Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.03 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN MINH QUANG

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA
CÁC CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy
giáo, cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội , đặc biệt là các thầy, cô trong Khoa
Đào tạo sau đại học và Khoa Pháp luật kinh tế, đã luôn giúp đỡ, tạo điều kiện
cho học viên trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Nhà trường.


Đồng thời, tác giả xin được gửi lời cảm ơn và sâu sắc tới PGS.TS
Nguyễn Viết Tý – giảng viên Khoa pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật
Hà Nội, người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận
văn thạc sỹ này.

Nội dung trình bày trong Luận văn là những kết quả nghiên cứu bước
đầu. Mặc dù đã cố gắng hết sức song trong quá trình nghiên cứu, thu thập tài
liệu vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót, chưa hoàn thiện. Tác giả rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô để hoàn thiện
bài luận văn, nâng cao hiểu biết về đề tài này và tạo cơ sở cho việc nghiên
cứu chuyên sâu hơn trong tương lai.

Kính chúc các thầy, cô mạnh khỏe, thành công trong sự nghiệp !

Hà Nội, tháng 06 năm 2016
Học viên

Trần Minh Quang


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS Nguyễn Viết Tý. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc
phân tích, nhận xét, đánh giá được tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau
có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Mọi sự giúp đỡ trong việc hoàn
thành luận văn này đều đã được cảm ơn và đều được ghi rõ nguồn gốc.

Xác nhận của giảng viên hướng dẫn


Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Trần Minh Quang


Mục lục
1.

Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................... 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................ 2

3.

Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu đề tài ............................... 4

4.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ........................................................... 4

5.


Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài ....................................................... 5

6.

Các phương pháp nghiên cứu của đề tài.............................................. 5

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.............................................. 5
8. Bố cục của đề tài .................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: Khái quát chung về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của các co
quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại ..... 7
1.1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại ............................................ 7
1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại .................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại ............................................... 9
1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại ............................................. 11
1.2. Khái quát về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối
với hoạt động của Trọng tài thương mại ................................................... 15
1.2.1. Khái quát chung về các cơ quan thực hiện quyền tư pháp ............... 15
1.2.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện
quyền tư pháp đối với hoạt động của trọng tài .......................................... 20
1.2.3 Ý nghĩa của sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối
với hoạt động của Trọng tài thương mại ................................................... 30
CHƯƠNG 2: Pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện
quyền tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại .......................... 34
2.1. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại ...... 34
2.1.1. Sự hỗ trợ của tòa án trong việc xem xét thẩm quyền trọng tài và
thỏa thuận trọng tài ............................................................................... 34
2.1.2. Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài vụ việc .............................. 45
2.1.3. Tòa án hỗ trợ việc thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng và
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.............................................. 51

2.1.4. Tòa án hỗ trợ trong việc hủy phán quyết trọng tài ....................... 61


2.1.5. Tòa án hỗ trợ việc công nhận và cho thi hành quyết định của
Trọng tài nước ngoài. ........................................................................... 65
2.2. Sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án đối với hoạt động của trọng tài
thương mại ............................................................................................... 69
CHƯƠNG 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động của
các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương
mại ............................................................................................................... 71
3.1. Thực tiễn hoạt động hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp
đối với hoạt động của trọng tài thương mại .............................................. 71
3.1.1. Những thành tựu ......................................................................... 71
3.1.2. Một số hạn chế............................................................................ 73
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ của các cơ quan
thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại ........ 77
3.2.1. Giải pháp liên quan đến hoàn thiện pháp luật .............................. 77
3.2.2. Giải pháp liên quan đến việc áp dụng pháp luật .......................... 80
KẾT LUẬN.................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 86


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về thương
mại ngày càng đa dạng và phức tạp. Mặt khác, khi nước ta đã gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Đây vừa là cơ hội cũng vừa là thách

