngành y tế, cũng như phạm tội theo các văn kiện luật quốc tế đang áp dụng, đối với nhân viên y tế, đặc biệt là
các thầy thuốc, nếu họ tham gia, chủ động hoặc thụ động, vào những hành vi, tạo một phần trong việc đồng
lõa với xúi giục nên hoặc cố tình gây ra sự tra tấn và sự đối xử hay sử dụng hình phạt khác tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc hạ nhục con người".



9

người6 (Nghị quyết số 39/46) và để ngỏ cho các quốc gia ký kết. Công ước có hiệu
lực vào ngày 26/6/19877 sau khi được 20 quốc gia phê chuẩn theo quy định của
khoản 1 Điều 27 (sau khi văn kiện phê chuẩn thứ 20 được lưu chiểu). Tính đến
tháng 6/2016 đã có 159 quốc gia tham gia Công ước, 10 quốc gia ký nhưng chưa
phê chuẩn8. Trong quá trình thực thi Công ước, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng
đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc của Công ước chống tra tấn ngày
18/12/2002 theo Nghị quyết số 57/199. Nghị định thư không bắt buộc có hiệu lực từ
ngày 22/6/2006, thiết lập một hệ thống thị sát định kỳ bởi các cơ quan quốc tế và
quốc gia tới các cơ sở giam giữ để ngăn chặn tra tấn hoặc các hình thức đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người khác.
Như vậy, suốt hơn nửa thế kỷ qua, Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và các
quốc gia đã rất nỗ lực vì một thế giới không còn tra tấn. Công ước chống tra tấn ra
đời thể hiện ý chí của đại đa số các quốc gia yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế
giới, kiên quyết loại bỏ hành vi tra tấn, các hình thức trừng phạt, đối xử tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục con người ra khỏi đời sống nhân loại, góp phần “khẳng định
những giá trị nhân bản về tự do, bình đẳng, dân chủ và nhân quyền”9.
1.2. Nội dung cơ bản của Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các
hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người
Công ước gồm Lời nói đầu và 33 điều, được chia thành 03 phần với các nội
dung cụ thể như sau:
- Từ Điều 1 đến Điều 16 (Phần I) quy định về khái niệm tra tấn và các nghĩa
vụ của các quốc gia thành viên Công ước trong việc nghiêm cấm, trừng trị, phòng
ngừa các hành vi tra tấn cũng như bảo vệ nạn nhân bị tra tấn;
- Từ Điều 17 đến Điều 24 (Phần II) quy định về nghĩa vụ báo cáo của các
quốc gia thành viên lên Ủy ban chống tra tấn của Liên hợp quốc và thẩm quyền của

6


Tên tiếng Anh: “Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or
Punishment”.
7
Ngày 26/6 hàng năm đã được công nhận là Ngày quốc tế hỗ trợ các nạn nhân bị tra tấn.
8
Nguồn: , ngày truy cập: 20/6/2016.
9
Lê Thị Hồng Nhung (2011), “Tra tấn theo công ước quốc tế của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức
đối xử hay trừng phạt dã man, vô nhân đạo hay hạ nhục con người”, Nhà nước và Pháp luật, (03), tr. 75-81.


10

Ủy ban, hoạt động của báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về chống tra tấn,
quyền của các quốc gia về tuyên bố ký, phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước;
- Từ Điều 25 đến Điều 33 (Phần III) gồm những quy định liên quan đến ký,
phê chuẩn, gia nhập, hiệu lực và sửa đổi Công ước.
1.2.1. Phạm vi áp dụng và mục đích của Công ước
Mục đích của Công ước đã được nêu rõ ngay tại tên gọi, đó là chống tra tấn
và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người. Về khái niệm “tra tấn”, Khoản 1 Điều 1 của Công ước quy định: “Với mục
đích của Công ước này, thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây
ra sự đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng đối với một người về thể xác hoặc tinh
thần, nhằm những mục đích như thu thập thông tin hoặc sự nhận tội từ người đó hay
một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó về một hành vi mà người đó hay
người thứ ba đã thực hiện hoặc nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hoặc ép buộc
người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ lý do gì khác dựa trên sự phân biệt đối xử
dưới mọi hình thức, khi mà sự đau đớn hoặc chịu đựng đó được gây ra bởi hoặc với
sự xúi giục hoặc với sự đồng ý hoặc sự chấp thuận của một nhân viên công quyền
hoặc người khác đang thực hiện công vụ. Khái niệm này không bao gồm sự đau đớn

