BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THỊ THÙY DƯƠNG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG WEBSITE
KHUYẾN MẠI TRỰC TUYẾN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quý Trọng
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ
giáo viên hướng dẫn là TS. Nguyễn Quý Trọng. Các nội dung nghiên cứu và
kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận
xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng
thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận
nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận
văn của mình.
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2016
Tác giả
Lê Thị Thùy Dương
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến TS. Nguyễn Quý Trọng – thầy giáo kính mến đã hết lòng giúp đỡ,
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện nghiên cứu luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban Giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ Phòng Đào tạo, Khoa Pháp luật Kinh tế và
cán bộ Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lởi cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở cạnh động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực
hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2016
Tác giả
Lê Thị Thùy Dương
1
MỤC LỤC
A.
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3
B.
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................................... 7
1.1.
Những vấn đề lý luận về hoạt động website khuyến mại trực tuyến........................ 7
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của hoạt động website khuyến mại trực tuyến ............................. 7
1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động website khuyến mại trực tuyến .................................... 12
1.1.3. Phân biệt hoạt động website khuyến mại trực tuyến với một số hoạt động thương mại
khác ........................................................................................................................................... 26
1.1.4. Những lợi thế và hạn chế của hoạt động website khuyến mại trực tuyến ....................... 30
1.2.
Khái quát pháp luật điều chỉnh hoạt động website khuyến mại trực tuyến.......... 31
1.2.1. Khái niệm pháp luật webstie khuyến mại trực tuyến ...................................................... 31
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về website khuyến mại trực tuyến ................................. 31
CHƯƠNG 2 ................................................................................................................................. 35
2.1.
Quy định pháp luật về hoạt động website khuyến mại trực tuyến ......................... 35
2.1.1. Các chủ thể trong hoạt động website khuyến mại trực tuyến ......................................... 35
2.1.2. Quy định về đối tượng hàng hóa, dịch vụ trong website khuyến mại trực tuyến ............ 42
2.1.3. Quy định về các hình thức của hoạt động website khuyến mại trực tuyến ..................... 46
2.1.4 Quy định về hợp đồng trong hoạt động website khuyến mại trực tuyến ........................ 48
2.1.5. Quy định về xúc tiến thương mại trong hoạt động website khuyến mại trực tuyến ....... 54
2.1.6. Quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi tham gia hoạt động website khuyến
mại trực tuyến ........................................................................................................................... 61
2.1.7. Quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong hoạt động website khuyến
mại trực tuyến ........................................................................................................................... 65
2.2. Một số nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật website khuyến mại
trực tuyến ................................................................................................................................ 66
2.2.1. Về chủ thể trong hoạt động pháp luật website khuyến mại trực tuyến. .......................... 66
2.2.2. Về chất lượng hàng hóa trong hoạt động pháp luật website khuyến mại trực tuyến ...... 67
2.2.3. Về xúc tiến thương mại trong pháp luật website khuyến mại trực tuyến ........................ 68
CHƯƠNG 3 ................................................................................................................................. 72
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động website khuyến
mại trực tuyến ......................................................................................................................... 72
3.1.1. Xuất phát từ xu thế phát triển của hoạt động website khuyến mại trực tuyến nói riêng
và hoạt động thương mại điện tử nói chung. ............................................................................ 72
3.1.2. Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động website khuyến mại trực tuyến .......................... 73
2
3.1.3. Xuất phát từ những bất cập của quy định pháp luật về hoạt động website khuyến mại
trực tuyến .................................................................................................................................. 74
3.2. Một số gải pháp hoàn thiện pháp luật về về hoạt động website khuyến mại trực
tuyến tại Việt Nam .................................................................................................................. 75
3.2.1. Cần có quy định về điều kiện của các chủ thể trong hoạt động website khuyến mại
trực tuyến .................................................................................................................................. 75
3.2.2. Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ xác lập với khách hàng. ........................................................................................ 77
3.2.3. Bổ sung quy định về hình thức hợp đồng trong hoạt động website khuyến mại trực
tuyến.......................................................................................................................................... 78
3.2.4. Pháp luật nên tập trung một số quy định liên quan tới việc bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng. .................................................................................................................................. 79
3.2.5. Kiến nghị về quy định liên quan đến việc khuyến mại trong hoạt động website
khuyến mại trực tuyến ............................................................................................................... 80
C - PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................... 83
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự phát triển và phồn vinh của một nền kinh tế không còn chỉ dựa vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động và những hoạt động thương mại
truyền thống, mà ở mức độ lớn, được quyết định bởi trình độ công nghệ thông tin
và tri thức sáng tạo. Với cách thức tiếp cận thị trường kiểu mới nhằm tối đa hóa
được nhu cầu của khách hàng, tiết kiệm chi phí kinh doanh và tăng nguồn thu
cho bên bán hàng, thương mại điện tử nói chung và các website khuyến mại trực
tuyến nói riêng xuất hiện đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới bởi những ảnh
hưởng to lớn của mình. Thương mại điện tử đã làm thay đổi tính chất của nền
kinh tế mỗi quốc gia và nền kinh tế toàn cầu. Thương mại điện tử cũng làm cho
tính tri thức trong nền kinh tế ngày càng tăng lên. Tri thức đã thực sự trở thành
nhân tố và nguồn lực sản xuất quan trọng nhất, là tài sản lớn nhất của một doanh
nghiệp. Đồng thời, thương mại điện tử chính là cuộc cách mạng hoá marketing
bán lẻ và marketing trực tuyến.
Website khuyến mại trực tuyến nhanh chóng xuất hiện tại Việt Nam vào
cuối năm 2010 và đem đến những lợi ích to lớn đối với hoạt động thương mại
của Việt Nam như: cách thức giao dịch hiện đại, tiện lợi – thông qua website
khuyến mại trực tuyến; bán hàng, dịch vụ với mức giá giảm lớn; cách thức tiếp
thị và quảng cáo hiệu quả, chi phí thấp. Đó là những điểm hấp dẫn không thể
chối từ, thu hút đông đảo thương nhân, người tiêu dùng tham gia vào hoạt động
này.
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của các website khuyến mại trực tuyến
trong những năm vừa qua, hoạt động này hiện nay đang tiểm ẩn rất nhiều rủi ro
đối với các thương nhân kinh doanh lĩnh vực này cũng như người tiêu dùng. Mặc
dù, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt
động này để nâng cao hơn nữa vai trò của hoạt động của các website khuyến mại
trực tuyến cũng như bảo vệ tối đa quyền lợi của người tiêu dùng thì rất cần thiết
phải có những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn.
Hiện nay, hoạt động của các website khuyến mại trực tuyến được điều
chỉnh bởi hệ thống các văn bản sau: văn bản pháp luật mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ; văn bản pháp luật trung gian thương mại; văn bản pháp luật về xúc
4
tiến thương mại, văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, văn bản pháp luật liên quan đến thương mại điện tử. Có những vấn đề sẽ
được các văn bản điều chỉnh phù hợp với nhau, nhưng cũng có những vấn đề cần
một hệ thống văn bản pháp luật chung thống nhất điều chỉnh mới phù hợp với cả
lý luận và thực tiễn áp dụng.