thức đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Cùng với sự phát triển của các quan
hệ kinh tế. Các tranh chấp thương mại ngày càng muôn hình muôn vẻ và
với số lượng lớn. Chính vì thế, việc lựa chọn một hình thức giải quyết
tranh chấp phù hợp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham
gia tố tụng là một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi chủ thể trong tranh chấp
thương mại.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các quốc gia khác trên thế giới
đều có quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản như :
Thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án. Mỗi phương thức
đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. So với các phương thức khác,
Trọng tại thương mại với những ưu điểm như thủ tục linh hoạt, nhanh
chóng, đảm bảo bí mật kinh doanh cũng như uy tín của các bên tranh chấp
… đã thu hút được đông đảo các nhà kinh doanh trên thế giới sử dụng. Có
thể nói, từ khi Việt Nam nỗ lực hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động
của Trọng tài bằng việc ban hành Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 , Luật thi
hành án dân sự 2008, Luật tố tụng dân sự 2004 và tiếp theo đó là sự ra đời
của Luật Trọng tài thương mại 2010, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cùng với
việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014 .Các chế định
pháp luật này ra đời đã tạo thành một hành lang pháp lý quan trọng cho
việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng hình thức Trọng tài.
Tuy nhiên, mặc dù có những tiến bộ tích cực. Trên thực tế cho thấy các
tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài còn khá ít . Trong khi đó hệ
thống tòa án đã trở lên quá tải, dẫn đến lượng án tồn đọng có chiều hướng


2

gia tăng, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều, nhưng về cơ bản nhất vẫn là
do sự hỗ trợ từ phía các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt

động trọng tài vẫn còn các hạn chế. Điều này làm cho các nhà kinh doanh
chưa thực sự tin tưởng vào Trọng tài và cho rằng giải quyết bằng Trọng tài
sẽ không có hiệu quả như mong muốn. Do vậy, việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật về vấn đề này, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp đối với hoạt động trọng tài có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Xuất phát từ lý do đó, tác giả chọn vấn đề : “Pháp luật hiện
hành về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với
hoạt động của Trọng tài thương mại” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơ chế hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp nói chung, hay
của Tòa án nói riêng trong hoạt động trọng tài thương mại là vấn đề có
tính thời sự cao. Do đó từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này thông qua các cấp độ khác nhau như: Luận án, Luận văn,
Khóa luận hay các bài báo tạp chí chuyên ngành Luật. Có thể kể ra một số
công trình nghiên cứu như :
“Sự hỗ trợ của cơ quan Tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mại” của tác giả Nguyễn Thị Yến (Luận văn Thạc sĩ Luật học ,Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2005);
“Sự hỗ trợ của toà án đối với hoạt động trọng tài thương mại và thực
tiễn áp dụng tại toà án nhân dân thành phố Hà Nội” của tác giả Vũ Thanh
Minh (Khoá luận tốt nghiệp; Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008) ;
“Các biện pháp hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mại” của tác giả Đặng Thanh Tú (Khoá luận tốt nghiệp; Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2009) ;


3


“Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mại theo Luật Trọng tài thương mại 2010” Của tác giả Phan Chân Nhân
(Luận văn Thạc sĩ Luật học ,Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012);
“Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đặng Thị Minh Ngọc
(Luận văn Thạc sĩ Luật học ,Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013);
“Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thị Phượng (Luận văn Thạc sĩ Luật học ,Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2013);
“Những yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời và phát triển của trọng tài
thương mại” của tác giả Nguyễn Đình Thơ , Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
Bộ Tư pháp, Số 6/2006;
“Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của toà án” Của
tác giả Bạch Thị Lệ Thoa , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 14/2009;
“Khái quát về trọng tài, mối quan hệ giữa toà án và trọng tài ở Liên bang
Nga - Kinh nghiệm đối với Việt Nam” của tác giả Trần Hoàng Hải Tạp chí
Khoa học pháp lý, Số 2/2011;
“Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về hủy phán
quyết trọng tài thương mại và một số giải pháp khắc phục” của tác giả Vũ
Thị Hồng Vân , Tạp chí Nghề Luật, Số 3/2016;
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này mặc dù xem xét trên các
phương diện, góc độ nghiên cứu nào thì các ý kiến, đánh giá đều đi đến
nhận thức chung là sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp có
vai trò quan trọng đối với hoạt động của Trọng tài thương mại. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên lại bao quát rất nhiều
vấn đề về Trọng tài chứ không đi sâu vào nghiên cứu một cách đầy đủ,
mang tính hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với
Trọng tài. Hoặc có các công trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề này nhưng
thời điểm công bố công trình chủ yếu phân tích dựa trên các quy định của
Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 và luật Trọng tài thương mại 2010,