hoặc khổ sở xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến các biện pháp trừng
phạt hợp pháp”.
Như vậy, có thể hiểu hành vi “tra tấn” gồm những yếu tố cấu thành như sau:
*Về mặt khách quan: Tra tấn là bất kỳ hành vi nào cố ý gây ra sự đau đớn
hoặc khổ đau nghiêm trọng đối với một người về thể xác hoặc tinh thần. Tra tấn
được biểu hiện dưới nhiều hình thức như sử dụng vũ lực tác động trực tiếp lên cơ
thể con người: đánh đập, đâm chém, dùng điện; để đói, khát, ăn nhạt; hỏi dồn dập,
dai dẳng dưới sức nóng của ngọn đèn cao áp giữa những ngày nóng, oi bức; bắt cởi
quần áo trong trời giá rét… hoặc bằng lời nói thô bạo tác động vào tâm lý, tinh thần,
tình cảm của con người. Hậu quả của hành vi tra tấn là gây đau đớn và khổ sở
nghiêm trọng cho cả tinh thần, tâm lý và thể xác của người bị tra tấn. Địa điểm thực
hiện hành vi tra tấn có thể trong trại tạm giam, nhà tạm giữ, trại giam hoặc bất kỳ


11

nơi nào có sự làm việc của nhân viên công quyền hoặc người đang thực hiện công
vụ với những cá nhân có vi phạm pháp luật hoặc người thân của họ.
*Về mặt chủ quan: Hành vi tra tấn được thực hiện một cách cố ý nhằm mục
đích thu thập thông tin hoặc sự nhận tội từ người bị tra tấn hay một người thứ ba,
hoặc để trừng phạt người đó về một hành vi mà người đó hay người thứ ba đã thực
hiện hoặc nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hoặc ép buộc người đó hay người
thứ ba. Hành vi tra tấn làm cho người bị tra tấn đau đớn, khổ sở, nhục nhã về tinh
thần từ đó làm cho họ hoặc người thứ ba (như cha, mẹ, vợ, con, người thân khác
hoặc đồng chí, đồng đội) sợ hãi, tinh thần suy sụp để lấy thông tin, tài liệu hoặc để
bắt họ phải khai ra những gì không có thực, sai sự thật theo ý đồ của người thực
hiện hành vi tra tấn...
Vấn đề cần làm rõ ở đây là thông tin theo nghĩa rộng (bất kỳ loại thông tin
nào mà người thực hiện hành vi tra tấn cần thu thập) hay thông tin theo nghĩa hẹp
(chỉ những thông tin liên quan đến quá trình thực thi công vụ). Mặc dù Công ước

không có sự giải thích chính thức, nhưng thông tin cần thu thập từ người bị tra tấn
được hiểu là có sự liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công vụ của người thực
hiện hành vi tra tấn. Ví dụ điều tra viên dùng nhục hình, gây hoảng sợ hoặc cưỡng
ép đương sự để lấy lời khai; các biện pháp áp dụng đối với tù binh, nhân viên tình
báo để lấy thông tin,... Nếu hiểu theo nghĩa rộng (bất cứ loại thông tin nào, kể cả
những thông tin không liên quan đến công vụ của người thực hiện hành vi tra tấn)
sẽ không đúng với bản chất của khái niệm tra tấn của Công ước, vì nhân viên công
quyền chỉ có được quyền lực công khi thực thi công vụ. Mọi hoạt động nằm ngoài
chức trách của một công chức không vì mục đích công vụ đều là những hoạt động
của một công dân bình thường và do vậy, không đủ yếu tố để cấu thành hành vi tra
tấn theo quy định tại Điều 1 của Công ước.
*Về chủ thể: Hành vi tra tấn được thực hiện bởi hoặc với sự xúi giục hoặc
với sự đồng ý hoặc sự chấp thuận của một nhân viên công quyền hoặc người khác
đang thực hiện công vụ. Ở đây có hai trường hợp như sau:


12

- Hành vi tra tấn do một nhân viên công quyền thực hiện: bởi sự chủ mưu
hoặc với sự xúi giục hoặc có sự đồng ý hoặc chấp thuận của nhân viên công quyền.
- Hành vi tra tấn được một người khác thực hiện, người này có thể không
phải là một nhân viên công quyền nhưng đang thực hiện nhiệm vụ công, hay nói
cách khác là có quyền lực như nhân viên công quyền.
*Về khách thể: Hành vi tra tấn xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người. Hành vi tra tấn gây đau đớn và khổ sở nghiêm
trọng cho cả tinh thần và thể xác, tâm lý của người bị tra tấn. Ngoài ra, hành vi tra
tấn làm giảm uy tín không chỉ của nhân viên công quyền mà còn của các cơ quan
nhà nước như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Cơ quan thi hành án…
Những hành vi nào thoả mãn các yếu tố cấu thành (mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể) đã phân tích ở trên đều được coi là hành vi “tra tấn” và

thuộc phạm vi áp dụng của Công ước chống tra tấn. Tuy nhiên, khái niệm “tra tấn”
trong Công ước chống tra tấn loại trừ sự đau đớn hay khổ sở gây ra trong các trường
hợp được pháp luật của quốc gia thành viên quy định. Tuỳ theo pháp luật của các
nước khác nhau, sự quy định này là khác nhau, nhưng nhìn chung, trong một số
trường hợp, để ngăn chặn một hành vi phạm tội, ngăn chặn người phạm tội bỏ
trốn... pháp luật quốc gia cho phép người có thẩm quyền được sử dụng vũ lực để
thực thi nhiệm vụ của mình. Hoặc như hiện nay, pháp luật của 61 nước trên thế giới
(tính đến hết tháng 12/2015) vẫn còn quy định hình phạt tử hình với nhiều hình thức
thi hành hình phạt này như: xử bắn, dùng ghế điện, tiêm thuốc độc...10 Những
trường hợp này được pháp luật cho phép và không thể bị coi là hành vi tra tấn.
Ngoài ra, Khoản 2 Điều 1 Công ước chống tra tấn cũng khuyến khích việc
đưa ra một định nghĩa về hành vi tra tấn có nội dung rộng hơn trong một văn kiện
pháp lý quốc tế khác hoặc pháp luật của bất kỳ quốc gia nào.
1.2.2. Nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước
Liên hợp quốc đã lên án tra tấn như là một trong những hành vi vô nhân đạo
và đê hèn nhất mà con người phạm phải với đồng loại, bởi tra tấn phủ nhận phẩm
10

Theo thống kê của Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI) đến hết năm 2015 tại địa chỉ:
ngày truy cập: 20/6/2016.


13

giá, hủy hoại cả thể chất lẫn tinh thần của nạn nhân - những người ở trong hoàn
cảnh không thể chống cự. Theo Luật nhân quyền quốc tế, tra tấn là một trong những
hình thức vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất, bị chỉ trích gay gắt nhất; còn theo
Luật hình sự quốc tế, hành vi tra tấn thực hiện một cách có hệ thống và mang tính
phổ biến tùy theo bối cảnh có thể cấu thành các tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh
hay tội phạm chống nhân loại, tức là những dạng tội phạm quốc tế mà thủ phạm có