Vì vậy, cần thiết đặt ra vấn đề nghiên cứu đối với hoạt động website khuyến
mại trực tuyến. Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về hoạt động website khuyến
mại trực tuyến” có tính thời sự, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu tiếp cận về hoạt động
website khuyến mại trực tuyến, trong quá trình tìm kiếm tài liệu, tác giả có tham
khảo được bài nghiên cứu “Development of group buying in Croatia” (Sự phát
triển của hoạt động mua theo nhóm ở Croatia) của Ivana Stulec và Kristina
Petljak hay Antitrust and Group Purchasing (Tạm dịch là chống độc quyền và
nhóm mua) của Michael A. Lindsay. Các nghiên cứu này nhìn chung giới thiệu
cho người đọc về quá trình ra đời và phát triển của hoạt động về hình thức giống
với hoạt động website khuyến mại trực tuyến tại Việt Nam và giới thiệu về một
vài đặc điểm cũng như lợi ích mà hoạt động này đem lại cho chủ thể tham gia
nhưng chưa có cái nhìn toàn diện về bản chất pháp lý của hoạt động này. Tác giả
chưa tìm thấy công trình khoa học nào trên thế giới nghiên cứu cụ thể về hoạt
động website khuyến mại trực tuyến – đúng như tên gọi đang được pháp luật
Việt Nam quy định.
Tại Việt Nam, hoạt động của website khuyến mại trực tuyến là hoạt động
mang tính mới nên chưa có bài nghiên cứu dưới góc độ pháp lý về nó.
Ở phương diện quản lý nhà nước, Cục Thương mại điện tử và Công nghệ
thông tin – Bộ Công thương cũng nói tới hoạt động của website khuyến mại trực
tuyến trong Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2015 nhưng dưới góc độ tiếp
cận liên quan đến các quy định về thương mại điện tử, các nội dung liên quan
trực tiếp đến hoạt động của website khuyến mại trực tuyến được đề cập ở mức độ
rất hạn chế.
Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu về hoạt động website khuyến
mại trực tuyến chưa nhiều và chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
5
bản chất pháp lý của hoạt động website khuyến mại trực tuyến cũng như những
quy định pháp luật về hoạt động website khuyến mại trực tuyến ở Việt Nam.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là: Làm rõ một số vấn đề về bản chất
pháp lý của hoạt động website khuyến mại trực tuyến, làm rõ và đánh giá những
vướng mắc, bất cập trong thực trạng pháp luật về hoạt động website khuyến mại
trực tuyến để từ đó đề xuất những yêu cầu và giải pháp cơ bản cho việc hoàn
thiện quy định pháp luật đối với hoạt động website khuyến mại trực tuyến ở Việt
Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về hoạt động website khuyến mại trực
tuyến và pháp luật điều chỉnh về hoạt động này;
- Đánh giá quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động website khuyến mại
trực tuyến;
- Đưa ra một số đề xuất hoàn thiện và nâng cao áp dụng pháp luật về hoạt
động website khuyến mại trực tuyến.
4.
Đối tượng nghiên cứu đề tài
Với mục đích nghiên cứu đặt ra, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu về:
-
Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động website khuyến mại trực
tuyến;
-
Nội dung các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động website
khuyến mại trực tuyến tại Việt Nam.
5.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hoạt động website khuyến mại trực tuyến trong thị trường bán
lẻ tại Việt Nam.
6.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lên nin, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Trong quá
trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân
tích, tổng hợp, tổng kết kinh nghiệm, so sánh…để tập trung làm sáng rõ những
vấn đề nghiên cứu.
7.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6
Ý nghĩa khoa học: Việc đặt ra vấn đề nghiên cứu đối với hoạt động
website khuyến mại trực tuyến, cụ thể là việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về
hoạt động website khuyến mại trực tuyến” có ý nghĩa về mặt lý luận bởi hiện nay
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Trong đề tài này, tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về bản chất pháp lý
của hoạt động website khuyến mại trực tuyến. Từ đó, việc nghiên cứu đề tài này
sẽ đưa ra những đóng góp về mặt lý luận nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật để điều chỉnh hoạt động này.
Ý nghĩa thực tiễn: Những lợi ích to lớn mà hoạt động website khuyến mại
trực tuyến mang lại cho nền kinh tế nói chung và các chủ thể tham gia vào hoạt
động này nói riêng trong những năm vừa qua là điều không thể phủ nhận. Bên
cạnh đó, thì hoạt động này trong giai đoạn hiện nay đang tiểm ẩn rất nhiều rủi ro
đối với các thương nhân kinh doanh lĩnh vực này cũng như người tiêu dùng. Mặc
dù, cũng đã có những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này nhưng để nâng
cao hơn nữa vai trò của hoạt động của các website khuyến mại trực tuyến cũng
như bảo vệ tối đa quyền lợi của người tiêu dùng thì rất cần thiết phải có những
điều chỉnh về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở những đóng góp về mặt lý luận của
luận văn sẽ góp phần giúp các cơ quan quản lý nhà nước, những nhà lập pháp có
cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn từ đó ban hành các quy định thống nhất điều chỉnh
hoạt động này trên thực tiễn nhằm phát huy tối đa những lợi ích mà hoạt động
này mang lại cho nền kinh tế Việt Nam.
8.
Cơ cấu của luận văn
Luận văn cơ cấu gồm: Lời nói đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung của luận văn kết cấu 3 chương,
gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động website khuyến mại trực
tuyến và pháp luật điều chỉnh hoạt động website khuyến mại trực tuyến;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động website khuyến mại trực
tuyến tại Việt Nam;
Chương 3: Sự cần thiết và hoàn thiện pháp luật về hoạt động website
khuyến mại trực tuyến và nâng cao áp dụng pháp luật tại Việt Nam.
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG WEBSITE KHUYẾN MẠI
TRỰC TUYẾN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG WEBSITE
KHUYẾN MẠI TRỰC TUYẾN
1.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động website khuyến mại trực tuyến
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của hoạt động website khuyến mại trực tuyến
a.
Trên thế giới
Trước hết cần khẳng định rằng website khuyến mại trực tuyến là một trong
những hình thức của hoạt động Thương mại điện tử (viết tắt là e-commerce hay
e-comm). Website khuyến mại trực tuyến được biết đến như một quá trình thuận
lợi hóa thương mại thông qua áp dụng các công nghệ điện tử và công nghệ thông
tin. Trên thế giới, thương mại điện tử được hình thành từ những năm cuối thập
niên 70, dưới hình thức đơn giản là gửi tài liệu thương mại như các đơn đặt hàng
thông qua internet. Trải qua thời gian, trước yêu cầu đổi mới về phương thức
kinh doanh của thị trường, website khuyến mại trực tuyến xuất hiện và bùng nổ.
