MỞ ĐẦU
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa ra
một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà
nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không
trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương
mại, ...). Là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Các Tòa
án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử.
Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không một ai có thể bị buộc
tội mà không qua xét xử của các tòa án. Phán quyết của tòa án ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
Do đó yêu cầu đòi hỏi trong quá trình xét xử chính là sự độc lập, khách quan, công
bằng, toàn diện, đúng người đúng tội. Chính vì vậy để thực hiện tốt những yêu cầu
đó thì khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Đây cũng là một trong nhiều nguyên tắc được quy định trong Hiến Pháp 2013
của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2013, cũng như pháp luật Tố tụng chuyên ngành khác. Tuy nhiên việc áp dụng
nguyên tắc này trên thực tế có được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để hay
không thì bài viết dưới đây em xin đi: “Phân tích và trình bày những vấn đề cơ
bản của nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.”
1
NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về nguyên tắc “ Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”
1.1. Quá trình hình thành và cơ sở của nguyên tắc
Xuất phát từ vị trí, vai trò của tòa án trong bộ máy nhà nước. Là cơ quan trong hệ
thống tư pháp, tòa án có những đặc thù so với các cơ quan khác trong hệ thống.
Tòa án là người đại diện của quyền lực tư pháp khác với cơ quan lập pháp và hành
pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính sách
kinh tế- xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề rất cụ tể, từng tình huống,
từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử
của tòa án. Hoạt động xét xử của tòa án là một hoạt động khó khăn, phức tạp, đòi
hỏi độ chính xác cao. Do đó, nguyên tắc này được đặt ra nhằm đảm bảo không ai
có thể can thiệp vào công việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong
quá trình xét xử.
()
Nguyên tắc: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xác định là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận trong các bản Hiến
pháp cũng như được thể chế trong các đạo luật về tổ chức Tòa án - cơ quan xét xử,
cũng như các đạo luật về tố tụng của Nhà nước Việt Nam. Ngay từ bản Hiến pháp
đầu tiên của nền dân chủ cộng hòa - Hiến pháp năm 1946, thì Điều 69 đã trang
trọng ghi nhận: "Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các
cơ quan khác không được can thiệp". Hiến pháp năm 1959, nguyên tắc này được
quy định ở Điều 100: "Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật". Hiến pháp năm 1980 ghi nhận ở Điều 131: "Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Đến Hiến pháp
2
năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) thì nguyên tắc này được ghi nhận
ở Điều 130: "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật". Sau quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc, Hiến pháp năm 2013
đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp đồng thời, tiếp thu
những tư tưởng mới về Nhà nước pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi
mới và hội nhập của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay và đã hoàn thiện hơn về
nguyên tắc - Khoản 2, Điều 103:” Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm.”
Nguyên tắc này không chỉ quy định tại Hiến pháp mà nguyên tăc này còn được
quy định trong Luật Tổ chức Tòa án và các đạo luật tố tụng.
1.2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc.
Ngay từ quy đinh của pháp luật ta cũng thấy rõ nguyên tắc được chia làm 2 nội
dung cơ bản đó là: Nội dung 1: Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và nội dung
còn lại là Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật.
* Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
Sự độc lập của Thẩm phán và Hội Thẩm thể hiện ở hai góc độ:
Độc lập với yếu tố bên ngoài: Khi tham gia xét xử vụ án hình sự hay các vụ việc
dân sự thì Thẩm phán và Hội thẩm phải xét xử , giải quyết vụ việc, vụ án dựa trên
hồ sơ, tài liệu do cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát cung cấp hay dựa trên yêu cầu
của những người tham gia tố tụng, tuy nhiên hoạt động xét xử của Thẩm phán và
Hội thẩm tại phiên tòa không phụ thuộc vào bất kì chủ thể nào, tài liệu, chứng cứ,
hồ sơ... của cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát cũng chỉ là căn cứ giúp cho hoạt động
xét xử khách quan, minh bạch hơn. Còn việc đưa ra các quyết định của Tòa án
hoàn toàn phụ thuộc vào những quy định pháp luật và đưa ra kết quả xét xử theo ý
mình.