thể bị truy tố và xét xử theo Quy chế Rome (1998).
Do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi tra tấn, việc nghiêm cấm tra
tấn được quy định trong rất nhiều văn kiện của Luật nhân quyền và Luật hình sự
quốc tế từ trước đến nay, trong đó bao gồm Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền
năm 1948 (Điều 5), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
(Điều 7)... Đặc biệt, Công ước chống tra tấn năm 1984 (Điều 2) đã quy định nghĩa
vụ của các quốc gia thành viên trong việc ngăn chặn hành vi tra tấn theo nhiều mức
độ từ tổng quát đến chi tiết để có thể tiến tới loại bỏ triệt để hành vi tra tấn trong đời
sống xã hội, cụ thể:
a. Nghĩa vụ thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp
Điều 2 của Công ước quy định:
“1. Các quốc gia thành viên phải thực hiện những biện pháp lập pháp, hành
pháp, tư pháp hoặc những biện pháp hữu hiệu khác để ngăn chặn các hành vi tra tấn
trên toàn bộ lãnh thổ thuộc phạm vi quyền tài phán quốc gia.
2. Không trường hợp ngoại lệ nào có thể được viện dẫn để biện minh cho
hành vi tra tấn, kể cả tình trạng chiến tranh hoặc có nguy cơ chiến tranh, sự bất ổn
định về chính trị trong nước hoặc các tình trạng khẩn cấp khác.
3. Mệnh lệnh của sĩ quan cao cấp hoặc một cơ quan công quyền cũng không
thể được viện dẫn để biện minh cho hành vi tra tấn.”
- Về biện pháp lập pháp: theo quy định của Công ước, các quốc gia thành
viên có nghĩa vụ phải ghi nhận trong pháp luật nước mình quyền không bị tra tấn
của mọi công dân; nghiêm cấm hành vi tra tấn và phải quy định tra tấn là một tội
phạm, bị xét xử với chế tài nghiêm khắc nhằm răn đe, ngăn ngừa hành vi tra tấn,


14

bảo vệ tính mạng, danh dự và nhân phẩm của con người; đồng thời, ban hành mới
hoặc chỉnh sửa các quy định hiện hành để các quy định pháp luật nội dung và tố
tụng (hình thức) của quốc gia đều đảm bảo quyền không bị tra tấn cho tất cả mọi

người trên lãnh thổ quốc gia.
- Về biện pháp hành pháp: Công ước quy định các quốc gia thành viên phải
bảo đảm và tôn trọng quyền không bị tra tấn, trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm của mọi người, trong đó, đặc biệt lưu ý đến việc xây
dựng các quy chuẩn đạo đức, nghề nghiệp cho các cán bộ, viên chức; đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục cho các quan chức thực thi pháp luật để triệt tiêu các vi phạm
pháp luật của các nhân viên công quyền nói chung và nhân viên hành pháp nói
riêng.
- Về biện pháp tư pháp: Công ước đưa ra yêu cầu đối với các quốc gia thành
viên phải bảo đảm thực hiện quyền không bị tra tấn, trừng phạt hoặc đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm của mọi người dân trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án. Đây là những hoạt động có nhiều nguy cơ xảy ra hành
vi tra tấn đối với bị can, bị cáo; người bị tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành
án phạt tù. Do đó, các hoạt động tư pháp phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật để bảo đảm yêu cầu của Công ước; cùng với đó, phải có hệ thống giám sát
hiệu quả để đảm bảo tính khách quan, chính xác và kịp thời của các hoạt động tư
pháp, hạn chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của
người dân.
- Các biện pháp khác: Công ước không đưa ra quy định cụ thể về các biện
pháp khác mà quốc gia phải thực hiện nhưng có thể hiểu đây là nhóm biện pháp bao
gồm phát triển kinh tế xã hội, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thực hiện các
chiến lược chăm sóc y tế, cải cách giáo dục, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật... có vai trò quan trọng hỗ trợ cho các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp
trong việc ngăn chặn các hành vi tra tấn và góp phần loại bỏ hoàn toàn các hành vi
tra tấn thông qua việc nâng cao nhận thức, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người dân.