Năm 1998, trang Mobshop.com được thành lập với đặc điểm người mua
hàng hóa tạo thành nhóm. Nó giống với trang web về thương mại điện tử khác,
bán điện thoại, máy tính… chỉ khác một điều là giá cả của các loại sản phẩm
không cố định mà “biến động”, nhà cung cấp đưa ra một khoảng thời gian nhất
định, trong khoảng thời gian đó, tùy thuộc vào lượng người tham gia mua mà nhà
cung cấp sẽ hạ giá bán xuống các mức khác nhau. Lượng người mua càng nhiều
thì giá càng rẻ, cứ thế cho đến khi thời gian mua kết thúc. Ngay sau khi Mobshop
thành lập, cũng đã có rất nhiều các trang web tương tự khác được thành lập ở Mỹ
và Anh như LetBuyit.com, Onlinechoice, Economy.com…
Nhưng phải từ năm 2008, hình thức mua hàng trên website kèm theo
khuyến mại thực sự bùng nổ. Lý do dẫn đến sự nở rộ của hoạt động này có thể kể
8
đến là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và những lợi ích do internet
đem lại.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 – 2009 là cuộc khủng hoảng
kinh tế xảy ra đầu tiên trong thế kỷ 21. Vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, tại
nước Mỹ xảy ra hai sự kiện lớn chấn động ảnh hưởng đến chính trị và an ninh thế
giới cũng như nền kinh tế thế giới, đó là sự kiện khủng bố đánh sập tòa tháp đôi
tại New York ngày 11/9/2001 và sự kiện ngân hàng Lehman Brothers tuyên bố
phá sản ngày 17/9/2008. Theo đánh giá của những nhà nghiên cứu kinh tế, đó là
nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới. Hậu quả của
khủng hoảng kinh tế này ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến hệ thống kinh tế thế
giới đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng, tài chính, tín dụng. Đấy là những hậu quả
tầm vĩ mô. Ở tầm vi mô, hậu quả được thể hiện rõ nét ở đời sống của từng người
dân. Nhằm mục đích thắt chặt chi tiêu, người tiêu dùng giảm sức mua và có nhu
cầu mua được hàng hóa giảm giá.
Thêm vào đó, sự xuất hiện của internet mang lại cho người tiêu dùng nhiều
lợi ích. Một trong số đó là việc người tiêu dùng có thể ngồi một chỗ tìm kiếm các
thông tin về sản phẩm, dịch vụ đơn giản, nhanh chóng mà không bị giới hạn về
không gian và thời gian; họ có thể so sánh những đặc điểm cũng như giá cả giữa
các sản phẩm với nhau; ngoài ra những người tiêu dùng còn có thể cùng trao đổi
kinh nghiệm mua sắm mà mình tích lũy được với người khác.
Hai lý do cơ bản trên cùng xuất hiện tại một thời điểm đã khuyến khích
người tiêu dùng khai thác lợi thế của Internet để tìm sản phẩm hợp với nhu cầu.
Nó cũng đặt các nhà sản xuất cần kinh doanh đáp ứng được yêu cầu của người
tiêu dùng để có thể cạnh tranh với đối thủ. Thời điểm đó, website khuyến mại
trực tuyến ra đời đã đem lại nhiều ưu điểm so với hình thức mua bán truyền
thống trước đây như sáng tạo, mô hình đơn giản, dễ sử dụng thu hút được người
sử dụng cũng như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Ngay lập tức, chỉ trong một thời gian ngắn, hoạt động này đã lan rộng trên
toàn thế giới từ Châu Âu, Nam Mỹ, Châu Phi, Úc và các nước châu Á khác. Xu
hướng phát triển thương mại điện tử nói chung và website khuyến mại trực tuyến
nói riêng ở một số quốc gia như sau:
9
Tại Mỹ, Năm 2015 Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố doanh thu bán lẻ trực
tuyến của quốc gia này tính đến quý 3/2015 đạt 251,9 tỷ USD. Trong đó, chỉ tính
riêng doanh thu bán lẻ trực tuyến quý 3/2015 là 87,5 tỷ USD, tăng 4,2% so với
quý 2/2015 và tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bán lẻ trực tuyến
của quốc gia này chiếm 7,4% tổng doanh thu bán lẻ của cả nước. Trong khi đó,
theo thống kê và dự đoán của eMarketer, doanh thu Thương mại điện tử bán lẻ
của Hoa Kỳ năm 2015 ước đạt khoảng 355 tỷ USD chiếm khoảng 7,4% tổng
doanh thu bán lẻ nước này. Dự đoán đến năm 2019, doanh thu Thương mại điện
tử bán lẻ của Hoa Kỳ sẽ chiếm 9,8% tổng doanh thu bán lẻ.1
Tại Trung Quốc, theo báo cáo của Công ty Nghiên cứu thị trường
eMarketer về thị trường Thương mại điện tử Trung Quốc, doanh thu bán lẻ trực
tuyến nước này tính đến tháng 9/2015 ước đạt 672,01 tỷ USD, tăng 42,1% so với
cùng kỳ 2014 và chiếm khoảng 15,9% tổng doanh thu bán lẻ của Trung Quốc.
Với tỷ lệ này doanh thu bán lẻ trực tuyến Trung Quốc chiếm khoảng 40% tổng
doanh thu bán lẻ trực tuyến toàn cầu năm 2015. Dự báo, tỷ lệ này sẽ đạt mức trên
50% vào năm 2018 và khoảng 55,1% vào năm 20195. Trong khi đó, một báo cáo
khác về thị trường Thương mại điện tử Trung Quốc năm 2015 do Tập đoàn tư
vấn nghiên cứu các vấn đề Internet của Trung Quốc iResearch công bố vào giữa
tháng 10/2015 cho biết, số lượng người mua hàng trực tuyến năm 2015 ở nước
này là 410 triệu người, tăng 13,4% so với năm 2014. Doanh thu bán lẻ trực tuyến
tăng từ 2,8 nghìn tỷ Nhân dân tệ (khoảng 432,2 tỷ USD) năm 2014 lên 4 nghìn tỷ
Nhân dân tệ (tương đương 617,4 tỷ USD) trong năm 2015, chiếm 13,5% tổng
doanh thu bán lẻ. Cũng theo iResearch, giá trị mua hàng trung bình của một
người mua hàng trực tuyến năm 2015 ở Trung Quốc ước tính khoảng 9.731 Nhân
dân tệ (tương đương 1.500 USD), tăng 26% so với năm 2014. Đến năm 2018,
con số này ước tính sẽ đạt khoảng 16.000 Nhân dân tệ (tương đương 2.470
USD).2
Tại Hàn Quốc, theo báo cáo Mua sắm trực tuyến thường kỳ do Tổng cục
Thống kê Hàn Quốc công bố vào tháng 11/2015 cho biết, doanh thu bán lẻ
1
2
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, Trang 29.
