1
LỜI NÓI ĐẦU
Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Chính vì vậy
mà trong lịch sử xã hội loài người, đất đai luôn là nguyên nhân của các cuộc đầu
tranh quyết liệt giữa con người với thiên nhiên và con người với con người.
Dưới góc độ chính trị pháp lý, đất đai là một bộ phận không thể tách rời
của lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ quyền quốc gia. Điều 17 Hiến pháp Việt
Nam 1992 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà Nước thống nhất quản
lý. Bằng các công cụ và phương tiện của mình, Nhà nước từng bước củng cố,
bảo vệ quyền sở hữu của mình đối với đất đai bằng việc ban hành hàng loạt văn
bản pháp luật điều chỉnh quan hệ đất đai, nhằm đưa việc quản lý, sử dụng đất đai
vào khuôn phép.
Tuy những năm gần đây Đảng và Nhà Nước Việt Nam đã có những chủ
trương, chính sách, chấn chỉnh lại công tác quản lý đất đai, đồng thời cùng với
sự chuyển mình mới, đất nước Việt Nam gia nhập WTO, yêu cầu sử dụng đất đai
một cách có khoa học và tuân thủ Pháp luật càng trở nên cấp thiết.
Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước Việt Nam càng ngày phải đối mặt với các
Vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất xảy ra một cách phổ biến và
đang có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, những vi phạm pháp luật đất đai của
người sử dụng đất từ trước đến nay chưa được xử lý dứt điểm do các văn bản
quy định còn thiếu,chưa đồng bộ, hơn nữa, một số quy định về thẩm quyền xử lý
vi phạm đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai, nhất là thẩm quyền
của xã, phường, thị trấn còn hạn chế.
. Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của đất đai, trên cơ sở những kiến
thức đã học và tích lũy trong nhà trường cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô
giáo – ThS. Phạm Thu Thuỷ, em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu các quy định về xử
lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất
đai” làm khóa luận tốt nghiệp.
Khóa luận tốt nghiệp
2
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Khóa luận tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về vi phạm hành chính và
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai mà không đặt ra vấn đề
nghiên cứu về vi phạm kỷ luật, vi phạm dân sự hoặc tội phạm đất đai. Việc nhắc
tới những vi phạm này trong khóa luận chỉ nhằm mục đích so sánh, đối chiếu và
phân tích để làm rõ hơn vấn đề vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực sử dụng
đất đai.
Kết cấu và phương nghiên cứu của khóa luận:
- Chương I: Những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm
hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai.
- Chương II: Những quy định của pháp luật hiện hành về vi phạm hành
chính và xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm
pháp luật đất đai.
- Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính đối với người sử dụng đất đai vi phạm pháp luật đất đai.
Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê Nin
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách đất
đai. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong khóa luận là các
phương pháp:
- Phương pháp hệ thống hóa
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- ...
Khóa luận tốt nghiệp
3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ LÝ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI.
1.1.
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI.
1.1.1. Vi phạm pháp luật đất đai.
a. Khái niệm.
Quan hệ đất đai bản chất là một quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế. Trong
quan hệ này có sự tham gia đa dạng và phong phú của các chủ thể, với nhiều
mối quan hệ đan xen, chồng chéo, phức tạp. Để cho các mối quan hệ đó được
bền vững, duy trì, tạo được sự công bằng và diễn ra một cách có hệ thống, cần
phải có cơ chế đảm bảo của pháp luật. Tại Việt Nam, Nhà Nước đã quản lý đất
đai bằng việc ban hành những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hành vi
xử sự của mọi người. Tuy nhiên trong thực tế, rất nhiều người không thực hiện
những quy định do Nhà Nước đặt ra, thậm chí còn làm trái ngược lại với những
quy định đó. Những hành vi này đã làm xâm hại đến trật tự quản lý đất đai, làm
ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị của xã hội. Ví dụ như việc sử dụng
đất không đúng mục đích, lấn chiếm đất... Những hành vi vi phạm pháp luật
đất đai được coi là việc các chủ thể pháp luật thực hiện trái với các yêu cầu của
các quy phạm pháp luật này, gây xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ.
Tóm lại, vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật được thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quyền lợi của Nhà Nước với vai trò
là đại diện cho chủ sở hữu; quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
đai, cũng như các quy định khác trong quản lý sử dụng đất đai.
b. Đặc điểm của vi phạm pháp luật đất đai.
