Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

KTCT vai trò quản lí của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.04 KB, 44 trang )

kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI NÓI ĐẦU.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế; bất kỳ một quốc gia nào cũng vậy để đạt
được trình độ một nước phát triển đều phải trải qua những giai đoạn có tính tất
yếu lịch sử. Đó là công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Trên thế giới đã có
nhiều nước có thể nói là đã hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá; bên cạnh đó
vẫn còn rất nhiều nước đang tiến hành, mà trong đó có Việt Nam.Trong các giai
đoạn lịch sử phát triển của xã hội, công nghiệp hoá ở những nước khác nhau có
sự khác nhau về nhiều mặt: Mô hình, thời gian thực hiện. . . do đó có sự khác
nhau về ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế, xã hội. Ơ nước ta có thể nói đã
bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá từ những năm 1960 theo đường lối do đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng đề ra. Cho đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp
tục; nhưng hoàn cảnh, điều kiện quốc tế và trong nước, trình độ phát triển kinh
tế nước ta hiện nay khác nhiều so
với những năm 1960. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn phải giải
quyết như công nghiệp hoá có còn là tất yếu khách quan nữa không? Đánh giá
như thế nào về thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta những năm
qua? Mục tiêu phấn đấu, mô hình, nội dung công nghiệp hoá gắn với hiện đạI
hoá ở nước ta hiện nay như thế nào?
Trong vòng mười năm, kể từ ngày đổi mới đến nay đã thu được nhiều kết quả
và thành tựu đáng khích lệ.Trong đó yếu tố mang tính chất quyết định chính là
vai trò rất quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nhà nước là người hoạch định ra
các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế; phát huy tối đa những mặt tích cực,
hạn chế tối thiểu những hạn chế, tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Mà quan
trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân đã chọn.Đây cũng chính là điểm khác
nhau cơ bản giữa cơ chế thị trường ở nước ta và những nước khác.
Tuy Đảng và Nhà nước đã rất cố gắng trong vai trò qoản lý, điều tiết nền kinh
tế vĩ mô nhưng vẫn vấp phải những sai lầm, hạn chế. Đó là sự cồng kềnh của bộ
-1-



kinh tÕ chÝnh trÞ
máy quản lý, còn mang nặng thói quen của cơ chế cũ, chưa thích nghi hợp lý
hoàn toàn với cơ chế mới nên hiệu quả đạt được còn chưa cao. Để nhận thức rõ
hơn về vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế nói chung, trong công
nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá nói riêng; em đã chọn đề tài:"Vai trò quản lí
của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện
nay".
Do hiểu biết còn hạn chế, chưa bao quát hết được toàn bộ khía cạnh của vấn
đề hết sức to lớn và khó khăn này nên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này
em chỉ xoay quanh một số vấn đề cơ bản về vai trò của nhà nước trong việc phát
triển những điều kiện chính của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong
giới hạn bài viết này, em xin được trình bày các nội dung cơ bản về đề tài trên
như: Tại sao công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại phải có vai trò của Nhà nước?
Nhà nước đóng vai trò quan trọng như thế nào? Thực trạng vai trò của Nhà nước
ra sao? Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lí của nhà nước trong thời
gian tới.
Qua bài viết này em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, người đã giúp đỡ em
rất nhiều để em hoàn thành xuất sắc đề tài này.

-2-


kinh tÕ chÝnh trÞ

-3-


kinh tÕ chÝnh trÞ
PHẦN NỘI DUNG.

CHƯƠNGI: Tính tất yếu khách quan vai trò của nhà nước trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
I. Vai Trò Của Nhà Nước Trong Qúa Trình Công Nghiệp Hoá.
1.Quan niệm về công nghiệp hoá.
Trong quá trình phát triển của xã hội từ trước đến nay đã có và tồn tại rất
nhiều quan điểm về công nghiệp hoá.
Quan niệm đơn giản và ngắn gọn nhất cho rằng: Công nghiệp hoá là quá trình
biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước có nền công nghiệp hiện
đại. Trong quan niệm này ta không thấy được mục tiêu của quá trình cần thực
hiện và trong nội dung của nó gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với
quá trình phát triển công nghiệp; hơn thế nữa nó cũng không thể hiện được tính
lịch sử của quá trình công nghiệp hoá nên việc áp dụng vào thực tế là rất hạn
chế.
Trước đây ở Liên Xô (cũ) họ tập trung vào phát triển công nghiệp nặng với
ngành trung tâm là chế tạo máy; nên họ có quan điểm về công nghiệp hoá như
sau: Đó là quá trình xây dựng đại cơ khí có khả năng cả tạo cả nông nghiệp. Ta
có thể thấy ngay tính lịch sử trong quan điểm này; bởi nó rất hợp lí trong điều
kiện Liên Xô thời bấy giờ. Sẽ là sai lầm nếu coi đó là quan điểm phổ biến để áp
dụng cho tất cả các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay.
Theo quan niệm của liên hiệp quốc thì công nghiệp hoá là một quá trình phát
triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy
động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để tạo ra tư
liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm một nhịp độ tăng trưởng cao
trong toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế xã hội.