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, trang 21.
10
Thương mại điện tử tính riêng tháng 9/2015 đạt 4.319 tỷ Won (khoảng 3,7 tỷ
USD). Các mặt hàng được mua sắm trực tuyến nhiều nhất có thể kể đến: đồ dùng
trong nhà, máy tính và thiết bị liên lạc, nội thất, quần áo, giày dép và vali, thực
phẩm, mỹ phẩm, sách và giá sách. eMarketer dự đoán doanh thu bán lẻ Thương
mại điện tử của thị trường Hàn Quốc năm 2015 là 38,86 tỷ USD, chiếm 11,2%
trên tổng doanh thu bán lẻ. Mức doanh thu này dự báo sẽ tiếp tục tăng và ước
tính đạt 50,55 tỷ USD vào năm 2018.3
Tại Úc, theo Bảng chỉ số bán lẻ do Ngân hàng Trung ương Úc (NAB) công
bố ngày 1/12/2015, tính từ tháng 10/2014 đến tháng 10/2015 doanh thu bán lẻ
trực tuyến của Úc là 17,9 tỷ USD, tương đương với 7,2% doanh thu bán lẻ truyền
thống. Các sản phẩm và dịch vụ được mua bán trực tuyến nhiều nhất ở quốc gia
này là đồ chơi, trò chơi điện tử, phương tiện truyền thông, thời trang, hàng tạp
hóa và rượu. Trong khi đó, eMarketer dự đoán doanh thu bán lẻ Thương mại điện
tử của Úc trong năm 2015 đạt 19,2 tỷ USD, tỷ trọng trong tổng doanh thu bán lẻ
đạt 5,9%. Tỷ trọng của doanh thu bán lẻ trực tuyến trên tổng doanh thu bán lẻ dự
báo cũng sẽ tăng 0,3% mỗi năm và đạt 6,9% vào năm 2018.4
Tại Ấn Độ, trong báo cáo của eMarketer vào tháng 12/2015, Ấn Độ sẽ là
một trong ba thị trường Thương mại điện tử có tốc độ phát triển nhanh nhất khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương, cùng với Trung Quốc và Indonesia. Năm 2015,
tốc độ tăng trưởng Thương mại điện tử của quốc gia này đạt mức 129,5%. Doanh
thu bán lẻ trực tuyến của Ấn Độ ước đạt 14 tỷ USD năm 2015, chiếm 1,7% tổng
doanh thu bán lẻ. Dự đoán đến năm 2018, mức doanh thu này sẽ đạt 55,26 tỷ
USD.5
Với những số liệu nêu trên có thể thấy Trung Quốc hiện đang thống trị
trong lĩnh vực thương mại điện tử toàn cầu nói chung và website khuyến mại trực
tuyến nói riêng. Tuy nhiên, Trung Quốc hiện đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt
3
4
5
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr. 22
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr. 23
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr.24
11
từ phía các quốc gia khác và thị trường của Trung Quốc đang có xu hướng bị thu
hẹp dần.
b.
Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, hoạt động website khuyến mại trực tuyến được biết đến rộng
rãi từ cuối năm 2010 và phát triển mạnh từ năm 2011. Năm 2011, Việt Nam
chứng kiến sự nở rộ của các website khuyến mại trực tuyến. Các website này ra
đời và phát triển rất nhanh, cho đến nay đã trở nên quen thuộc với một bộ phận
người tiêu dùng tại các thành phố lớn, đặc biệt là giới trẻ, sinh viên và dân văn
phòng. Sự phát triển của các website này đã tạo nên một xu hướng mua hàng mới
cho người tiêu dùng, đồng thời cũng tạo nên diện mạo khác lạ về cung cách
truyền thông và tiếp thị cho hoạt động thương mại bán lẻ. Mặc dù vậy, hoạt động
này chính thức được pháp luật điều chỉnh lần đầu tiên tại Nghị định số
52/2013NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/05/2013 về thương mại điện tử.
Theo Báo cáo thương mại điện tử 2015 của Bộ công thương thì kết quả
khảo sát năm 2015 của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, giá trị
mua hàng của một người mua hàng trực tuyến trong năm ước đạt 160 USD,
doanh số Thương mại điện tử B2C đạt khoảng 4,07 tỷ USD, tăng 37% so với
năm trước đó, chiếm khoảng 2,8% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng cả nước. Loại hàng hóa, dịch vụ được mua trực tuyến phổ biến nhất
là quần áo, giày dép và mỹ phẩm (64%). Tiếp theo là đồ công nghệ và điện tử,
thiết bị đồ dùng gia đình, sách – văn phòng phẩm – hoa – quà tặng. Phần lớn
người mua hàng trực tuyến vẫn lựa chọn hình thức thanh toán tiền mặt với 91%
đối tượng khảo sát cho biết có sử dụng phương thức này, tiếp theo là 48% sử
dụng phương thức chuyển khoản qua ngân hàng, 20% người tham gia khảo sát
cho biết từng sử dụng các loại thẻ thanh toán.6
Cũng theo Báo cáo thương mại điện tử 2015 của Bộ Công thương, kết quả
khảo sát của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin cho thấy 62% số
người truy cập Internet đã từng mua hàng trực tuyến, tăng 4% so với năm 2014.
Có nhiều cách thức để tìm kiếm thông tin trước khi mua hàng trực tuyến, trong
6
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr.24
12
đó cách thức tìm kiếm bằng các phương tiện điện tử được lựa chọn phổ biến với 81% số
người mua sử dụng máy tính để bàn/máy tính xách tay để tìm kiếm thông tin, 74% sử
dụng các thiết bị di động (điện thoại, máy tính bảng). Chỉ có 20% số người chọn cách
thức hỏi bạn bè, người thân. Trong số người tham gia mua sắm trực tuyến, 75% cho
biết đã quyết định mua hàng hóa/ dịch vụ qua mạng ngay sau khi tìm kiếm thông tin.
Tổng doanh thu từ việc thực hiện khuyến mại cho nhà cung cấp, người bán trên website
trong 10 tháng đầu năm 2015 của các website khuyến mại trực tuyến tham gia khảo sát
ước đạt 1.181 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2014, tổng doanh thu của các website này là
960 tỷ đồng. Lượng tiền tiết kiệm của 30 website khuyến mại trực tuyến cho người tiêu
dùng trong 10 tháng đầu năm 2015 ước đạt 319 tỷ đồng. Trong khi đó, lượng tiền tiết
kiệm của 40 website khuyến mãi trực tuyến cho người tiêu dùng trong 10 tháng đầu
năm 2014 đạt 276 tỷ đồng. Dẫn đầu thị trường là hotdeal.vn, chiếm 49% thị phần. Đứng
thứ hai là muachung.vn với 19% thị phần. Tiếp theo là cungmua.com với 10%,
nhommua.com là 9% còn lại là các website khuyến mại trực tuyến khác chiếm 13%.7
Có thể nói, hoạt động website khuyến mại trực tuyến là hoạt động có tính mới và
độc đáo, lại phát triển nhanh về số lượng và phạm vi. Hòa nhịp với xu hướng chung trên
thế giới về thương mại điện tử, hoạt động website khuyến mại trực tuyến tuy mới phát
triển ở Việt Nam nhưng có sức lan tỏa khá lớn tới một bộ phận không nhỏ người tiêu
dùng. Điều đó nói lên sự hấp dẫn cũng như lợi ích mà hoạt động này đem lại đối với thị
trường. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu bản chất pháp lý và hoàn thiện các quy
định pháp luật về hoạt động này là cần thiết để tìm được định hướng đúng đắn và ổn
định lâu bền đối với hoạt động này, đặc biệt là tại Việt Nam.