4

chưa cập nhật được sự thay đổi của các quy định mới và sự phát triển
chóng mặt của đời sống xã hội trong những năm gần đây. Vì thế, đến nay,
về cơ bản việc nghiên cứu vấn đề “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với
hoạt động của trọng tài thương mại” vẫn là vấn đề mới trong khoa học
pháp lý Việt Nam, cần phải được quan tâm và tiếp tục phát triển.
Trên cơ sở kế thừa những đóng góp khoa học của các công trình
nghiên cứu trước . Luận văn tập trung vào phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành đồng thời đưa ra thực trạng về việc áp dụng quy định
này trên thực tế từ đó có những đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra những
kiến nghị giúp việc thực thi được hiệu quả hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu đề tài
Phù hợp đề tài đã chọn, luận văn không nghiên cứu toàn bộ hoạt động
của trọng tài thương mại mà chỉ tập trung nghiên cứu về sự hỗ trợ của các
cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với trọng tài thương mại dưới góc độ
lý luận và thực tiễn. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu, phân tích về sự cần
thiết phải có sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với Trọng tài thương mại.
Bên cạnh đó, luận văn phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về
vấn đề liên quan cũng như có sự so sánh, đối chiếu với các quy định trước
đây cũng như với pháp luật trọng tài của một số nước trên thế giới; nghiên
cứu thực trạng của sự hỗ trợ này và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối
với hoạt động của Trọng tài thương mại trên thực tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nhằm sáng tỏ hơn các quy định
của pháp luật hiện hành về vấn đề hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền
tư pháp đối với Trọng tài, đồng thời tìm hiểu thực trạng của vấn đề này

trong những năm gần đây. Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các thiết chế trong việc thi hành pháp


5

luật về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt
động của trọng tài thương mại.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài
- Khái niệm, đặc điểm của Trọng tài thương mại ?
- Sự cần thiết hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với
hoạt động Trọng tài thương mại ?
- Pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp đối với hoạt động Trọng tài thương mại ?
- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động hỗ trợ của các
cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động Trọng tài thương
mại ?
6. Các phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn được
nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật và các
phương pháp như :
- Phương pháp duy vật lịch sử được tác giả sử dụng để mô tả tiến trình
phát triển của sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với
Trọng tài thương mại trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, so sánh luật học, phương pháp tổng hợp, trích
dẫn, thống kê … .về các vấn đề pháp lý liên quan đến sự hỗ trợ các cơ
quan thực hiện quyền tư pháp đối với trọng tài.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Về mặt khoa học : Luận văn tiếp tục làm sáng tỏ các quy mới nhất về
sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với trọng tài thương mại. Trên cơ sở so

sánh với các quy định pháp luật trước đây và pháp luật nước ngoài để phân
tích, đánh giá khác quan các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như
thực trạng của các quy định hiện hành về vấn đề này để tìm ra sự tiến bộ


6

của các quy định pháp luật hiện hành cũng như các điểm tương đồng và
khác biệt giữa pháp luật nước ta với pháp luật một số nước trên thế giới ..
Về mặt thực tiễn : Căn cứ vào thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật
. Từ đó luận văn đưa ra một số kiến nghị , giải pháp giúp nâng cao hiệu
quả sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với trọng tài
thương mại
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau :
Chương 1: Khái quát chung về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của
các co quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của trọng tài
thương mại;
Chương 2: Pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện
quyền tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại;
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động
của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài
thương mại.


7

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ SỰ HỖ

TRỢ CỦA CÁC CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1.1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Với lịch sử phát triển lâu dài như vậy, trong khoa học pháp lý, trọng
tài nói chung và trọng tài thương mại nói riêng cũng được cũng được nghiên
cứu dưới những bình diện khác nhau mà cũng chính vì vậy mà có nhiều quan
niệm khác nhau về khái niệm trọng tài.
Theo cuốn “Đại từ điển kinh tế thị trường”: “Trọng tài là một phương
thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương
sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người
thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này
đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”1
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA- American Arbitration
Association): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình
vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét giải quyết và
họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải
thi hành”2
Theo Từ điển ngoại thương: “Phương thức giải quyết tranh chấp bằng
cách đưa vấn đề tranh chấp ra trước một người thứ ba để người này xét xử và
quyết định trong trường hợp hai bên tranh chấp không thể giàn xếp với nhau

1

Nguyễn Hữu Quỳnh (chủ biên, 1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức
bách khoa, Hà Nội, tr. 1989.
2

Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ, Hướng dẫn trọng tài thương mại, tr.3.