Độc lập với yếu tố bên trong: là sự độc lập giữa các tòa án với nhau, tòa án
Thẩm phán, Hội thẩm công tác phải độc lập với các tòa án khác. Chánh án với tư
cách là người lãnh đạo tòa án không có quyền can thiệp, chỉ đạo, gây sức ép với
3
họ. Tòa án cấp trên không có quyền chỉ đạo, tòa án cấp dưới làm theo yêu cầu của
mình trong hoạt động xét xử, giải quyết vụ việc. Bên cạnh đó thì chính Thẩm phán
vầ Hội Thẩm cũng độc lập với nhau trong đánh giá chứng cứ, xem xét, trình bày
quan điểm và biểu quyết của họ là như nhau, không ai phụ thuộc ai.
* Thẩm phán, Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật.
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung được nhà nước ban hành, thừa nhận và bắt
buộc phải thực hiện với mọi chủ thể. Chính vì vậy trong mọi hoạt động, ngay cả
hoạt động xét xử thì Thẩm phán, Hội thẩm cũng phải dựa trên những quy định của
pháp luật để đưa ra một quyết định đúng đắn, hợp pháp. Nếu như Thẩm phán và
Hội thẩm ra một quyết định trái với pháp luật thì quyết định đó sẽ bị hủy bỏ ngay
và có thể Thẩm phán, Hội thẩm sẽ phải chịu những biện pháp cưỡng chế của nhà
nước cho quyết định sai đó.
II. Ý nghĩa của nguyên tắc “ Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.”
Nguyên tắc này đống vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án
và nó cũng mang một ý nghĩa to lớn không chỉ cho hoạt động xét xử mà còn trong
nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ nhất, Độc lập trong xét xử là một trong những nguyên tắc đặc thù của ngành
luật tố tụng và mang tính chất riêng trong tố tụng nước ta. Đây là nguyên tắc cơ
bản quy định cho mọi thủ tục tố tụng, tuy nhiên trong mỗi thủ tục của mỗi ngành
luật khác nhau thì nguyên tắc này được thể hiện khác nhau. Trong Tố tụng Dân sự
thì nguyên tắc này tương đối mềm dẻo. Khi hai đương sự có lợi ích bị xâm phạm
quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình khi đương sự khởi kiện thì mọi hành vi tố tụng tiếp theo do đương
sự quyết định. Tòa án chỉ giải quyết những gì mà đương sự yêu cầu, mặc dù tóa án
giữ vai trò chủ động trong xét xử, chính vì vậy trong tố tụng dân thì nguyên tắc
không được áp dụng triệt để.
Trong tố tụng hình sự giai đoạn xét xử là giai đoạn quyết định tới lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức xã hội, cá nhân nên được coi là hoạt động
4
trung tâm của tố tụng. Chính vì vậy việc áp dụng các nguyên tắc trong xét xử phải
được đảm bảo tối ưu. Khi xét xử thì Thẩm phán và Hội sẽ dựa trên hồ sơ, tài liệu,
văn bản khác liên quan đên vụ án nhằm đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Quyết
định này hoàn toàn phù hợp với pháp luật và theo ý chí của các chủ thể có thẩm
quyền là Thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ hai, Ý nghĩa chính trị, xã hội, Nguyên tắc đã xác định vai trò, vị trí của cơ
quanTòa án trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố
tụng nói riêng.Tòa án là có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp, chỉ có tòa án
mới có chức năng xét xử và khi thực hiện chức năng xét xử tòa án hoàn toàn độc
lập với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Nguyên tắc này còn đảm bảo tính
khách quan công bằng trong xã hội. Mọi cá nhân, chủ thể ở vị trí nào, nếu vi phạm
pháp luật thì đều bị xét xử như nhau. Bên cạnh đó việc xét xử độc lập, công bằng
cũng mang ý nghĩa quan trọng là đảm bảo cho hoạt động đầu tư kinh doanh được
ổn định, lành mạnh. Nguyên tắc cũng góp phần giải quyết những bức xúc của nhân
dân về tình trạng lạm quyền, lộng quyền của các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền.
Thứ ba, ý nghĩa pháp lý, nguyên tắc là cơ sở để Thẩm phán và Hội thẩm hoạt động
xét xử khách quan, trung thực, là cơ sở đảm bảo thực hiện Hiến pháp và pháp luật
nghiêm khắc của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan Nhà nước
khác.