Hoạt động website khuyến mại trực tuyến đã từng được biết đến từ năm 2000,
nhưng quy mô của nó còn hết sức đơn giản và chưa thực sự phát triển. Phải từ năm
2008, hoạt động thương mại này mới bùng nổ và lan tỏa rộng rãi như một hiện tượng
trên khắp các quốc gia và khởi nguồn là từ Mỹ.
Chính vì hình thức còn tương đối mới mẻ nên hệ thống pháp luật điều chỉnh về
hoạt động website khuyến mại trực tuyến trên thế giới cũng như ở Việt Nam còn rất ít,
và hầu như rải rác ở các văn bản khác nhau liên quan đến thương mại điện tử, bảo vệ
người tiêu dùng, chống thư rác…
1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động website khuyến mại trực tuyến
7
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr.76
13
a.
Khái niệm hoạt động website khuyến mại trực tuyến.
Hiện nay, trên thế giới mặc dù hoạt động website khuyến mại trực tuyến phát
triển mạnh mẽ nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào đối với website
khuyến mại trực tuyến. Trong quá trình tìm hiểu khái niệm về hoạt động website
khuyến mại trực tuyến, tác giả nhận thấy rằng khái niệm về website khuyến mại
trực tuyến hiện đang chỉ dừng ở ý kiến của cá nhân hoặc sự thống nhất của một
nhóm người và cũng chỉ có những ý kiến của cá nhân hoặc một nhóm người về
hoạt động thương mại đó là hoạt động mua hàng theo nhóm có những đặc điểm
khá tương đồng với hoạt động website khuyến mại trực tuyến, ví dụ như: Tại
Úc, Group Buying Code of Conduct (tạm dịch là quy tắc ứng xử của hoạt động
mua theo nhóm) có đưa ra cách hiểu rằng: dịch vụ với giá giảm đáng kể so với
giá thông thường trong điều kiện có một số lượng người mua tối thiểu thực hiện
việc mua. Tác giả Ivana Stulec and Kristina Petljak nêu trong Development of
group buying in Croatia (Sự phát triển của hoạt động mua theo nhóm ở Croatia)
cho rằng, mua theo nhóm có thể được định nghĩa là hoạt động mua thành nhóm
để dành được sự giảm giá. Hay trong Nghị quyết số 768 thượng viện Philippines
quy định hình thức mua theo nhóm (còn gọi là mua tập thể) cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ với giá giảm đáng kể với điều kiện là số lượng người mua tối
thiểu sẽ thực hiện việc mua cùng một đề nghị cụ thể.
Có thể thấy rằng, hoạt động website khuyến mại trực tuyến được biết đến là
hoạt động có sự tham gia của website khuyến mại trực tuyến đóng vai trò trung
gian giữa người bán và người mua. Website khuyến mại trực tuyến thỏa thuận
với bên bán về mức giảm giá đối với hàng hóa, dịch vụ và thời hạn thực hiện bán
hàng giảm giá này. Giao dịch chỉ có hiệu lực khi bên mua mua hàng hóa, dịch vụ
trong thời gian khuyến mại được đăng tải trên website khuyến mại trực tuyến.
Website khuyến mại trực tuyến đăng công khai đề nghị mua hàng hóa hoặc dịch
vụ với mức giá giảm để người mua lựa chọn.
Từ những điểm khái quát nhận diện hoạt động website khuyến mại trực
tuyến nêu trên, pháp luật Việt Nam có quy định về website khuyến mại trực
tuyến tại Khoản 10, Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày
ngày 16/05/2013 về thương mại điện tử như sau: “Website khuyến mại trực
14
tuyến là website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để thực
hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức, cá nhân
khác theo các điều khoản của hợp đồng dịch vụ khuyến mại.”
Như vậy, website khuyến mại trực tuyến phải là website thương mại điện
tử được thiết lập để thực hiện hoạt động khuyến mại nhằm bán hàng hóa, dịch vụ.
Hoạt động này phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán
hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến
giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng.
Như vậy, hoạt động website khuyến mại trực tuyến có sự tham gia của chủ
thể trung gian thương mại. Yếu tố khuyến mại là đặc trưng và cũng là điểm thu
hút với khách hàng. Ngoài ra, hoạt động này khuyến mại, giảm giá này thông qua
website thương mại điện tử của thương nhân trung gian sở hữu website khuyến
mại trực tuyến.
b.
Đặc điểm pháp lý
Hoạt động website khuyến mại trực tuyến có những đặc điểm pháp lý sau:
- Thứ nhất, hoạt động website khuyến mại trực tuyến là một hoạt động
thương mại mang tính phức hợp.
Tính phức hợp của website khuyến mại trực tuyến thể hiện ở những nội
dung sau:
Trước tiên, hoạt động website khuyến mại trực tuyến là một hoạt động
thương mại, tính chất của hoạt động thương mại được chứng minh qua các đặc
điểm sau: có sự tham gia của thương nhân (gồm thương nhân sở hữu website
khuyến mại trực tuyến và thương nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ), có mục đích
lợi nhuận, hoạt động này được thực hiện một cách độc lập, thường xuyên và
mang tính nghề nghiệp.
Hoạt động website khuyến mại là mộthoạt động cung ứng dịch vụ
thương mại thông qua Hợp đồng dịch vụ khuyến mại.
Bên cung ứng dịch vụ là thương nhân sở hữu website khuyến mại trực
tuyến, có đăng ký kinh doanh để cung cấp dịch vụ website khuyến mại trực
tuyến. Thương nhân này có nghĩa vụ thực hiện việc quảng cáo sản phẩm, hàng
15
hóa có khuyến mại cho các thương nhân, tổ chức cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Còn bên sử dụng dịch vụ là các thương nhân, tổ chức cung cấp hàng hóa có nhu
cầu bán hàng hóa, dịch vụ thì có nghĩa vụ thanh toán cho thương nhân sở hữu
website khuyến mại trực tuyến thông qua Hợp đồng dịch vụ khuyến mại để sử
dụng dịch vụ quảng cáo hàng hóa, dịch vụ trên website khuyến mại trực tuyến.