8

bằng cách thương lượng mà không muốn đưa vụ tranh chấp ra xét xử trước
pháp luật” 3.
Luật mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức
trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức Trọng tài thường
trực”4 (Điều 2)
Tại Việt Nam, trọng tài theo đúng nghĩa là một phương thức giải quyết
tranh chấp chỉ ra đời từ năm 1993 trên cơ sở Quyết định số 204-TTg củ thủ
tướng Chính phủ ngày 28/4/1993 về việc thành lập trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam (VIAC). Khái niệm về Trọng tài có 1 số thay đổi nhất định qua
từng thời kỳ .Theo Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động
của trọng tài kinh tế thì "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về họp đồng kinh tế; các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty
với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh
chấp có liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu". Tuy nhiên, trọng tài
thương mại còn cụ thể và chi tiết hơn trọng tài kinh tế vì hoạt động thương
mại chỉ là một phần của hoạt động kinh tế. Hiểu một cách ngắn gọn thì trọng
tài thương mại trước hết phải là một trong những hình thức trọng tài, chức
năng của trọng tài thương mại là giải quyết các tranh chấp thương mại.
Cho đến khi Pháp lệnh trọng tài thương mại của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 08/2003 ra đời thì
khái niệm tương đối đầy đủ về trọng tài thương mại như sau: "Trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được
các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp
lệnh này quy định” (điều 2 khoản 1 Pháp lệnh) Như vậy, khái niệm “thương
mại” đã được hiểu theo nghĩa rộng theo đúng tinh thần của Luật mẫu về

Trọng tài thương mại Quốc tế của Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế Liên

3
4

Trường Đại học Ngoại thương (1985), Từ điển ngoại thương, Hà Nội, tr.37

Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
UNCITRAL (1985)


9

hợp quốc (Luật Mẫu UNCITRAL). Việc đưa ra định nghĩa khái niệm thương
mại là bước đột phá lớn thể hiện tính tiên phong trong công tác lập pháp vào
thời điểm đó.
Kế thừa quan điểm tiến bộ của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003,
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 (Luật Trọng tài Thương mại)
đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài tại Điều 2, 3 Luật Trọng tài Thương mại
2010 và đưa khái niệm trọng tài thương mại “là phương thức giải quyết tranh
chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.”
Như vậy, Trọng tài thương mại được hiểu dưới nhiều cách khác nhau
nhưng chung quy lại có thể được nhìn nhận với tư cách là: (i) Trọng tài là một
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại; (ii)
Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền để giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu
của các bên tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một phương thức để giải quyết tranh
chấp

Với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham
gia của bên thứ ba - một Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất.
Trọng tài do chính các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp. Trọng tài là người hoàn toàn độc lập với các bên, đứng
giữa để giải quyết tranh chấp, đưa ra các phán quyết bắt buộc để bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên.
Hai là, Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp đảm bảo
tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên. Mọi tranh chấp được đưa ra giải
quyết bằng trọng tài đều dựa trên yếu tố thỏa thuận. Các bên có thể tự do
thỏa thuận về việc lựa chọn trung tâm trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài,


10

trọng tài viên, luật áp dụng, ngôn ngữ hay về thời gian cũng như địa điểm
giải quyết tranh chấp và nhờ vậy có thể chủ động và tiết kiệm thời gian trong
việc kinh doanh. Đây là điều mà các bên khó có thể thực hiện khi giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án, vì họ phải tuân thủ những quy định tố tụng do luật
định.
Ba là, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua một
thủ tục tố tụng chặt chẽ. Đối với trọng tài thường trực trong quá trình giải
quyết tranh chấp, trọng tài viên và các bên tranh chấp phải tuân thủ đúng
trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức
trọng tài đó quy định. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận
thủ tục tố tụng riêng, ngoài ra, các trọng tài viên và các bên cũng phải tuân
thủ đúng thủ tục tố tụng trọng tài mà mình đặt ra.
Bốn là, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính ràng
buộc các bên đương sự về mặt pháp lý. Phán quyết trọng tài là chung thẩm

và có hiệu lực thi hành ngay (không có thủ tục kháng cáo, chỉ có thủ tục yêu
cầu hủy do vi phạm thủ tục tố tụng). Nếu đương sự không tự nguyện thi
hành, cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành như một bản án có hiệu lực
pháp luật của tòa án. Điều đó làm cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài hữu hiệu hơn phương pháp hoà giải hay thương lượng. Hoà giải hay
thương lượng chỉ mang tính chất khuyến nghị chứ không có tính ràng buộc
thực hiện về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Còn phán quyết trọng
tài mang hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thi hành.
Thứ hai, trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp
Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Trọng tài được luật
pháp các nước có nền kinh tế thị trường thừa nhận là một cơ quan tài phán
độc lập, tồn tại song song với Tòa án.
Tuy nhiên, khi xét về bản chất, Trọng tài thương mại và tòa án hoàn
toàn khác nhau, cụ thể:


11

Một là, Trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội- nghề nghiệp, do
các trọng tài viên tự nguyện thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực kinh doanh,thương mại. Do là cơ quan hoạt động độc lập với
các cơ quan do chính phủ thành lập nên các trung tâm trọng tài không hoạt
động bằng nguồn ngân sách nhà nước . Có trụ sở làm việc, Điều lệ hoạt động
và Quy tắc tố tụng riêng do chính các trung tâm đặt ra. Các trọng tài viên
không phải là các công chức, viên chức Nhà nước, không do Nhà nước bổ
nhiệm và không hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Trọng tài hoạt động vì
mục đích lợi nhuận
Hai là, thẩm quyền của cơ quan trọng tài không tự nhiên mà có chỉ
được hình thành khi có sự thỏa thuận của các bên tranh chấp đối với trọng tài

. Pháp luật quy định, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi
các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có
thỏa thuận trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài
hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền
giải quyết.
Ba là, Trọng tài thương mại cần đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Như đã phân tích ở trên, trọng tài
thương mại là một tổ chức xã hội-Nghề nghiệp, chỉ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp theo sự lựa chọn của các bên nên phán quyết trọng tài không
mang tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước mà
đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Phán quyết trọng tài chỉ có giá trị
bắt buộc với các bên tranh chấp mà không có giá trị bắt buộc với bên thứ ba
.Trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành, cần phải có sự hỗ trợ
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cưỡng chế thi hành.
Qua những đặc điểm trên, trọng tài - là cơ quan giải quyết tranh chấp,
tồn tại song song với Tòa án, tuy nhiên có những nét đặc thù và khác biệt so
với tòa án .
1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài các nước nói chung và Việt Nam nói riêng được tổ chức


12

dưới các dạng khác nhau với các tên gọi khác nhau, nhưng chủ yếu tồn tại
dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Pháp luật
Việt Nam ghi nhận hai hình thức trọng tài thương mại này tại khoản 6, 7
Điều 3 Luật Trọng tài Thương mại 2010, theo đó: (i) Trọng tài quy chế là
hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của
Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó; (ii) Trọng tài vụ việc
là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ

tục do các bên thoả thuận.
● Trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad-hoc,) là loại hình trọng tài xuất
hiện sớm nhất và rất phổ biến trên thế giới. Đây là phương thức trọng tài do
các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vu tranh chấp giữa các
bên và trọng tài sẽ tự giải thể khi tranh chấp đã đã được giải quyết.
Trọng tài vụ việc có các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Trọng tài vụ việc tồn tại chỉ có tính chất lâm thời, không có trụ sở
thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài
viên riêng. Do đó, trọng tài vụ việc có ưu thế hơn so với trọng tài thường trực
ở quyền lựa chọn trọng tài viên không bị giới hạn. Các bên có thể lựa chọn
bất kì trọng tài viên có tên trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ
trung tâm trọng tài nào.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng nào dành cho riêng mình.
trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố
tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy
tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài
có uy tín ở trong nuớc và quốc tế. Như vậy các bên tranh chấp có quyền rộng
rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp, đây là một ưu
thế so với trọng tài thường trực.
Như vậy, tính chất tố tụng của trọng tài vụ việc khá đơn giản, thời gian
tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng và ít tốn kém. Tuy nhiên, trọng tài vụ
việc cũng có những hạn chế nhất định, hạn chế lớn nhất là phải phụ thuộc


13

hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có thiện chí quá
trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn và nhiều khi không thể thành lập
được Hội đồng Trọng tài, bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng.

Mặt khác trong quá trình tố tụng cũng không có tổ chức nào giám sát nên kết
quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá
trình tố tụng của các trọng tài viên. Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ
hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức Trọng tài thường
trực trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường
hợp các trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ mà các
bên có thể nhận được là chỉ là sự hỗ trợ từ các các cơ quan thực hiện quyền
tư pháp
● Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế) Khác với trọng tài Ad
hoc, trọng tài quy chế là loại trọng tài được thành lập và hoạt động thường
xuyên, có trụ sở cố định và có cơ chế hoạt động rõ ràng.. Ở các nước trên thế
giới, trọng tài thường được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như các
trung tâm trọng tài (Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore- SIAC, Trung tâm
trọng tài quốc tế Hồng Kông- HIAC …) các hiệp hội trọng tài ( Hiệp hội
trọng tài Hoa kỳ- ICDR (AAA), Hiệp hội trọng tài Nhật Bản- JCAA…) hay
các viện trọng tài (Viện trọng tài Anh Quốc- CIarb, Viện Trọng tài Thụy Sĩ SCAI…) Nhưng phổ biến nhất là được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới
dạng các Trung tâm trọng tài. Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ
bản sau:
- Trung tâm trọng tài là các tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp
nhân, tồn tại độc lập với nhau và không có quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp
dưới. Hoạt động của các trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà
không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước.
- Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng các trung tâm trọng tài
vẫn đặt duới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như:


14


ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và
hoạt động của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy
phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ
trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ
trong việc cuỡng chế thi hành quyết định trọng tài...
- Khác với trọng tài vụ việc không có cơ cấu tổ chức phân thành các
phòng, ban thì tại trung tâm trọng tài có cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành, các
phòng, ban và nhân viên. Trung tâm trọng tài có Ban điều hành và ba thư ký.
Ban điều hành gồm có Chủ tịch, một hoặc các Phó Chủ tịch Trung tâm Trọng
tài và có thể có tổng thư ký Trung tâm Trọng tài do Chủ tịch Trung tâm Trọng
tài cử. Chủ tịch Trung tâm Trọng tài là trọng tài viên (Khoản 4 Điều 27 Luật
Trọng tài Thương mại 2010). Cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm trọng tài
được quy định trong điều lệ hoạt động. Không giống như trọng tài vụ việc khi
kết thúc vụ việc tự động giải thể, hoạt động của trung tâm trọng tài thường
trực, thường xuyên và chỉ chấm dứt hoạt động trong những trường hợp nhất
định theo quy định tại Điều lệ của Trung tâm, bị thu hồi giấy phép thành lập
hoặc giấy đăng ký hoạt động. Trình tự, thủ tục để chấm dứt hoạt động của
trung tâm trọng tài cũng phải tuân thủ quy định của pháp luật.
- Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và đặc
biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức,
hoạt động của trung tâm và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài
thương mại. Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường
dựa trên cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công uớc quốc tế có
liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế
có uy tín. Và tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi
trung tâm trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình,
đồng thời có thể mở rộng hoặc Trong quá trình hoạt động, các trung tâm trọng
tài có quyền mở rộng hoặc thu hẹp lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp
thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng

tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải


15

quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung
tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi
các trọng tài viên của chính trung tâm.
Tóm lại, với những đặc trưng riêng về tổ chức và tố tụng, Trọng tài là
một hình thức giải quyết tranh chấp phi chính phủ nên hoạt động trọng tài
ngoài những ưu điểm vốn có, hình thức trọng tài cũng mang một số nhược
điểm như : Trọng tài không có quyền tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời , triệu tập nhân chứng… Vì vậy, trong quá trình giải quyết tranh
chấp, Trọng tài gặp rất nhiều khó khan, những khó khăn này vượt ra khỏi sự
kiểm soát của Trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của các cơ quan thực hiện
quyền tư pháp. Mặt khác, do phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu
lực bắt buộc thi hành đối với các bên tham gia giải quyết tranh chấp, nên
cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nếu có
sự vi phạm, không trung thực, sai sót từ phía trọng tài. Nếu những vấn đề
này không được đảm bảo thì việc giải quyết tranh chấp khó thành công , làm
giảm hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Vì
vậy, cần phải có sự hỗ trợ cũng như giám sát từ phía các cơ quan Nhà nước
đối với hoạt động trọng tài, góp phần tăng tính hiệu quả và khách quan khi
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
1.2. Khái quát về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp đối với hoạt động của Trọng tài thương mại
1.2.1. Khái quát chung về các cơ quan thực hiện quyền tư pháp
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49-NQ/TW) tiếp tục chỉ ra
hệ thống các cơ quan thực hiện quyền tư pháp mà trọng tâm là Tòa án nhân

dân thực hiện quyền xét xử; Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong
tố tụng hình sự và các cơ quan thi hành án. Phạm vi của luận văn không đi
sâu vào tìm hiểu chi tiết về các vấn đề lý luận về tất cả các cơ quan thực hành
tư pháp đó, mà chỉ tìm hiểu về ba cơ quan thực hiện quyền tư pháp tham gia