Từ khái niệm về vi phạm pháp luật đất đai ta có thể thấy rõ ràng các đặc
điểm của các hành vi này. Đó là:
Khóa luận tốt nghiệp
4
- Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật đất đai là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng những quy định pháp luật đất đai, xâm hại tới những khách thể
được pháp luật bảo vệ. Hành vi trái pháp luật đất đai thường bao gồm các loại
hành vi như: hành vi không thực hiện những quy định của pháp luật đất đai, ví
dụ: hành vi sử dụng đất sai mục đích, không áp dụng các biện pháp cải tạo, bồi
bổ đất đai; không bồi thường hoặc chậm bồi thường đất đai...hoặc hành vi thực
hiện không đúng những quy định của pháp luật đất đai như: giao đất vượt quá
hạn mức, chuyển nhượng đất trái phép, vi phạm quy hoạch sử dụng đất, hủy
hoại đất... Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật đất đai được thực hiện bằng
hành động hay không hành động, nếu hành vi đó đi ngược lại với các yêu cầu
của pháp luật quy định, có tác hại đến các quan hệ xã hội do Nhà nước quản lý
thì phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Do dấu hiệu hành vi vi phạm pháp luật chỉ là biểu hiện bên ngoài nên để
xác định hành vi đó có phải là vi phạm pháp luật đất đai không, phải xác định
trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Bởi vì có thể do hoàn cảnh
khách quan mà chủ thể không thể ý thức được , từ đó không thể lựa chọn được
cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật hoặc do thực hiện mệnh lệnh khẩn cấp
của Nhà nước thì hành vi đó không thể coi là có lỗi hay vi phạm pháp luật.
- Tính có lỗi.
Lỗi là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người
đó đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình. Vi phạm hành chính của người
sử dụng đất trong lĩnh vực đất đai phải là hành vi có lỗi, thể hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý, nói cách khác, người sử dụng đất khi thực hiện hành vi
phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình đã vô tình thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó hoặc nhận
thức được nhưng vẫn cố tình vi phạm. Nếu xác định được rằng người sử dụng
đất thực hiện hành vi khi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi thì không thể coi là có vi phạm hành chính xảy ra.
Khóa luận tốt nghiệp
5
Tóm lại, khác với căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một hành
vi vi phạm trong các quan hệ xã hội khác phải có các dấu hiệu là : hành vi xác
định của con người, trái với quy định pháp luật, chứa đựng lỗi của chủ thể thực
hiện hành vi và chủ thể đó phải có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý ; có thiệt
hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thì đối
với một hành vi vi phạm pháp luật đất đai, trong đa số trường hợp chỉ cần 2
dấu hiệu là hành vi trái pháp luật và có lỗi. Những quy định này đã có tác dụng
ngăn ngừa từ xa các hành vi vi phạm có thể xảy ra, đảm bảo trật tự quản lý đất
đai cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
1.1.2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai.
Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực sử dụng đất là một dạng vi
phạm pháp luật đất đai. Nó có các đặc điểm của một vi phạm pháp luật đất đai.
Ngoài ra, vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai còn có những đặc
điểm riêng giúp phân biệt với vi phạm pháp luật đất đai nói chung.
- Tính xâm hại quy tắc quản lý Nhà nước.
Tính chất và mức độ xâm hại này khác với tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm. Cần phải loại trừ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi
là tội phạm khi xác định hành vi vi phạm hành chính của người sử dụng đất.
- Tính bị xử phạt hành chính.
Dấu hiệu này vừa có tính quy kết, và là một thuộc tính của vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Một người có hành vi trái pháp luật đất
đai, có lỗi thì phải bị xử phạt hành chính. Nếu so với các loại vi phạm pháp luật
đất đai khác thì vi phạm hành chính là loại vi phạm phổ biến nhất.
Từ những nhận định trên, có thể định nghĩa vi phạm hành chính trong
lĩnh vực sử dụng đất đai là những hành vi làm trái với quy định về sử dụng đất
đai nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.1.3. Vi phạm hành chính của người sử dụng đất
a. Khái niệm vi phạm hành chính của người sử dụng đất
Khóa luận tốt nghiệp
6
Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật của khoa Luật thuộc
đại học quốc gia Hà Nội 2001 định nghĩa: “ Vi phạm là một loại sự kiện pháp
lý đặc biệt, đó là hành vi do các chủ thể pháp luật thực hiện trái với các yêu
cầu của quy phạm pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ.”
Theo giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội 2000, vi phạm hành chính được hiểu là: “ hành vi trái pháp luật, có lỗi, do
các cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm
phạm trật tự Nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu xã hội chủ nghĩa,
quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của pháp luật
phải chịu trách nhiệm hành chính”.
Theo Nghị định 182/CP-2004 về xử phạt vi phạm hành chính thì vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được chia làm 2 trường hợp:
- Các vi phạm hành chính trong sử dụng đất
- Các vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về đất đai.
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai mà
không nghiên cứu các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về
đất đai.
Điều 2 Nghị định 182/CP-2004 đã xác định đối tượng điều chỉnh là các
cá nhân, tổ chức của Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có hành vi vi
phạm hành chính về sử dụng đất trên lãnh thổ Việt Nam. Khái niệm người sử
dụng đất trong quan hệ đất đai bao gồm: các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trong nước, các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước
ngoài có nhu cầu sử dụng đất tại Việt Nam. Như vậy, có thể hiểu người sử dụng
đất là người có quyền sử dụng đất hợp pháp. Quyền này được hình thành thông
qua việc được nhà nước trực tiếp giao đất hoặc cho thuê đất để sử dụng hoặc
xác lập bởi các giao dịch đất đai nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê
đất hay nhận thừa kế quyền sử dụng đất... Trong quá trình khai thác, sử dụng
Khóa luận tốt nghiệp
7
tài nguyên đất, người sử dụng bằng nhiều cách thức khác nhau đã gây nên
những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tuy nhiên, thiệt hại không lớn, có thể
khắc phục được, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm Hình sự. Những
người đó phải chịu trách nhiệm hành chính về hành vi của mình.