Đối tượng mà các bên tham gia quan hệ cung ứng dịch vụ website khuyến mại
trực tuyến là cung cấp dịch vụ quảng cáo hàng hóa, dịch vụ trên website khuyến
mại trực tuyến. Mục đích của các chủ thể trong hoạt động website khuyến mại
trực tuyến không giống nhau. Thương nhân sở hữu website khuyến mại trực
tuyến hướng tới khoản tiền thù lao còn các thương nhân, tổ chức cung cấp hàng
hóa, dịch vụ hướng các lợi ích phát sinh từ việc thực hiện dịch vụ của thương
nhân sở hữu website khuyến mại trực tuyến như: quảng cáo hàng hóa, dịch vụ và
bán hàng hóa, dịch vụ của mình. Về hình thức của quan hệ cung ứng dịch vụ
website khuyến mại trực tuyến là thông qua Hợp đồng dịch vụ khuyến mại (Điều
43, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/5/2013 về Thương mại
điện tử)8.
Hoạt động website khuyến mại trực tuyến mang đặc điểm của hoạt
động trung gian thương mại.
Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực
hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định,
bao gồm: hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua
bán hàng hoá và đại lý thương mại.
Theo đó, hoạt động website khuyến mại trực tuyến là hoạt động trung gian
thương mại. Quan hệ trung gian này tồn tại giữa bên bán và bên trung gian - là
các thương nhân môi giới hoạt động bán hàng hóa, dịch vụ thông qua website
khuyến mại trực tuyến. Theo quy tắc của một số website khuyến mại trực tuyến
8
“Điều 43. Hợp đồng dịch vụ khuyến mại
1. Hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ khuyến mại trực tuyến
với thương nhân, tổ chức, cá nhân có hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại thực hiện theo quy định
tại Điều 90 Luật thương mại và phải có các nội dung sau:
a) Phân định trách nhiệm giữa các bên trong việc thực hiện các trình tự, thủ tục để thực hiện hoạt
động khuyến mại theo quy định của pháp luật về khuyến mại;
b) Quy định cụ thể nghĩa vụ giải quyết khiếu nại và bồi thường cho khách hàng trong trường hợp
hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại hoặc hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại không phù hợp với
nội dung đã thông báo hay cam kết.”
16
thì thương nhân trung gian là thương nhân sở hữu website khuyến mại trực tuyến
tiến hành môi giới bên bán hàng hóa, dịch vụ với bên mua nhằm tới mục tiêu lợi
nhuận. Thương nhân sở hữu website khuyến mại trực tuyến là bên thứ ba độc lập
với bên bán là các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và bên mua là người tiêu
dùng. Khi thực hiện việc môi giới này, bên sở hữu website khuyến mại trực tuyến
tức là bên trung gian sẽ được hưởng thù lao cho công việc mà mình thực hiện
thông qua Hợp đồng dịch vụ khuyến mại. Bên trung gian cung cấp dịch vụ sử
dụng website khuyến mại trực tuyến để thực hiện quảng cáo, khuyến mại cho
hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp. Thương nhân sở hữu website khuyến mại
trực tuyến là thương nhân trung gian có tư cách pháp lý độc lập với bên bán, bên
mua và thực hiện việc môi giới nhân danh chính mình.
Qua những phân tích trên, ta đã nhận diện được các đặc trưng để chứng
minh website khuyến mại trực tuyến mang những đặc điểm của hoạt động trung
gian thương mại. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hoạt động của
thương nhân sở hữu website khuyến mại trực tuyến vừa có thể đóng vai trò là
môi giới trong một số giao dịch, vừa có thể đóng vai trò là đại lý bán hàng hóa
trong một số giao dịch khác theo thỏa thuận của các bên.
Hoạt động website khuyến mại trực tuyến mang đặc điểm của hoạt
động xúc tiến thương mại.
Có thể nói, việc bán hàng, cung ứng dịch vụ của nhà cung cấp không phải
là mục đích duy nhất khi họ tham gia vào hoạt động này. Quan trọng hơn, họ có
thể tiến hành quảng bá sản phẩm, dịch vụ và thương hiệu của mình. Khi tham gia
vào hoạt động website khuyến mại trực tuyến, các nhà cung cấp đã tiến hành việc
xúc tiến thương mại với chi phí thấp nhưng hiệu quả cao. Nội dung khuyến mại
của các nhà cung cấp là đặc điểm nổi bật của hoạt động thương mại này.
Thông thường với hoạt động kinh doanh truyền thống, nhà cung cấp sẽ phải
dành khoản chi phí lớn hơn nhiều nếu sử dụng các phương thức xúc tiến thương
mại khác cho hàng hóa, dịch vụ của họ. Trong khi đó, bằng việc bán hàng thông
qua các website khuyến mại trực tuyến của các thương nhân sở hữu website
khuyến mại trực tuyến, những thông tin mà nhà cung cấp muốn quảng bá sẽ được
17
đông đảo người tiêu dùng biết đến. Nếu deal9 của nhà cung cấp có hiệu lực (tức
là người tiêu dùng mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp) thì họ vừa
bán hàng, cung ứng dịch vụ, họ vừa tiến hành quảng bá sản phẩm của mình.
Phí phải trả cho thương nhân kinh doanh website khuyến mại trực tuyến
cũng không phải là lớn. Ngoài ra, đối với những thương nhân có “thương hiệu”,
đây cũng là một kênh giúp họ ổn định thị phần đã đạt được và thâm nhập vào
phân khúc thị trường mới; đặc biệt đối với những nhà cung cấp “mới”, “nhỏ”,
“thương hiệu đang ít được biết đến” thì xúc tiến thương mại theo phương thức
này giúp họ tạo dựng cho mình một lượng khách hàng rất nhanh.
Thông qua kênh quảng cáo này thì các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ đã
thực hiện hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại. Hoạt động này đã thúc đẩy,
tạo cơ hội cho hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa bên cung cấp
và người tiêu dùng.
Đặc biệt, hoạt động website khuyến mại trực tuyến thể hiện rõ tính chất của
hoạt động xúc tiến thương mại khi thực hiện việc khuyến mại đối với các hàng
hóa, dịch vụ. Việc giảm giá nhiều là đặc điểm nổi trội, hấp dẫn nhất đối với
người tiêu dùng khi tham gia vào hoạt động website khuyến mại trực tuyến.
Không những thế, nó còn là lợi thế và ưu điểm mạnh nhất mà bên cung cấp sử
dụng khi tham gia vào hoạt động này nhằm thực hiện mục đích xúc tiến thương
mại đối với hàng hóa, sản phẩm của mình.