Thứ tư, Ý nghĩa thực tiễn, nguyên tắc góp phần giúp cho việc giải quyết các vụ
việc vụ án diễn ra công bằng, minh bạch, là cơ sở để các Thẩm phán và Hội thẩm
đưa ra những bản án đúng người đúng tội, tạo niềm tin cho nhân dân.
Chính nguyên tắc xét xử độc lập này không những góp phần giúp Tòa án thực hiện
đúng chức năng, quyền hạn của mình mà góp phần giảm thiểu tình trạng lạm
quyền, lộng quyền của các chủ thể quyền lực.
III. Thực trạng việc thực hiện, áp dụng nguyên tắc ở nước ta hiện nay
3.1. Những bất cập và nguyên nhân trongviệc thực hiên, áp dụng nguyên tắc
trên thực tế
5
Trên thực tế nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp
luật được các chủ thể hoạt động xét xử thực hiện đúng vai trò và ý nghĩa của
nó.Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những biểu hiện tiêu cực, ảnh hưởng đến chất
lượng xét xử, xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân, gây dư luận xấu và bất
bình trong quần chúng nhân dân.
Thứ nhất, Hoạt động xét xử chủ yếu là do Thẩm phán còn Hội thẩm không phát
huy hết quyền năng của mình. Theo quy định của pháp luật thì vị trí vai trò của Hội
thẩm chỉ phát sinh từ thời điểm Chánh án phân công và tòa án có quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Và từ thời điểm này thì Hội thểm sẽ có quyền xem xét và nghiên
cứu hồ sơ để xác định thẩm quyền xét xử, các hành vi phạm tội và các tình tiết liên
quan ( trong tố tụng hình sự). Song đối với một số vụ án không phức tạp thì Hội
thẩm chỉ nghiên cứu hồ sơ trước một ngày khi phiên tòa được mở, dẫn đến tình
trạng Hội thẩm không thể nắm bắt hết được các tình tiết của vụ án và dẫn đến việc
đưa ra quyết đinh cho bản án sẽ thường là theo ý chí của Thẩm phán. Hiện nay
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các Hội thẩm không được đào tạo chuyên sâu
mà thường là hình thức nên cũng phần nào họ bị phụ thuộc vào Thẩm phán và việc
có Hội thẩm tham gia xét xử đôi khi cũng chỉ là hình thức để thể hiện tính dân chủ,
mà trong phiên tòa đó Hội thẩm gần như không thể hiện quyền hạn của mình một
cách rõ ràng. Chính vì việc nghiên cứu hồ sơ gấp rút của Hội thẩm dẫn tới trong
quá trình xét hỏi thì Thẩm phán sẽ giữ vai trò “ độc diễn” mà dường nhưn không
thấy những câu hỏi từ Hội thẩm.
Thứ hai, Việc xét xử của Tòa án và kết quả của vụ án gần như phụ thuộc vào
những kết quả điều tra của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát...Như chúng ta đã biết
thì Tòa án nước ta không có chức năng điều tra, xây dựng hồ sơ nên trong nhiều vụ
án Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra nên đưa ra những câu hỏi áp đặt cho
người bị buộc tội phải trả lời theo đúng lời khai như trước đó.Nhiều vụ án Thẩm
phán và Hội thẩm quá tin theo kết quả điều tra mà đưa ra kết quả không đúng đắn,
phù hợp.
6
Thứ ba, Hoạt động xét xử của tòa án bị ảnh hưởng bởi nhiều tố bên ngoài. Về mặt
lý thuyết thì các cơ quan sẽ độc lập với hoạt động xét xử và không ai được can
thiệp vào hoạt động xét xử. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nhiều Chánh án đã
can thiệp cụ thể vào việc xét xử thông qua hoạt động họp bản án, lạm dụng sự chỉ
đạo để tác động trái pháp luật vào hoạt động xét xử. Ngoài ra còn có sự ảnh hưởng
từ chỉ đạo của cấp Uỷ đảng từ những ý kiến lãnh đạo địa phương, lãnh đạo ngành.
Ngoài ra chính dư luận cũng là sức ép mà khiến cho việc áp dụng nguyên tắc
không còn đúng đắn. Trong một số vụ án đáng lẽ tòa án nên đưa ra một mức án
phù hợp với tội phạm đó nhưng do sức ép của nhân dân mà có thể họ phải giảm
mưc án đó thấp hơn mức án phù hợp với quy định pháp luật.