Như vậy, có thể định nghĩa chung về vi phạm hành chính của người sử
dụng đất: “ vi phạm hành chính của người sử dụng đất trong lĩnh vực đất đai
là hành vi cố ý hoặc vô ý của người sử dụng đất vi phạm các quy định của
pháp luật đất đai mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính.”
b. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là một loại vi phạm pháp luật
nên trước hết nó có những đặc điểm của vi phạm pháp luật nói chung. Đó là có
hành vi vi phạm pháp luật đất đai, có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi, có hậu
quả xảy ra trên thực tế và mối quan hệ giữa hậu quả và hành vi.
Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung nhất đó, vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai cũng có những đặc điểm riêng khác, nhờ đó giúp phân
biệt với các vi phạm khác.
Các đặc điểm cơ bản của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có
thể kể ra là:
Thứ nhất là, vi phạm hành chính của người sử dụng đất là hành vi vi
phạm chế độ quản lý và sử dụng các loại đất. Đất đai được ví như vàng, có ý
nghĩa về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, vì vậy cần phải có sự quản lý. Nhà nước
là người đại diện cho nhân dân có quyền đặt ra chế độ quản lý và sử dụng các
loại đất. Việc này giúp cho tài nguyên đất được sử dụng hiệu quả, luôn được
cải tạo, bồi bổ. Việc một hành vi làm xâm hại đến chế độ quản lý và sử dụng
các loại đất sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia, cũng như gây tác
động xấu đến nguồn tài nguyên đất. Vì vậy, mọi hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực sử dụng đất đai dưới mọi hình thức đều vi phạm chế độ quản lý
và sử dụng các loại đất của Nhà nước và phải chịu chế tài xử lý.
Khóa luận tốt nghiệp
8
Thứ hai là, mức độ nguy hiểm của hành vi và hạn chế có thể ngăn chặn
hoặc giảm bớt được. Đây là điểm khác biệt rõ nét của vi phạm hành chính của
người sử dụng đất so với tội phạm đất đai. Hành vi bị truy cứu vi phạm hành
chính đất đai có mức độ nguy hiểm thấp hơn nhiều so với tội phạm đất đai.
Đồng thời, thiệt hại do hành vi này gây ra cũng dễ khắc phục hơn.
Thứ ba là, chế tài xử phạt đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử
dụng đất đai của người sử dụng đất mang tính chất thuyết phục hơn là tính chất
trừng phạt như chế tài đối với tội phạm đất đai (chủ yếu mang tính chất trừng
phạt).
Thứ tư là, việc xử lý vi phạm hành chính trong sử dụng đất của người sử
dụng đất đai do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền thuộc các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Còn đối với tội phạm
đất đai việc xử lý lại do các cơ quan tư pháp là Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện.
Thứ năm là, chủ thể vi phạm là các cá nhân, tổ chức của Việt Nam, cá
nhân, tổ chức ngước ngoài có hành vi vi phạm về sử dụng đất. Trong khi đó thì
với tội phạm đất đai, chủ thể vi phạm chỉ có thể là cá nhân. Điều này giúp
chúng ta phân biệt rõ hai loại vi phạm này.
Như vậy, việc phân biệt rõ vi phạm hành chính của người sử dụng đất
trong lĩnh vực đất đai với các vi phạm khác có ý nghĩa rất quan trọng. Nó góp
phần giúp cơ quan nhà nước thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình,
tránh bỏ lọt tội phạm cũng như không xử lý oan cho người vi phạm chưa tới
mức phạm tội.
1.2.
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC SỬ DỤNG ĐẤT
ĐAI.
1.2.1 Khái niệm xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất.
Khi một tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì về
nguyên tắc Nhà nước buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định.
Hậu quả pháp lý bất lợi mà Nhà nước bắt buộc các tổ chức, cá nhân phải gánh
chịu thể hiện ở việc nhà nước buộc họ thực hiện các biện pháp chế tài đã quy
Khóa luận tốt nghiệp
9
định trong pháp luật. Tương ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật là một hình
thức trách nhiệm pháp lý nhất định. Vì vậy mà tùy theo đối tượng, mức độ, nội
dung, tính chất và điều kiện vi phạm mà truy cứu trách nhiệm với đối tượng
với các hình thức xử lý thích hợp. Theo giáo trình luật đất đai năm 2008 của
trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là việc áp
dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm nhằm mục đích
buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi và hậu quả của
hành vi vi phạm gây ra.”
Hiện nay pháp luật đất đai nước Việt Nam chú trọng đến việc xử lý hành
chính và xử lý kỷ luật nhằm giáo dục, răn đe, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật
mà chưa tới mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong đó xử lý hành chính
được coi là biện pháp nòng cốt. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều văn
bản pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng rằng chỉ những cơ quan nhà nước, nhà
chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể được trao quyền thì mới có quyền
truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân nào đó. Các tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền theo trình tự thủ tục luật định yêu cầu chủ thể bị truy cứu
trách nhiệm giải thích rõ về hành vi vi phạm pháp luật đất đai của mình, theo
đó buộc họ phải chịu những thiệt hại nhất định do hành vi của mình gây ra.