Người tiêu dùng dù cho chỉ truy cập tìm hiểu thông tin trên website khuyến
mại trực tuyến hay đăng ký mua sản phẩm, dịch vụ bất kỳ đều dành sự quan tâm
nhất tới giá cả, sau đó mới đến tiêu chí khác. Họ bị thu hút trước tiên là về mức
giảm giá lớn của các hàng hóa, dịch vụ. Thậm chí, tại thời điểm đăng ký, có thể
họ chưa có nhu cầu thực sự cần thiết tiêu dùng sản phẩm, hay sử dụng dịch vụ
nhưng vì giá giảm quá hấp dẫn với họ nên họ quyết định mua.
Mức giảm giá với mỗi deal trên website khuyến mại trực tuyến thường dao
động trong khoảng từ 40% - 90%. Đó quả thực là một con số quá ấn tượng và tạo
sức hút với người tiêu dùng, đặc biệt trong bối cảnh chi tiêu kinh tế đang còn
9
Deal được hiều là mỗi một sản phẩm được giới thiệu trên website có kèm theo điều kiện về giá bán,
số lượng người mua và thời hạn đề người tiêu dùng quan tâm đăng ký mua.
18
nhiều khó khăn như thời điểm hiện nay. Mức giảm giá mạnh đã trở thành một
đặc trưng khiến người tiêu dùng nhớ đến, luôn quan tâm tới website khuyến mại
trực tuyến bên cạnh rất nhiều các chương trình khuyến mại truyền thống khác.
Với cách bán hàng truyền thống, bên bán thường sẽ phải tìm đến những
người thật sự có nhu cầu sử dụng và thuyết phục họ mua hàng hóa, sản phẩm của
mình. Với kênh bán hàng này, qua phương thức khuyến mại, người mua bị hấp
dẫn và tự mình “quảng cáo hộ” cho bên bán tới những người khác. Bên bán tiêu
thụ mặt hàng do mình cung cấp nhanh hơn rất nhiều và tiến hành mục đích quảng
bá khá hiệu quả thông qua chính khách hàng của họ. Với những phân tích trên
đây có thể khẳng định rằng hoạt động website khuyến mại trực tuyến có đặc
điểm của hoạt động xúc tiến thương mại.
-
Thứ hai, đặc điểm về chủ thể
Hoạt động website khuyến mại trực tuyến có sự tham gia của ba chủ thể
đó là: Chủ thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ (bên bán); Chủ thể mua hàng hóa, dịch
vụ (bên mua) và chủ thể sở hữu website khuyến mại trực tuyến là chủ thể trung
gian. Trong đó:
Chủ thể trung gian thực hiện công việc kết nối giữa người bán với người
mua, chủ thể này phải là thương nhân có đăng ký kinh doanh để thực hiện công
việc trung gian như môi giới, đại lý. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, bên
trung gian cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thông qua các website khuyến
mại trực tuyến phải là thương nhân.
Cách làm trung gian của họ không theo phương thức truyền thống mà mang
tính hiện đại – sử dụng việc điều hành website khuyến mại trực tuyến là nơi
người tiêu dùng tìm kiếm người bán hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu
mong muốn của mình. Đó cũng là một không gian, một môi trường vô cùng
thuận tiện, hiện đại để họ tìm được lượng khách hàng đăng ký mua nhanh chóng.
Hoạt động Website khuyến mại trực tuyến còn mang đặc điểm của hoạt động xúc
tiến thương mại, thực hiện chức năng quảng cáo sản phẩm của bên cung cấp tới
người tiêu dùng. Chính vì đặc trưng này mà chủ thể trung gian không những phải
là thương nhân đăng ký kinh doanh ngành nghề môi giới, đại lý mà còn đăng ký
kinh doanh để thực hiện việc quảng cáo trực tuyến.
19
Với chủ thể trung gian đồng thời sở hữu website khuyến mại trực tuyến, lợi
ích mà họ nhận được là doanh thu từ công việc trung gian của mình. Họ có thể
tính phí đối với bên bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ một tỷ lệ phần trăm nhất
định với mỗi một deal hàng hóa, dịch vụ thành công.
Theo Báo cáo thương mại điện tử 2015 thì 54% website cung cấp dịch vụ
Thương mại điện tử tham gia khảo sát cho biết nguồn thu chính của website là từ
hoạt động quảng cáo, 23% website thu phí dựa trên giá trị đơn hàng. Khoảng
12% - 18% website có các nguồn thu như phí thẻ thành viên, hoạt động trực tiếp
từ bán hàng hóa, dịch vụ và từ nguồn thu khác. Có khoảng 105 website cung cấp
dịch vụ Thương mại điện tử tham gia khảo sát có cung cấp số liệu cho biết tổng
doanh thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ Thương mại điện tử (thu phí gian hàng,
thu phí thành viên, quảng cáo, phí dựa trên % đơn hàng) trong 10 tháng đầu năm
2015 ước đạt 1.960 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2014, tổng doanh thu các
website này đạt 806 tỷ đồng.10
Từ những số liệu trên có thể thấy chủ thể trung gian được hưởng nhiều lợi
ích kinh tế từ hoạt động trung gian của mình.
Chủ thể cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ là thương nhân, tổ chức
kinh doanh về hàng hóa, dịch vụ.
Tham gia vào hoạt động của website khuyến mại trực tuyến này thì bên
bán không nhất thiết phải là thương nhân, họ có thể là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu sử dụng dịch vụ của thương nhân sở hữu website khuyến mại trực tuyến
để bán hàng hóa, dịch vụ của mình.
Bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ không chỉ đạt lợi ích về mặt kinh tế mà còn
có mục đích khác. Đầu tiên, điều quan trọng phải đề cập đến là tham gia cung
cấp hàng hóa, dịch vụ cho hoạt động website khuyến mại trực tuyến là một cách
tuyệt vời để xúc tiến thương mại. Nó đem lại cho bên bán một kênh truyền thông
và tiếp thị mới, khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra và cả doanh thu đều tăng;
nhất là với những doanh nghiệp mới, chưa được biết đến thương hiệu trên thị
trường và những doanh nghiệp đang vào giai đoạn thấp điểm của hoạt động kinh
10
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr.76
20
doanh. Việc đưa ra một đề nghị bán hàng, cung ứng dịch vụ đòi hỏi số lượng
khách hàng quan tâm sẽ đăng ký mua. Chưa kể những người truy cập website
khuyến mại trực tuyến dù không đăng ký những cũng xem qua các thông tin giới
thiệu liên quan đến sản phẩm và thương nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Ngoài
ra, khách hàng có thể chia sẻ tới bạn bè, gia đình về thông tin mà họ biết được
thông qua website khuyến mại trực tuyến đó. Đó là một cách hiệu quả để xúc tiến
và quảng bá sản phẩm cũng như thương hiệu bên bán. Đây là dịp bên bán tiếp
cận với khách hàng truyền thống của họ và mở rộng một lượng khách hàng mới
và lớn hơn rất nhiều. Đặc biệt đây là hình thức quảng bá miễn phí khi bên bán
tham gia và thông tin về sản phẩm được đăng trên website khuyến mại trực
tuyến. Trong khi đó, các hình thức xúc tiến thương mại truyền thống luôn yêu
cầu thương nhân có hàng hóa, dịch vụ xúc tiến phải thanh toán chi phí thực hiện.