15


Khoản 2 Điều 2 của Công ước khẳng định rằng không có bất cứ một trường
hợp ngoại lệ nào, kể cả trong trường hợp một quốc gia đang trong tình trạng chiến
tranh hoặc có nguy cơ chiến tranh, hoặc có sự bất ổn định về chính trị nội bộ hoặc
bất cứ tình trạng khẩn cấp chung nào có thể biện hộ cho hành động tra tấn. Lịch sử
thế giới đã ghi nhận trong các cuộc chiến tranh, nhiều quốc gia, để có được các
thông tin tình báo hoặc thông tin khác liên quan đến hoạt động của đối phương,
thường áp dụng các biện pháp tra tấn đối với tù binh hoặc thường dân. Các quốc gia
cũng biện hộ rằng việc tra tấn này là nhằm có được thông tin để ngăn chặn những
thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra. Tuy nhiên, những biện hộ như vậy là không có căn
cứ và đi ngược lại mục đích của Công ước là loại bỏ hoàn toàn hành vi tra tấn ra
khỏi đời sống nhân loại. Chính vì vậy, Công ước quy định không thể sử dụng bất cứ
lý do nào, dù là tình trạng khẩn cấp để biện hộ cho hành vi tra tấn, quyền không bị
tra tấn không thể bị xâm phạm trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Khoản 3 Điều 2 của Công ước cũng quy định không được viện dẫn mệnh
lệnh của một sĩ quan cao cấp, quan chức hoặc cơ quan công quyền để biện minh cho
hành vi tra tấn, quy định này có thể được hiểu như sau: bất kỳ một sĩ quan cao cấp,
quan chức, hoặc cơ quan công quyền nào đều không có quyền ra mệnh lệnh, yêu
cầu về việc tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người. Mọi mệnh lệnh, yêu cầu như vậy đều không có hiệu lực thi hành và không ai
được chấp hành những mệnh lệnh, yêu cầu này. Mọi hành động tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người do chấp hành mệnh lệnh,
yêu cầu của cấp trên một cách mù quáng đều bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Không thể dùng mệnh lệnh, yêu cầu của cấp trên để biện minh cho hành động tra
tấn.
b. Nghĩa vụ hình sự hóa hành vi tra tấn
Điều 4 của Công ước quy định:
“1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng mọi hành vi tra tấn đều là tội
phạm theo pháp luật hình sự của nước đó. Quy định này cũng phải áp dụng đối với



16

những hành vi chuẩn bị thực hiện việc tra tấn và hành vi đồng phạm hoặc tham gia
vào việc tra tấn.
2. Các quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm này bằng những
hình phạt thích đáng tương ứng với tính chất nghiêm trọng của hành vi”.
Quy định này yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành
vi tra tấn đều bị coi là tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình
phạt nghiêm khắc. Theo đó, bất kỳ nhân viên công quyền hoặc người không phải là
nhân viên công quyền nhưng được sự đồng ý hay chấp thuận của một nhân viên
công quyền hoặc một người khác có quyền lực như một nhân viên công quyền trong
khi thực thi công vụ mà trực tiếp hoặc gián tiếp gây đau đớn về thể xác hoặc tinh
thần cho người khác với mục đích để lấy thông tin, trừng phạt, gây hoảng sợ, cưỡng
bức hoặc vì lý do phân biệt đối xử đều trở thành chủ thể của hành vi tra tấn. Với
quy định này, Công ước yêu cầu phạm vi hình sự hoá tương đối rộng, không chỉ hạn
chế trong phạm vi hoạt động tố tụng mà về lý thuyết, hành vi tra tấn có thể xảy ra
trong tất cả hoạt động có mang tính thực thi công quyền.
Quy định này xuất phát từ hậu quả tra tấn để lại là rất nghiêm trọng và lâu
dài không chỉ cho bản thân nạn nhân mà còn cả gia đình, người thân của họ và có
thể là cả cộng đồng. Trên thực tế, nếu một người trở thành nạn nhân của hành vi tra
tấn bởi các nhân viên công quyền, không chỉ bản thân người đó phải chịu đau đớn
về thể xác, khổ sở về tinh thần mà những người thân của họ cũng sẽ luôn có tâm lý
thù hận, lo sợ, đặc biệt là đối với chính quyền. Nếu hành vi này không được phát
hiện và ngăn chặn kịp thời, nó sẽ tiếp tục lan rộng, dẫn đến hệ quả là một bộ phận
dân chúng sẽ căm ghét, mất niềm tin vào toàn bộ hệ thống chính quyền chỉ vì những
hành vi sai trái của một vài cá nhân, gây ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước,
mất ổn định an ninh xã hội.
c. Nghĩa vụ thiết lập thẩm quyền tài phán của quốc gia
Cùng với việc hình sự hóa hành vi tra tấn, Điều 5 của Công ước quy định các
quốc gia cần phải có cơ chế để bảo đảm việc xét xử các tội phạm về tra tấn sẽ được

thực hiện trong phạm vi rộng nhất có thể, cụ thể:


17

“1. Mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện những biện pháp cần thiết để thiết
lập quyền tài phán của mình đối với những tội phạm quy định tại Điều 4 trong
những trường hợp sau đây:
a) Khi tội phạm được thực hiện trên lãnh thổ thuộc phạm vi quyền tài phán
quốc gia hoặc trên tàu bay hoặc tàu thuyền đã đăng ký ở quốc gia đó;
b) Khi người bị tình nghi phạm tội là công dân của quốc gia đó;
c) Khi nạn nhân là công dân của quốc gia đó nếu quốc gia đó thấy phù hợp.
2. Mỗi quốc gia thành viên cũng phải thực hiện những biện pháp cần thiết để
thiết lập quyền tài phán của mình đối với những tội phạm nêu trên trong trường hợp
người bị tình nghi phạm tội đang có mặt trên bất cứ vùng lãnh thổ thuộc phạm vi
quyền tài phán của quốc gia và không thực hiện việc dẫn độ người này theo quy
định tại Điều 8 đến bất kỳ quốc gia nào được quy định trong khoản 1 của Điều này.
3. Công ước này không loại trừ các quyền tài phán hình sự được thực thi/áp
dụng theo pháp luật quốc gia”.
Đây là một quy định rất cần thiết vì trong bối cảnh toàn cầu hoá, tội phạm
thường tìm cách trốn tránh pháp luật quốc gia bằng cách di chuyển giữa các quốc
gia hoặc thực hiện các hành vi phạm tội trên lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia.
Điều quan tâm của cộng đồng quốc tế là làm thế nào không để sót, lọt tội phạm và
mọi hành vi phạm tội đều phải bị trừng trị không kể là chúng được thực hiện ở đâu.
Trước tiên, điểm a khoản 1 Điều 5 Công ước đòi hỏi các quốc gia phải xác
lập quyền tài phán dựa trên nguyên tắc lãnh thổ. Mỗi quốc gia thành viên đòi hỏi
phải xác lập quyền tài phán đối với các tội phạm được quy định phù hợp với Điều 1
và Điều 4 Công ước, khi các tội phạm đó được thực hiện trên lãnh thổ của mình,
trên tàu bay hoặc tàu biển đăng ký theo pháp luật nước mình. Các quốc gia có quy
định về quyền tài phán hình sự nhưng chưa bao quát tất cả các hành vi phạm tội bị

trừng phạt quy định tại Điều 1 và Điều 4 Công ước được thực hiện trên lãnh thổ của
mình, trên tàu bay hoặc tàu biển đăng ký theo pháp luật nước mình cần phải bổ sung
quy định về quyền tài phán hiện hành.


18

Trong trường hợp hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ quốc gia, quốc
gia chỉ xác lập thẩm quyền tài phán đối với: a) hành vi phạm tội quy định tại Điều 1
và Điều 4 Công ước do công dân của mình thực hiện; hoặc b) khi nạn nhân là công
dân của nước mình. Công ước cũng yêu cầu các quốc gia xác lập quyền tài phán đối
với các tội phạm thực hiện ngoài lãnh thổ quốc gia nhưng người bị tình nghi phạm
tội đang có mặt ở bất kỳ vùng lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của quốc gia và
quốc gia đó không dẫn độ người bị tình nghi.
Ngoài việc xác lập thẩm quyền tài phán bắt buộc nêu trên, Công ước tôn
trọng và không loại trừ bất cứ quyền tài phán nào của các quốc gia thành viên đã
được xác lập theo pháp luật trong nước.
d. Nghĩa vụ không trục xuất, trao trả hoặc dẫn độ
Quy định tại Điều 3 của Công ước yêu cầu các quốc gia phải ngăn ngừa khả
năng hành vi tra tấn sẽ được thực hiện đối với những người bị trục xuất, trao trả
hoặc dẫn độ từ quốc gia mình, cụ thể:
“1. Các quốc gia thành viên không được trục xuất, trao trả hoặc dẫn độ một
người cho một quốc gia khác nếu có đủ căn cứ để cho rằng người này có nguy cơ
phải chịu sự tra tấn ở quốc gia đó.
2. Để xác định có hay không tồn tại các căn cứ trên, các cơ quan có thẩm
quyền phải xem xét mọi yếu tố có liên quan, bao gồm cả tình trạng xâm phạm
quyền con người một cách trắng trợn, thô bạo, thường xuyên hoặc trên diện rộng ở
quốc gia có liên quan, nếu có thể.”
Ý tưởng về nguyên tắc "không trao trả" được ghi nhận từ năm 1933 trong
Công ước về Quy chế quốc tế của người tị nạn. Theo đó, các quốc gia thành viên