Cũng theo từ điển Luật học, xuất bản năm 1999 của Nxb Từ điển Bách Khoa,
Hà Nội thì “xử phạt vi phạm hành chính là hành vi của cơ quan nhà nước, nhà
chức trách có thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính để xử lý đối với hành vi
vi phạm pháp luật không thuộc phạm vi các tội phạm hình sự đã quy định
trong Bộ luật hình sự và do các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện một cách
cố ý hay vô ý”.
Tóm lại, không nằm ngoài mục đích chung của xử phạt vi phạm hành
chính, xử phạt vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp
luật đất đai chủ yếu chỉ mang tính giáo dục, răn đe, một mặt giúp bảo vệ tài
nguyên đất của quốc gia, một mặt giúp nâng cao ý thức pháp luật trong người
dân. Vì thế có thể khái quát “Xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng
Khóa luận tốt nghiệp
10
đất vi phạm pháp luật đất đai là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm hành
chính, quy định áp dụng các biện pháp trách nhiệm hành chính đối với người
sử dụng đất vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nhằm đảm bảo cho pháp
luật đất đai được thi hành nghiêm chỉnh, nhằm bảo vệ quyền sở hữu toàn dân
đối với đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.”
1.2.2. Đặc điểm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Từ những kết luận trên, ta có thể thấy hoạt động xử lý vi phạm hành
chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật có những đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất là, xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất chỉ
được tiến hành khi có vi phạm hành chính xảy ra. Bước đầu để tiến hành xử lý
đó là xác định có hành vi vi phạm xảy ra không. Những hành vi này được pháp
luật quy định rõ ràng tại điều 3, Nghị định 182/CP/2004. Việc xác định rõ ràng
này giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt hoạt động xử phạt
hành chính của mình.
Theo điều 3, Nghị định 182/CP/2004, các hành vi vi phạm hành chính
bao gồm:
+ Sử dụng đất không đúng mục đích;
+ Lấn chiếm đất;
+ Hủy hoại đất;
+ Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác;
+ Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho đất
hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện
đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai;
+ Tự chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho đối với đất không đủ điều kiện
chuyển quyền sử dụng đất;
+ Cố ý đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử
dụng đất;
Khóa luận tốt nghiệp
11
+ Chậm thực hiện bồi thường;
+ Chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà không được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho phép;
+ Cố ý gây cản trở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất;
+ Không thực hiện đúng thời hạn trả lại đất theo quy định thu hồi đất của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền;
+ Tự tiện đi chuyển làm sai lệch mức chỉ giới quy hoạch sử đất mốc chỉ giới
hành lang an toàn của công trình;
+ Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất.
Thực trạng sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay đã cho thấy một số vi phạm
hành chính điển hình nhất của người sử dụng đất là việc sử dụng đất không
đúng mục đích; lấn, chiếm đất; tự chuyển đổi, chuyển nhượng, tăng cho đối với
đất không đủ điều kiện chuyển quyền sử dụng đất.
Thứ hai là, xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm
pháp luật đất đai là hoạt động cưỡng chế mang tính chất quyền lực Nhà nước.
Là một đặc điểm chung của hoạt động xử lý vi phạm pháp luật nói chung, xuất
phát từ việc Nhà nước buộc các chủ thể vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm
pháp lý đối với những hành vi vi phạm mà các chủ thể này gây ra, việc áp dụng
này là một dạng cưỡng chế nhà nước. Tóm lại, việc xử lý vi phạm hành chính
đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai đã góp phần ngăn chặn,
răn đe kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật đất đai chưa tới mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, góp phần bảo đảm trật tự quản lý Nhà Nước.
Thứ ba là, hoạt động xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng
đất được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính của các cơ quan Nhà
nước, cán bộ Nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động này có thể được tiến hành
qua nhiều giai đoạn, bằng nhiều hành vi khác nhau nhưng kết quả của hoạt
động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt là
căn cứ pháp lý để ghi nhận chính thức vi phạm hành chính đã xảy ra và việc áp
dụng các biện pháp chế tài đã thực hiện.
Khóa luận tốt nghiệp
12
Thứ tư là, hoạt động xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất
vi phạm pháp luật đất đai phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và
tuân theo trình tự, thủ tục hành chính mà không phải là trình tự, thủ tục tư
pháp. Đây là nguyên tắc bắt buộc trong quá trình xử lý vi phạm hành chính.
Việc áp dụng trình tự này đơn giản hơn so với trình tự áp dụng cưỡng chế hình
sự và cưỡng chế kỷ luật.
1.2.3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất.
Tác động của việc xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình khai thác, sử dụng đất; tới quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất. Trong quá trình xử lý vi phạm này, các bên dù
là cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay người sử dụng đất đều cần những
nguyên tắc cơ bản mang tính định hướng cho việc giải quyết vấn đề phát sinh.