3.2. Một số giải pháp nâng cao tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
Thứ nhất, ( )Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn Hội thẩm theo
hướng quy định người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm cần phải có trình độ pháp
lý nhất định, ví dụ phải có bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn về pháp lý hoặc phải
trải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật có thời hạn; đồng thời Tòa án cần phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, tập
huấn cho Hội thẩm. Bên cạnh đó, cần có những thay đổi trong quy định của pháp
luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính để hoàn thiện cơ chế
hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ hai, Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để
đảm bảo hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, cần làm tốt công tác bồi
dưỡng thường xuyên cho Thẩm phán để họ nâng cao về kiến thức, kỹ năng, đạo
đức nghề nghiệp và cập nhật kiến thức mới ở trong và ngoài nước.
Về trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân. Để Hội thẩm nhân dân thật sự
phát huy được vai trò của mình, cần phải cung cấp kịp thời những thông tin về hoạt
động xét xử cũng như các kiến thức pháp luật cho Hội thẩm. Tổ chức các đợt tập
7
huấn dài hạn hoặc ngắn hạn kết hợp với kỹ năng xét xử. Mặt khác, ngành Tòa án
cũng cần quản lý một cách chặt chẽ hơn đối với đội ngũ Hội thẩm nhân dân.
Thứ ba, Giải pháp trau dồi đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm,
Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất của người Thẩm phán là điểm đặc biệt
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thực tiễn của nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ta thấy năng lực xét xử và
đạo đức phẩm chất trong sáng không thể tách rời nhau trong con người của thẩm
phán và Hội thẩm. Có năng lực thì đạo đức mới được phát huy, có đạo đức thì năng
lực mới giữ vững phẩm chất trong sạch. Một yếu tố quan trọng nữa là, nếu thẩm
phán chỉ có trình độ nghiệp vụ cao nhưng không có đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp chỉ trở thành những phán quan độc tài, vô cảm, không thể bảo vệ được công
lý. Ngược lại các thẩm phán chỉ có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp
thì họ dễ có thể bị cám dỗ về chất làm mất lòng tin của dân vào Đảng, giảm uy tín
chất lượng độc lập của các thẩm phán trong hoạt động xét xử, khó có thể trở thành
những thẩm phán đủ mạnh và độc lập thực sự, kiên định với Hiến định, “phụng
công, thủ pháp”, chí công vô tư. Chính vì vậy, ngành Tòa án cũng cần xem xét về
các tiêu chí để xây dựng nên một quy chế về đạo đức cho người Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân, trong đó quy định về những ứng xử mà Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân phải làm.
Thứ tư, (2)Cần xây dựng quy chế quản lý, giám sát đối với Thẩm phán và Hội thẩm
trong việc thực thi nhiệm vụ, nếu áp dụng không đúng các quy định của pháp luật
cần phải có biện pháp chế tài hành chính cụ thể nhằm tránh áp dụng pháp luật một
cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội thẩm.
Tóm lại để phát huy tốt được nguyên tắc này thì mục tiêu cao nhất chính là Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đây không
chỉ là mục tiêu mà còn là một nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và lâu dài của hệ thống
chính trị.
8
KẾT LUẬN
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm tham gia xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật là quan trọng cần thiết trong hoạt động của tòa án, là nguyên tắc đảm bào pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong pháp luật Tố tụng. Cả yếu tố ”độc lập” và yếu tố “tuân
theo pháp luật” đều là điều kiện, cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm đưa ra
những quyết định khách quan, công bằng, chính xác. Nhưng muốn thực hiện tốt
nguyên tắc này, cũng như hoàn thành ý nghĩa, mục đích mà nó hướng tới thì hiện
nay nhà nước Việt Nam còn phải hoàn chỉnh hơn không những về hệ thống pháp
luật và phải hoàn thiện hơn về nhiều yếu tố khác liên quan, nhưng cơ bản trước
mắt là hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành để làm cơ sở chuẩn mực, vững chắc
để phát huy và hoàn chỉnh công tác thực hiện nguyên tắc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật tổ chức Tòa án Nhân dân 2013.
2. Bình luận Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 của TS. Trần Văn Biên - TS. Đình
Thế Hưng (Đồng chủ biên) 3.Bình Luận Khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, NXB Chính Trị Quốc
Gia - Sự Thật Hà Nội 2012
4. />9
5. />6. />
10