-4-


kinh tÕ chÝnh trÞ
Các quan điểm trên tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng đều có nội dung chung

đó là: kỹ thuật công nghệ hiện đại, cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nền kinh
tế đạt trình độ phát triển.
Ở Việt Nam chúng ta hiện nay sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Kết hợp quan điểm truyền
thống với quan điểm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta, Hội
nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đây cũng chính là quan điểm được sử dụng
một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo quan điểm này:"
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế-xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội
cao".
Từ đó cho thấy "Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thực hiện dưới sự chỉ đạo và tổ chức của Nhà nước chuyên chính vô sản,
sự lãnh đạo Đảng cộng sản. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ đưa
nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trở
thành một nước công nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên
tiến, quốc phòng vững mạnh cuộc sống ấm no hạnh phúc". Đường lối công
nghiệp hoá được xác địnhlà:"ưu tiên phát triển công nông nghiệp một cách hợp
lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ". Đại hội lần thứ VIII
của Đảng cộng sản Việt Nam lại một lần nữa xác định mục tiêu của công nghiệp
hoá, hiện đại hóa là:"Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thầncao, quốc
phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.Từ
-5-



kinh tÕ chÝnh trÞ
nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp.
2.Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá.
Từ trước đến nay trong quá trình phát triển của nền kinh tế Thế giới nói
chung về thực chất đã trải qua hai cuộc cách mạng lớn về kỹ thuật và công nghệ.
Lần thứ nhất diễn ra vào giữa cuối thế kỷ 18, mà diễn ra đầu tiên ở Anh mà hình
thức chủ yếu là thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá; lần thứ hai
bắt đầu vào giữa thế kỷ 20 với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học hiện đại, mà
nội dung của chủ yếu của nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu
tố tư liệu sản xuất, mà nó còn ở kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phương
pháp sản xuất tiên tiến. Nội dung chính của nó có những nét nổi bật như:
a.Phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá; tức là nó còn cả việc sử dụng
người máy để thay thế người điều khiển quá trình sản xuất.
b.Về năng lượng: ngoài những năng lượng thông thường trước đây như thuỷ
điện, nhiệt điện.. .thì ngày nay còn có rất nhiều nguồn năng lượng khác phục vụ
cho cuộc sống cũng như trong sản xuất đó là: năng lượng nguyên tử, năng lượng
mặt trời, năng lượng sinh học.
c.Về nguyên vật liệu mới: ngoài nguyên vật liệu tự nhiên, con người đã tạo
ra được rất nhiều vật liệu nhân tạo mà nó thay thế rất hiệu quả những vật liệu
khan hiếm.
d.Về sinh học: những thành tựu vượt bậc về công nghệ trong sinh học đã
được áp dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, y
tế hoá chất v.v..
e.Về công nghệ thông tin: ứng dụng của những phát minh trong công nghệ
tin học, điện tử thì rất quan trọng, nhất là đối với ngày nay.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện thế giới đã trải qua hai
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ như vậy, vì thế nếu chỉ tiến hành công
nghiệp hoá thì sẽ không thể theo kịp cũng như đáp ứng nhu cầu phát triển của xã

hội, không thể theo kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Nếu
-6-