Với tầm quan trọng của việc phải có những nguyên tắc định hướng, Đảng và
Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng việc này trong quá trình xây dựng pháp luật
đất đai. Cụ thể, tại Điều 7 Nghị định 182/CP-2004 đã quy định một số quy tắc
cơ bản:
Thứ nhất là, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, đình chỉ và xử
lý kịp thời gắn với trách nhiệm của chính quyền câp cơ sở, với công tác kiểm
tra, thanh tra đất đai. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành
nhanh chóng, triệt để, công minh, mọi hậu quả do hành vi vi phạm hành chính
gây ra phải được khắc phục theo quy định của Nghị định này và quy định của
pháp luật có liên quan.
Thứ hai là, cá nhân, tổ chức bị xử phạt hành chính khi có các hành vi vi
phạm hành chính như sử dụng đất không đúng mục đích; lấn, chiếm đất; hủy
hoại đất; gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác; chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế
chấp, bảo lãnh hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng
thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai... (điều 3 của Nghị
định 182/CP-2004).
Khóa luận tốt nghiệp
13
Thứ ba là, việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm
quyền là Chủ tịch UBND các cấp và thanh tra chuyên ngành về đất đai thực
hiện.
Thứ tư là, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính
một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì bị xử
phạt về từng hành vi vi phạm. Theo thông tư 05/2006/TT-BTNMT ngày
24/05/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của nghị định 182/CP/2004 hướng
dẫn khoản 4 Điều 7 của Nghị định này như sau:
Thứ nhất là nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính
mà hành vi đó bị phạt tiền thì từng hành vi đều bị phạt tiền theo cùng mức phạt
quy định tại Nghị định 182/CP/2004 mà không chia nhỏ số tiền phạt đó cho
từng người.
Thứ hai là một người thực hiện một hành vi vi phạm hành chính mà từng
hành vi đều bị phạt tiền theo mức phạt đối với từng hành vi vi phạm và phải
nộp số tiền tính bằng tổng số tiền phạt của tất cả các hành vi vi phạm.
Thứ ba là không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc
tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ, hoặc vi phạm hành
chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình.
Thứ tư là hình thức xử phạt hành chính được áp dụng độc lập, hình thức
xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng đối với những
hành vi vi phạm hành chính có quy định hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp
khắc phục hậu quả được quy định trong nghị định này trừ trường hợp hết thời
hiệu xử lý vi phạm hành chính.
Thứ năm là hình thức và mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính
chất, mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm hành chính, nhân thân của
người có hành vi vi phạm hành chính, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ,
tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 8,
Điều 9 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Khóa luận tốt nghiệp
14
Thứ sáu là mức phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung
bình của mức xử phạt quy định đối với hành vi đó, nếu vi phạm có tình tiết
giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống mức thấp hơn nhưng không
được quá mức tối thiểu của mức xử phạt, nếu hành vi vi phạm có tình tiết tăng
nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên mức cao hơn, nhưng không được vượt
quá mức tối đa của mức xử phạt.
Qua đây, có thể thấy chính xác các nguyên tắc xử lý vi phạm hanh chính
đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai giúp cho hoạt động của
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cán bộ Nhà nước có thẩm quyền xử phạt
theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đảm bảo tính pháp chế
của Nhà nước thông qua đó khắc phục một số việc lạm quyền, vượt quyền của
các cơ quan chức năng trong quá trình thực thi nhiệm vụ đồng thời đảm bảo sự
công bằng giữa các chủ thể vi phạm là họ đều phải gánh chịu trách nhiệm
tương ứng với hành vi của mình.
CHƯƠNG II
Khóa luận tốt nghiệp
15
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT
VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI.
2.1.1. Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính.
Theo điều 9 Luật Đất đai và Khoản 1 Điều 2 Nghị định 182/CP/2004,
người sử dụng đất đai bao gồm:
Người sử dụng đất là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; cộng đồng dân
cư; cơ sở tôn giáo; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhà nước giao đất cho thuế đất hoặc
công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất hay cho phép
được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam.
Từ các quy định này ta có thể thấy đối tượng có thể bị xử lý vi phạm
hành chính gồm:
- Thứ nhất, tổ chức bị xử lý vi phạm hành chính: bao gồm các tổ chức
trong nước và nước ngoài.
Các tổ chức trong nước gồm: các cơ quan nhà nước; tổ chức chính trị;
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế xã hội; tổ chức sự nghiệp
công; đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính
phủ, được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất,
tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng (Khoản 1 điều 9 Luật Đất Đai) các
tổ chức nước ngoài gồm: tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao và tổ
chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao bao gồm: Cơ quan đại
diện ngoại giao; cơ quan lãnh sự; cơ quan lãnh sự khác của nước ngoài có chức
năng ngoại giao được Chính Phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện thuộc
Khóa luận tốt nghiệp
16
tổ chức của Liên Hợp Quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ được nhà
nước Việt Nam cho thuê đất(Khoản 5 Điều 9 Luật Đất Đai 2003).
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về
đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. (Khoản 7 Điều 9 Luật Đất Đai
2003)
Ngoài ra, còn có các đối tượng sử dụng đất khác là cộng đồng dân cư và
cơ sở tôn giáo:
Cộng đồng dân cư bao gồm: cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên
cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự
có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất
hoặc công nhận quyền sử dụng đất(Khoản 3 Điều 9 Luật Đất Đai 2003).