16

hỗ trợ hoạt động trọng tài thương mại. Đó là cơ quan tòa án, cơ quan kiểm
sát và cơ quan thi hành án.
- Cơ quan tòa án
Tòa án là là cơ quan xét xử của nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà
nước xét xử các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Tòa án ra bản án,
quyết định buộc các bên đương sự phải thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, bên cạnh tổ chức trọng
tài phi chính phủ thi Tòa thương mại cũng góp phần đáng kể trong việc giải
quyết tranh chấp thương mại. Theo pháp luật của một số nước, tòa thương
mại có thể tồn tại một cách độc lập như một Tòa chuyên trách .Ví dụ tại
Pháp, Tòa thương mại sơ thẩm (Tribunal de Commerce), đây là một tòa khá
đặc biệt vì bắt buộc một bên trong vụ kiện phải là thương nhân. Một tranh
chấp thương mại giữa 2 thương nhân bắt buộc sẽ bị đưa ra Tòa thương mại.
Nếu tranh chấp đó diễn ra giữa một người bình thường kiện một thương nhân
thì nguyên đơn có quyền chọn Tòa thường hoặc Tòa thương mại. Nếu
thương nhân đứng đơn kiện thì bắt buộc vụ án phải được đưa ra xét xử ở Tòa
thương mại. Đây là nguyên tắc đặc trưng của Tòa này5.
Một số nước khác thi thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại
được trao cho Tòa dân sự trên cơ sở không có sự phân biệt giữa tranh chấp
dân sự và tranh chấp kinh tế. Ví dụ Đức không có Tòa thương mại độc lập,
do đó, các tranh chấp về kinh tế, dân sự được giải quyết thông qua hệ thống

Tòa án thông thường. Trong các Tòa án thông thừơng có một bộ phận
chuyên giải quyết các tranh chấp thương mại và dân sự (Tòa dân sự). Hệ
thống tòa thông thường này gồm 4 cấp là Tòa án khu vực,Tòa án liên khu
vực, Tòa án cấp cao của Bang và Tòa án Liên bang về dân sự và hình sự6
.Hàn Quốc cũng không có sự phân biệt giữa tố tụng dân sự với tố tụng
thương mại. Các tranh chấp kinh tế, đầu tư, kinh doanh, thương mại, vì thế,
5

Ban biên tập (2012) , “Một số vấn đề cơ bản về hệ thống tòa án và pháp luật tố tụng của Cộng hòa Pháp”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, (15), tr.32.
6

Nguyễn Văn Giàu, Nguyễn Văn phúc, Nguyễn Đình Cung (Chủ biên 2016), “Thể chế pháp luật kinh tế
một số quốc gia trên thế giới : sách chuyên khảo”, Nxb Tài Chính, Hà Nội, tr.297.


17

cũng được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự thông thường và tuân theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Korean Civil Procedure Code) năm
1960 (sửa đổi, bổ sung gần nhất vào năm 2011).7
Pháp luật trọng tài thương mại các nước đều quy định, khi một phán
quyết của trọng tài thương mại có hiệu lực pháp luật thì các bên phải thi hành
phán quyết đó, trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành thì có
quyền yêu cầu tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
thương mại. Các quốc gia có pháp luật trọng tài thương mại phát triển đều
thiết lập cơ chế hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Theo pháp luật Việt Nam, Tòa án là cơ quan xét xử của nhà nước,
nhân danh quyền lực Nhà nước xét xử các tranh chấp phát sinh trong đời
sống xã hội. Tòa án ra bản án, quyết định buộc các bên đương sự phải thực

hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Điều 102 Hiến pháp 2013
quy định như sau: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” . Trong hoạt động xét xử,
tòa án phải dựa trên các nguyên tắc xét xử cơ bản như: Việc xét xử sơ thẩm
của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm; Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc
biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người
chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương
sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và
quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn ; Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được bảo đảm. ; Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự được bảo đảm.(Điều 102 Hiến pháp 2013).
Điều 7 Luật Trọng tài Thương mại 2010 xác định tòa án có thẩm
quyền đối với hoạt động trọng tài thương mại thương mại là Tòa án nhân dân
7