Đó là một điểm đáng lưu tâm đối với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch
vụ nhất là trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Việc tiết giảm các chi
phí trong quá trình kinh doanh là một lợi ích to lớn mà các nhà cung cấp hàng
hóa, dịch vụ cần lưu tâm, khi tham gia vào hoạt động website khuyến mại trực
tuyến thì họ sẽ không cần phải lưu tâm nữa bởi lợi ích mà hoạt động này mang
lại cho họ chính là tiết giảm chi phí quảng cáo, xúc tiến thương mại cho họ.
Chủ thể mua hàng hóa, dịch vụ là người tiêu dùng có nhu cầu mua
hàng hóa hoặc sử dụng các dịch vụ.
Trong thời kỳ kinh tế nhiều khó khăn như hiện nay, khách hàng thường bị
thu hút với mức giá giảm đưa ra và sẽ quyết định mua hàng hóa hoặc sử dụng
dịch vụ thông qua các website khuyến mại trực tuyến.
Bên mua có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân đủ điều kiện tham gia giao dịch
mua bán hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên mua thường là cá
nhân có điều kiện tiếp xúc với mạng internet. Họ thường là những người trẻ tuổi,
sinh viên và giới văn phòng. Theo Báo cáo thương mại điện tử 2015 thì 84% số
người tham gia khảo sát có trình độ học vấn: cao đẳng, đại học. Trình độ sau đại
học chiếm tỷ lệ 7%. 60,8% người tham gia khảo sát là lao động gián tiếp (nhân
21
viên văn phòng, giảng dạy, nghiên cứu…), 13,8% là lao động trực tiếp (công
nhân, bán hàng, lao động tay chân), 20,7% là học sinh, sinh viên.11
Hoạt động website khuyến mại trực tuyến đem lại nhiều lợi ích cho tất cả
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này. Có thể nói rằng hoạt động website
khuyến mại trực tuyến đem lại lợi ích ba bên, đặc biệt là đối với người tiêu dùng.
Người tiêu dùng có được các lợi ích sau khi tham gia mua hàng hóa, dịch vụ
thông qua website khuyến mại trực tuyến:
Trước tiên là, phải kể đến là người tiêu dùng được hưởng mức giảm giá
lớn đối với hàng hóa, dịch vụ mà họ có nhu cầu. Nếu cũng mua hàng hóa, dịch
vụ đó theo cách mua bán truyền thống thì người mua phải trả tiền cao hơn rất
nhiều so với việc mua trên website. Mục đích tiêu dùng vẫn được đáp ứng trong
khi chi phí bỏ ra thấp hơn. Đây là lợi ích lớn nhất và cũng là điểm hấp dẫn thu
hút người mua tham gia vào hoạt động này nhất.
Theo báo cáo thương mại điện tử 2015 thì giá cả là yếu tố người mua hàng
quan tâm nhất khi mua sắm trực tuyến (81%). Tiếp đến là uy tín của người bán
hay website bán hàng (75%) và thương hiệu của sản phẩm/dịch vụ (70%).12
Thứ hai là, người tiêu dùng nhận được chính là sự tiện lợi về thời gian,
không gian. Tùy vào từng điều kiện thời gian của mình, mỗi người có thể thực
hiện việc lựa chọn và đăng ký mua hàng hóa, dịch vụ bất cứ thời điểm nào trong
ngày khi họ ở bất kỳ đâu. Đây là ưu điểm mà cách mua hàng truyền thống không
đáp ứng được.
Theo báo cáo thương mại điện tử 2015 hình thức mua hàng trực tuyến qua
website bán hàng hóa/dịch vụ được lựa chọn nhiều nhất với 76% người trả lời
khảo sát cho biết đã từng mua hàng bằng hình thức này. Tỷ lệ người từng mua
hàng qua các diễn đàn, mạng xã hội tăng từ 53% năm 2014 lên 68% năm 2015.13
11
12
13
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr.25
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr. 31
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại điện
tử Việt Nam 2015, tr.29
22
Thứ ba là, người tiêu dùng nhận được nữa đó là sự linh hoạt trong việc sử
dụng các hình thức thanh toán khi thực hiện mua hàng, sử dụng dịch vụ thông
qua website khuyến mại trực tuyến.
Theo báo cáo thương mại điện tử 2015 thì có các hình thức thanh toán sau
khi tham gia hoạt động website khuyến mại trực tuyến: Tiền mặt khi nhận hàng,
Ví điện tử, Chuyển khoản qua ngân hàng, Thanh toán thẻ, Thẻ cào, phương tiện
khác. Trong đó thanh toán bằng tiền mặt khi nhận hàng, chuyển khoản qua ngân
hàng là các hình thức thanh toán phổ biến được người mua sử dụng, với tỷ lệ
tương ứng 91% và 48%.14
- Thứ ba, đặc điểm về điều kiện thực hiện giao dịch
Yếu tố được coi là bắt buộc để mua được hàng hóa hoặc sử dụng được dịch
vụ trong hoạt động website khuyến mại trực tuyến là thời gian đăng ký mua hàng
hóa, dịch vụ. Đây là điều kiện không xuất hiện ở các hoạt động mua bán hàng
hóa hay cung ứng dịch vụ truyền thống trong thương mại.
Bên cung cấp và bên trung gian sẽ thỏa thuận với nhau về sản phẩm, giá
bán, mức khuyến mại, thời hạn cho việc đăng ký mua… Sau khi nhà cung cấp và
bên trung gian thỏa thuận thành công, thông tin hình ảnh liên quan tới hàng hóa
dịch vụ sẽ được đăng tải công khai trên website khuyến mại trực tuyến của bên
trung gian – gọi là deal. Hàng hóa, dịch vụ chỉ có thể được bán hoặc cung cấp
nếu như đăng ký mua trong một thời hạn nhất định. Tại hầu hết các website
khuyến mại trực tuyến, khung thời gian cho mỗi deal từ vài ngày cho tới một
tuần. Hết thời hạn này thì deal không còn hiệu lực.
Đây là một điểm mới và cũng tạo nên tính riêng biệt của hoạt động này so
với cách mua hàng truyền thống. Việc giới hạn về thời gian có thể coi là ưu điểm
cũng như thuận lợi đối với bên cung cấp sản phẩm. Nó tạo cho người tiêu dùng
tâm lý cần đưa ra quyết định nhanh chóng, nếu chậm có thể sẽ hết thời gian, dù
cho tại thời điểm đăng ký, đối tượng hàng hóa, dịch vụ có thật sự cần thiết đối
với họ hay không. Nó cũng kích thích mong muốn chia sẻ thông tin của người
14
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin (2015), Báo cáo thương mại
điện tử Việt Nam 2015, tr.30