Cơ sở tôn giáo gồm: chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện,
trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác
của tôn giáo được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao
đất(Khoản 4 Điều 9 Luật Đất Đai 2003)
Những đối tượng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính được pháp luật
liệt kê rất đầy đủ. Đây sẽ là những đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính
nếu có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật đất đai trong quá trình sử
dụng đất mà chưa tới mức bị xử lý về hình sự.
- Thứ hai là Hộ gia đình.
Hộ gia đình là đối tượng bị xử lý hành chính trong sử dụng đất được quy
định tại khoản 2 Điều 9 Luật Đất Đai 2003, mà theo đó là những hộ gia
đình được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng
đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất nếu vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba là cá nhân.
Cá nhân là đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính với tư cách là người sử
dụng đất bao gồm:
Khóa luận tốt nghiệp
17
Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử
dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.(Khoản 2 Điều 9 Luật đất đai 2003).
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư, hoạt động văn hoá,
hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được
Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền
sử dụng đất ở. (Khoản 6 Điều 9 Luật Đất đai 2003).
Cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tư được
Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. (Khoản 7 Điều 9 Luật Đất đai 2003).
Đây là những tiến bộ, đổi mới của Luật đất đai 2003 thông qua việc mở
rộng nội hàm khái niệm người sử dụng đất, công nhận tư cách chủ thể cho một
số đối tượng như: cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo và người Việt Nam định cư
ở nước ngoài được phép mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất. Sau nhiều
năm thực hiện, đến nay, những thành tựu hoàn thiện pháp luật đất đai nay đã
giúp đất nước phát triển mạnh mẽ hơn.
2.1.2. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất
Khác với trách nhiệm Hình sự và trách nhiệm Dân sự được thực hiện bởi
các cơ quan tư pháp là Tòa án Nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất được thực hiện chủ
yếu bởi những người có thẩm quyền trong các cơ quan quản lý nhà nước, đó là:
Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan thanh tra chuyên ngành về đất đai.
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất được phân
định theo mức độ vi phạm của hành vi và mức tiền phạt chính.
a. Thẩm quyền của chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp
Thẩm quyền của chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Mọi sai phạm trong sử dụng đất đều xuất phát từ cấp cơ sở. Do vậy, việc
phát hiện và xử lý kịp thời phụ thuộc rất lớn vào ủy ban nhân dân cấp xã,
phường, thị trấn. Tại Điều 28 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 ngày 2 tháng 4 năm 2008 có quy định:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có quyền:
Khóa luận tốt nghiệp
18
1. Phạt cảnh cáo;
2. Phạt tiền đến 2.000.000 đồng;
3. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
có giá trị đến 2.000.000 đồng;
4. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính gây ra;
5. Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
6. Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và
cây trồng, văn hoá phẩm độc hại;
7. Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Việc quy định thẩm quyền như vậy rất cụ thể và rõ ràng, theo đó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền
đến 2.000.000 đồng. So với Nghị định 182/CP/2004 quy định chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn chỉ được phạt đến 500.000 thì đây là một bước
tiến mới của pháp luật, tạo tiền đề để thay đổi pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai sau này.
Thẩm quyền của chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh
Điều 29 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002 quy định:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có quyền:
1. Phạt cảnh cáo;
2. Phạt tiền đến 30.000.000 đồng;
3. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền;
4. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;
Khóa luận tốt nghiệp
19
5. Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b
và d khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh này;
6. Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;
7. Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền xử phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền lên đến 30.000.000 đồng và áp dụng một số biện pháp hình phạt bổ
sung, biện pháp khắc phục hậu quả, đưa quyết định áp dụng các biện pháp đặc
biệt như đưa vào trường giáo dưỡng hay cơ sở chữa bệnh. Có thể thấy, so với
mức phạt được quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, pháp
luật đã có những đổi mới rõ rệt về mức tiền phạt. Thông qua việc tăng mức
phạt này, pháp luật thể hiện tính thích ứng với thực tế, cũng như nâng cao
quyền hạn cho các cấp chính quyền. Tạo cơ sở pháp lý để sửa đổi nghị định
182/CP/2004 sau này.
Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung Ương:
Điều 30 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Khoản 3 Điều
25 Nghị định 182/CP/2004 quy định:
Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có
quyền:
1. Phạt cảnh cáo;
2. Phạt tiền đến 30.000.000 đồng;
3. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;
4. Buộc khôi phục lại tình trạng của đất trước khi bị vi phạm.
Như vậy, mức phạt tối đa đối với các vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai được thống nhất cao nhất không quá 30.000.000 đồng. Mức phạt tiền
này được áp dụng cho những hành vi vi phạm hành chính của người sử dụng
Khóa luận tốt nghiệp
20
đất có nhiều tình tiết tăng nặng. Ngoài ra, pháp luật có quy định ngoài mức
phạt chính còn có thể được áp dụng một số hình phạt bổ sung, biện pháp khắc
phục hậu quả.
Thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành về đất đai.