Nguyễn Văn Giàu, Nguyễn Văn phúc, Nguyễn Đình Cung, tlđd chú thích 9, tr.393


18

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được các bên lựa chọn . Tuy nhiên,
việc giải quyết các tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền của Tòa
Kinh tế - Tòa án chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân tỉnh. Bởi vì,
xuất phát từ tính chất của vụ tranh chấp được trọng tài giải quyết là tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà các bên tranh chấp là cá nhân
kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Và hoạt động thương mại được định

nghĩa trong luật thương mại là “ hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.….” (Khoản 1, Điều 3 LTM 2005) . Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định Tòa kinh tế có thẩm quyền giải
quyết: Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh
doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài; Yêu cầu liên quan đến việc
Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp
luật về Trọng tài thương mại. (Khoản 2, 5 Điều 31) . Các quy định này cơ sở
pháp lý quan trọng để Trọng tài và các đương sự yêu cầu Tòa án hỗ trợ khi
cần thiết.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định chỉ có tòa kinh tế với thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp có tính chất tương tự như Trọng tài mới tham gia
hỗ trợ hoạt động trọng tài .Còn các tòa án khác như: Tòa hình sự, tòa dân sự,
tòa lao động, tòa hành chính không tham gia vào hoạt động hỗ trợ này, vì
hoạt động của các Tòa trên khác cơ bản so với hoạt động giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại
- Cơ quan thi hành án
Cơ quan thi hành án là cơ quan Nhà nước, có trách nhiệm đưa các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các cơ quan Tài phán
khác vào thực tế thông qua việc thi hành án. Hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự một mặt đảm bảo việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể
hiện sự tôn trọng của xã hội, công dân đối với phán quyết của tòa án, trọng


19

tài, mặt khác là công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong xã hội 8.
Đối với trọng tài thương mại, Điều 8 Luật Trọng tài Thương mại 2010
xác định cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài,

quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Trọng tài là Cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài
ra phán quyết hoặc nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng . Như
vậy, hoạt động hỗ trợ của cơ quan thi hành án đối với trọng tài là hoạt động
hỗ trợ trọng tài trong việc thi hành phán quyết trọng tài, áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Trọng tài.
Việc cơ quan thi hành án hỗ trợ hoạt động của trọng tài có vai trò quan
trọng, vì phán quyết của trọng tài có công bằng, chính xác đến đâu, nhưng
nếu không được bảo vệ và đảm bảo thi hành thì quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên không được bảo vệ, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín của
trọng tài9.
- Cơ quan kiểm sát
Căn cứ theo khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013: Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;Viện kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
ngày 24/11/2014, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện Kiểm sát hoạt động tư
pháp để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận
và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc
8

Nguyễn Công Bình ( Chủ biên 2011), Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, tr.75.
9

Phan Chân Nhân (2012) , Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại theo

Luật Trọng tài thương mại 2010, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại Học luật Hà Nội, Hà Nội, tr.38.


20

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi
hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt
động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. (Khoản 1, Điều 4). Luật
Trọng tài Thương mại 2010 đã đề cập vai trò của Viện Kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài đang thụ lý giải quyết vụ tranh chấp trong
việc hỗ giám sát hoạt động hỗ trợ của Tòa án đối với Hội đồng trọng tài
trong việc thu thập chứng cứ (Điều 46); triệu tập người làm chứng (Điều 47)
và khi Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (Điều 71). Như vậy,
Việm kiểm sát không kiểm tra, giám sát trực tiếp hoạt động của trọng tài mà
chỉ kiểm tra, giám sát hoạt động hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài. Điều này
thể hiện đúng bản chất của hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan kiểm sát
cũng như không làm mất đi bản chất của Trọng tài . Trọng tài vẫn là tổ chức
giải quyết các tranh chấp có tính chất “quyền lực tư”, thể hiện ý chí tự định
đoạt tối đa của các đương sự mà không bị sự can thiệp quá sâu của các cơ
quan Nhà nước nói chung và cơ quan kiểm sát nói riêng.10
Như vậy, các cơ quan thực hiện quyền tư pháp tham gia hỗ trợ trọng tài
theo Pháp luật hiện hành bao gồm: Cơ quan Tòa án, cơ quan Kiểm soát và cơ
quan thi hành án. Tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan
đó mà pháp luật có quy định sự hỗ trợ khác nhau đối với hoạt động trọng tài.
Sự trợ giúp của các cơ quan này đã giúp cho hoạt động trọng tài có sự chuyển
biến tích cực; góp phần đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân, ổn
định và lành mạnh môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam
1.2.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hỗ trợ của các cơ quan thực
hiện quyền tư pháp đối với hoạt động của trọng tài
Hoạt động trọng tài luôn cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước

nói chung và các cơ quan thực hiện quyền tư pháp nói riêng. Điều đó xuất
phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn sau :
● Cơ sở lý luận
10

Nguyễn Thị Yến (2005) , “Sự hỗ trợ của cơ quan Tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại”,
Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội tr.19


×