cam kết "không trả người tị nạn về quốc gia xuất xứ, nếu không vì lý do an ninh
quốc gia hay trật tự công cộng". Năm 1951, nguyên tắc “không trao trả” được ghi
nhận trong Công ước về Quy chế của người tị nạn và được tái quy định trong nhiều
văn kiện quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước châu Âu năm 1950 về
các quyền và tự do cơ bản, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966...


19

Bản chất của nguyên tắc "không trao trả" thể hiện trong Điều 3 Công ước
Chống tra tấn là một trong những biện pháp để ngăn ngừa tra tấn, theo đó, quốc gia
không những không được phép tra tấn công dân hoặc những người dưới quyền tài
phán của mình, mà còn không được phép buộc những người nước ngoài trở về hoặc
tới một quốc gia khác, nếu người đó có nguy cơ bị tra tấn tại quốc gia đó. Công ước
yêu cầu quốc gia thành viên không được trục xuất, dẫn độ, trao trả một người về
một quốc gia mà ở đó người này có nguy cơ bị tra tấn hoặc tồn tại một lý do, căn cứ
thuyết phục rằng ở quốc gia đó xảy ra việc xâm phạm quyền con người một cách
trắng trợn.
e. Nghĩa vụ trừng trị các hành vi tra tấn
*Nguyên tắc “hoặc dẫn độ, hoặc truy tố”
Nghĩa vụ trừng trị các hành vi tra tấn được thể hiện trước hết thông qua việc
quốc gia sẽ áp dụng nguyên tắc “hoặc dẫn độ, hoặc truy tố” (“aut dedere, aut
judicare”) đối với người thực hiện hành vi tra tấn. Nguyên tắc “hoặc dẫn độ, hoặc
truy tố” là một nguyên tắc phổ biến trong pháp luật quốc tế được sử dụng nhằm
tránh bỏ lọt tội phạm. Theo nguyên tắc này, một quốc gia sẽ phải truy tố người đã
thực hiện hành vi tội phạm nghiêm trọng nếu như không dẫn độ người này đến một
quốc gia khác. Điều 6 của Công ước chống tra tấn cũng đã đưa ra các quy định về
nguyên tắc này, cụ thể:
“1. Khi người bị tình nghi thực hiện tội phạm quy định tại Điều 4 có mặt trên

lãnh thổ của một quốc gia thành viên, sau khi kiểm tra thông tin về vụ việc và xét
thấy cần thiết, quốc gia thành viên đó phải bắt giữ hoặc thực hiện những biện pháp
hợp pháp khác cần thiết để đảm bảo sự có mặt của người này. Việc bắt giữ và các
biện pháp hợp pháp khác phải tuân thủ pháp luật của quốc gia đó nhưng chỉ được
thực hiện trong thời hạn cần thiết để tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự hoặc dẫn
độ.
2. Quốc gia đó phải tiến hành ngay hoạt động điều tra sơ bộ về sự việc”.
Như vậy, khoản 1 và 2 của Điều 6 Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên
khi có căn cứ cho rằng một người thực hiện bất kỳ hành vi/tội phạm theo quy định


×