Điều 38 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002
ngày 2 tháng 4 năm 2008 quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của
Thanh tra chuyên ngành như sau:
• Thanh tra viên chuyên ngành đang thi hành công vụ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 500.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có
giá trị đến 2.000.000 đồng;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và
d khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh này, trừ biện pháp buộc tháo dỡ công trình
xây dựng trái phép.
• Chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 30.000.000 đồng;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền;
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và
d khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh này.
• Chánh thanh tra chuyên ngành bộ, cơ quan ngang bộ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
Khóa luận tốt nghiệp
21
- Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực thuộc quyền quản lý của mình
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 14 của Pháp lệnh này;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền;
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b và
d khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh này.
• Về mức phạt tiền tối đa đối với lĩnh vực đất đai tại khoản 2 và khoản 3
Điều 14 của pháp lệnh được sửa đổi như sau:
- Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng khoán; xây
dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí và các
loại khoáng sản khác.
- Đối với hành vi vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quản lý nhà
nước chưa được quy định tại khoản 2 Điều này thì Chính phủ quy định mức
phạt tiền, nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng.
Như vậy, có thể thấy mức phạt tối thiểu và mức phạt tối đa quy định tại
pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 ngày 2 tháng 4
năm 2008 có sự khác biệt so với quy định tại Nghị định 182/CP/2004. Nếu
Nghị định 182/CP/2004 quy định mức phạt tối thiểu là 100.000 đồng và tối đa
là 30.000.000 đồng thì nay theo quy định mới tại pháp lệnh sửa đổi bổ sung
pháp lệnh xử lý vi phạt hành chính 2002 ngày 2 tháng 4 năm 2008, mức phạt
tối đa có thể lên tới 500.000.000 đồng. Với những quy định mới này, có khả
năng Nghị định 182/CP/2004 sẽ phải thay đổi trong thời gian tới để phù hợp
với Pháp lệnh mới. Việc thay đổi này nhằm mục đích giảm thiểu tối đa những
vi phạm đất đai từ phía người sử dụng đất đồng thời để mở rộng thẩm quyền
Khóa luận tốt nghiệp
22
của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
đối với người sử dụng đất, nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm đất đai. Mục tiêu
của việc này là nâng cao tác dụng răn đe, giáo dục người vi phạm, thể hiện tinh
thần xử lý cương quyết, triệt để, không bỏ lọt xử lý vi phạm hành chính, lập lại
trất tự, kỷ cương của xã hội.
2.1.3. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với người sử dụng
đất
Với mỗi hành vi vi phạm của người sử dụng đất, Nhà nước sẽ áp dụng
các biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi
phạm đó. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai giúp ngăn ngừa,
trừng phạt những hành vi vi phạm đồng thời giáo dục ý thức pháp luật cho
nhân dân, bảo vệ những quan hệ, những giá trị được pháp luật ghi nhận. Với
nguyên tắc được quán triệt là: mọi vi phạm phải được phát hiện, đình chỉ và xử
lý kịp thời, việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỉ luật và trách nhiệm vật chất
phải được tiến hành nhanh chóng, công minh và triệt để.
Luật đất đai 2003 và pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 đều có
quy định về vấn đề xử lý vi phạm hành chính đối với các đối tượng vi phạm
pháp luật hành chính mà cụ thể là xử lý vi phạm hành chính đối với người sử
dụng đất trong lĩnh vực đất đai. Năm 2004, Chính phủ đã chính thức ban hành
nghị định 182/CP/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai,
có những quy định cụ thể về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với
người sử đụng đất vi phạm pháp luật đất đai. Hiện nay, đã có pháp lệnh sửa đổi
bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính của ủy ban
thường vụ quốc hội ngày 2 tháng 4 năm 2008, mở rộng nhiều thẩm quyền, mức
phạt cho các cấp chính quyền. Theo điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính sửa đổi thì các hình thức xử lý vi phạm hành chính bao gồm: hình thức
xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.
Hình thức xử phạt chính bao gồm: cảnh cáo và phạt tiền.
Khóa luận tốt nghiệp
23
Cảnh cáo: Là hình thức xử phạt chính đối với người sử dụng đất gây ra
vi phạm nhỏ, vi phạm lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. Cần thấy được rằng hình
thức cảnh cáo trong xử phạt hành chính có sự khác biệt với hình thức cảnh cáo
trong Hình sự và hình thức cảnh cáo trong trách nhiệm kỷ luật. Điều 29 Bộ luật
hình sự 1999 đã quy định: Cảnh cáo là hình phạt chính áp dụng đối với tội ít
nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ những chưa tới mức miễn hình
phạt. Hình phạt cảnh cáo do Tòa án quyết định theo trình tự, thủ tục tư pháp
với tội phạm đất đai còn cảnh cáo trong xử phạt hành chính do một số cơ quan
hành chính áp dụng theo thủ tục hành chính. Cảnh cáo trong trách nhiệm kỷ
luật áp dụng đối với cán bộ, công chức vi phạm hành chính bị khiển trách mà
tái phạm hoặc vi phạm ở mức độ nhẹ nhưng khuyết điểm có tính chất thường
xuyên hoặc mới vi phạm lần đầu nhưng tính chất tương đối nghiêm trọng;
Cảnh cáo trong trách nhiệm kỷ luật được lưu trong hồ sơ cá nhân, do đó nó
đóng vai trò khác so với cảnh cáo trong xử phạt vi phạm hành chính đối với
người sử dụng đất.
Phạt tiền: là hình thức phạt chính, khung phạt tiền được quy định từ
mức tối thiểu đến mức tối đa.
Mức phạt tiền tối thiểu được áp dụng trong trường hợp người vi phạm có
những tình tiết giảm nhẹ, ví dụ vi phạm với diện tích nhỏ, khả năng phục hồi
dễ dàng, người vi phạm ít hiểu biết pháp luật, ảnh hưởng của vi phạm không
lớn…
Mức phạt tiền trung bình được áp dụng trong trường hợp người vi phạm
vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ.
Mức phạt tiền tối đa được áp dụng trong các trường hợp người vi phạm
có các tình tiết tăng nặng như: vi phạm với diện tích lớn, khả năng phục hồi đất
khó khăn, tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần, trốn tránh việc chấp hành quyết
định xử phạt hành chính.
Khóa luận tốt nghiệp
24
Hình thức phạt tiền này tác động trực tiếp đến kinh tế của người vi
phạm. Do đó mà nó có tác dụng to lớn trong việc hạn chế những vi phạm hành
chính có thể xẩy ra trong lĩnh vực đất đai.
Hình thức phạt bổ sung bao gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính. Hình thức phạt bổ sung không được áp dụng một cách độc
lập mà bao giờ cũng được áp dụng đồng thời kèm theo một hình phạt chính nào
đó. Hình phạt bổ sung được quy định cụ thể tại khoản 2 điều 6 của nghị định
182/CP/2004.
Biện pháp khắc phục hậu quả: Theo quy định tại khoản 3 Điều 6 của
Nghị định này biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính
về đất đai là buộc khôi phục tình trạng của đất trước khi vi phạm. Biện pháp
khắc phục hậu quả cũng không được áp dụng độc lập mà phải đi kèm cùng một
hình thức xử phạt hành chính trừ trường hợp hết thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính mà hành vi vi phạm hành chính chưa bị xử phạt thì người có thẩm
quyền không thực hiện xử phạt vi phạm hành chính mà áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả.
Người sử dụng đất có hành vi vi phạm hành chính có thể bị phạt cảnh
cáo hoặc bị phạt tiền; đồng thời có thể áp dụng kèm theo các hình phạt bổ sung
hoặc cũng có thể phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại
khoản 3 điều 6 Nghị định 182/CP/2004 nếu có hình thức phạt bổ sung hoặc
biện pháp khắc phục hậu quả tương ứng với hành vi đó.
Tóm lại, Pháp luật đã quy định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực sử dụng đất đai là hoàn chỉnh, tương đối chặt chẽ và cụ thể. Dựa
trên những cơ sở này, các cơ quan Nhà nước sẽ xử lý được các vi phạm hành
chính một cách nghiêm minh.
2.2. CÁC HÀNH VI VI PHẠM VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
Khóa luận tốt nghiệp
25
Vi phạm pháp luật đất đai có thể đến từ nhiều phía và từ nhiều chủ thể
khác nhau. Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm hành chính của người
sử dụng đất có xu hướng gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, số lượng vi
phạm nhiều, các vi phạm mới được phát hiện với tính chất nguy hiểm hơn
trước. Vi phạm đất đai diễn ra phổ biến hơn trên tất cả các tỉnh, thành phố của
cả nước. Vì vậy, việc xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi
phạm pháp luật đất đai là một trong những công tác quan trọng trong hoạt động
quản lý nhà nước, nhằm xác lập lại và đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý,
sử dụng đất. Việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng
pháp luật những hành vi vi phạm hành chính của người sử dụng đất trong giai
đoạn hiện nay là nhiệm vụ rất phức tạp, nặng nề của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Tại nghị định 182/CP/2004, pháp luật quy định 13 hành vi vi phạm hành
chính trong sử dụng đất phải xử phạt hành chính. Mỗi hành vi vi phạm hành
chính từ phía người sử dụng đất đều để lại những hậu quả, dù lớn dù nhỏ. Hậu
quả nhỏ như diện tích đất vi phạm nhỏ, khả năng phục hồi đất dễ dàng, ảnh
hưởng của vi phạm không lớn. Hậu quả lớn là diện tích đất vi phạm lớn, vi
phạm gây thiệt hại về giá trị đất lớn, khả năng phục hồi đất khó khăn. Những
hành vi vi phạm hành chính này đều bị xử phạt hành chính. Do đó, để áp dụng
các hình thức và mức xử phạt tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi vi phạm, pháp luật đã quy định cụ thể về cách xác định hậu quả của
hành vi vi phạm hành chính như sau:
Mức độ hậu quả của hành vi vi phạm hành chính được xác định theo 4
mức như sau:
Mức một: Trường hợp giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị
vi phạm quy đổi thành tiền dưới hai triệu(2.000.000) đồng đối với đất Nông
nghiệp, dưới mười triệu đồng(10.000.000) đồng đối với đất phi Nông nghiệp.
Khóa luận tốt nghiệp