kinh tÕ chÝnh trÞ
coi công nghiệp hoá là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất, thì
hiện đại hoá sẽ là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai. Muốn rút ngắn khoảng
cách tụt hậu giữa nước ta với các nước phát triển thì chúng ta phải thực hiện
đồng thời hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hay thực hiện công nghiệp hoá
gắn liền với hiện đại hoá. Có như vậy thì sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế
quốc dân mới có thể thành công, đưa đất nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại tiến lên chủ nghĩa xã hội.
3.Vai trò quản lý của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trước khi nói đến vai trò của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại
hóa phải nói đến vai trò quản lý của Nhà nước trong kinh tế. Lý thuyết và thực
nghiệm cho thấy: Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng
kinh tế. Tuy kết quả của những nước khác nhau, trong từng thời kỳ khác nhau là
không giống nhau, nhưng qua đó có thể thấy được rằng vai trò quản lý của nhà
nước là hết sức cần thiết, nhất là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhà nước định hướng chiến lược đúng đắn mang tính chất tiên quyết đối với
sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư
từ trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích tư bản
nước ngoài đầu tư bằng cách có các chính sách ưu đãi bảo đảm và tạo điều kiện
thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư và nhanh chóng phát huy vốn đầu tư. Tạo
không khí ổn định, môi trường kinh doanh thuận lợi cho các công ty liên doanh
nước ngoài. Lập ra các khu mậu dịch tự do. Nhà nước thực hiện chính sách ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ; điều tiết thu nhập, bảo
đảm công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo. Nhà nước điều chỉnh kịp thời việc
sử dụng các thành phần kinh tế, nhấn mạnh việc sử dụng các thành phần kinh tế

nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế. Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực, đầu tư
thích đáng cho giáo dục đào tạo, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đã được
đào tạo.
-7-


kinh tÕ chÝnh trÞ
II.Tất Yếu Khách Quan Vai Trò Của Nhà Nước Trong Quá Trình Công Nghiệp
Hoá, Hiện Đại Hoá.
1.Vai trò của Nhà nước trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình diễn ra liên tục với những nội
dung, bước đi thích hợp cho từng thời kỳ, phù hợp với nền kinh tế. Nền kinh tế
nước ta cũng như nền kinh tế Thế giới; muốn thực hiện thành công công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thì phải có một phương hướng cụ thể, chiến lược đúng đắn
thích hợp. Sau khi xác định được mục tiêu, quan điểm nội dung của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta thì một vấn đề không kém quan trọng là đề
ra những bước đi để đạt được mục tiêu đó. Những bước đi trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá có thể nêu ra đại thể cho mỗi thời kỳ nhưng phải đạt được một
số chỉ tiêu quan trọng như: thu nhập quốc dân tính theo đầu người, tỉ trọng của
các ngành trong cơ cấu kinh tế, tỉ trọng xuất khẩu trong GDP.v.v. Mặt khác trong
từng lĩnh vực phải có từng bước đi cụ thể. Có thể hình dung công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là một" cây mục tiêu " mà đỉnh cao của nó được lượng hoá bằng
GDP tính theo đầu người. Các ngành nhánh của nó là những mục tiêu quan trọng
như: cơ cấu kinh tế, cơ cấu sở hữu. Mỗi mục tiêu có vị trí quan trọng khác nhau
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có tác động qua lại thúc đẩy nhau
phát triển nhưng bao trùm nhất, quyết định nhất là làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Nhà nước có vai trò quyết định trong việc định hướng cũng như thực hiện các

bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Bởi vì chỉ có
Nhà nước mới có thể quyết định:
a.Mục tiêu chiến lược và kế hoạch tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Huy động và phân bổ tập trung các nguồn lực cần
thiết theo yếu tố cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cân đối điều chỉnh thường
xuyên quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

-8-


kinh tÕ chÝnh trÞ
b.Đề ra các chính sách cần thiết để khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực trong
và ngoài nước để thực hiện nhanh, mạnh, chắc chắn quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
c.Nhà nước tổ chức, xây dựng lại bộ máy quản lý đủ mạnh về cả chất lượng
và số lượng để quản lý có hiệu quả, kiên quyết thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ
công chức Nhà nước, lựa chọn cán bộ có khả năng, trình độ kinh nghiệm để đưa
đất nước ta nhanh chóng tiến lên hiện đại hoá hệ thống quản lý Nhà nước theo
yếu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
d.Nhà nước thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng pháp luật
và các văn bản dưới luật. Hoàn thiện và xây dựng mới các công cụ cần thiết như:
chế độ thống kê và kiểm toán, chế độ tài chính và báo cáo tài chính công khai
chính xác để quản lý thống nhất.
e.Nhà nước phối hợp, điều hoà các hoạt động trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu và định hướng đúng đắn đã
được xác định, vì quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể thành công
khi có sự phối hợp cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
f.Nhà nước tổ chức việc thực hiện, kiểm tra giám sát quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá để phát hiện kịp thời nhưng sai sót, lệch lạc mất cân đối.Quyết
định đúng đắn việc điều chỉnh quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá

là việc làm cần thiết và thường xuyên để cân đối lại hoàn chỉnh, nâng cao chất
lượng hoạt động của các ngành địa phương và cơ sở.
g.Nhà nước đảm bảo đồng bộ các điều kiện chủ yếu để thực hiện thành công
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những quan điểm, phương hướng, bước đi của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá có được thực hiện đầy đủ đúng đắn hay không
hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện chủ yếu có được bảo đảm hay không. Từ
đó ta thấy vai trò hết sức quan trọng của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
2.Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ.

-9-


kinh tÕ chÝnh trÞ
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn xác định khoa học và công
nghệ có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VII (khoá VII), đã coi công
nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo đánh giá của bộ khoa
học công nghệ và môi trường thì trình độ và công nghệ nước ta còn lạc hậu rất
nhiều so với các nước trong khu vực và trên Thế giới. Trang thiết bị thì cũ kỹ,
chắp vá, các thiết bị đo lường thử nghiệm nói chung không đồng bộ, tổ chức sản
xuất còn nhiều bất cập.v.v. Với thực trạng công nghệ sản xuất như vậy thì chúng
ta không thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với
những nước đang phát triển như nước ta,công nghiệp hoá, hiện đại hoá không
phải là sự phát triển ngành công nghiệp với mục đích tự thân mà là quá trình tạo
tính chất công nghiệp cho nền kinh tế quốc dân, là quá trình tăng trưởng nền
kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất xã hội.Thực
chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nâng cao một cách mạnh mẽ
và nhanh chóng trình độ công nghệ nhằm sử dụng và phát huy tối đa mọi nguồn
lực để phát triển kinh tế, xã hội. Ở nước ta quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá được xác định là quá trình chuyển từ tình trạng công nghệ lạc hậu với năng
suất lao động và hiệu quả thấp kém lên trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại với
năng suất lao động cao, làm chuyển biến cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, dân
cư theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ và những lĩnh vực có vai trò
quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân.
Vì thế có thể thấy công nghệ là một vấn đề rất quan trọng cần phải giải quyết
ngay khi bắt tay vào thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để giải quyết những vấn đề này cần phải có chính sách đúng đắn của Nhà
nước; những chính sách đó sẽ kích thích các đơn vị kinh tế nhanh chóng đổi mới
công nghệ sản xuất.
Chính sách đổi mới, mở cửa làm cho các doanh nghiệp buộc phải đổi mới và
nâng cao trình độ công nghệ. Cơ chế thị trường buộc mọi cơ sở phải tìm cách để
tồn tại, phát triển.
- 10 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
Muốn vậy chỉ có một con đường là đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ.
Nhà nước khuyến khích phát triển công nghệ bằng các chính sách: ưu đãi trong
việc vay vốn ngân hàng để đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hiện có, mua thiết bị
máy móc mới cần thiết cho sản xuất, nhập khẩu máy móc, thiết bị tiến của nước
ngoài, đưa cán bộ ra nước ngoài để tiếp cận thị trường, nghiên cứu học tập công
nghệ mới. Chính sách mở cửa với những ưu đãi trong việc đầu tư nước ngoài đã
tạo điều kiện cho các nhà đầu tuư nước ngoài tìm đến liên doanh, đem theo
những máy móc thiết bị phụ tùng hiện đại, những chuyên gia kỹ thuật, chuyên
gia quản lý tiên tiến của Thế giới. Việc đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước nhanh chóng tiếp cận và tiếp nhận công nghệ tiên tiến hơn nhiều so
với công nghệ hiện có trong nước. Nhà nước cũng là nơi ban hành những chính
sách, cơ chế ưu đãi làm động lực kích thích cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
khoa học công nghệ trong nước, kích thích phát huy tính sáng tạo nghiên cứu

trong lĩnh vực khoa học công nghệ mới phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
3.Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn vốn.
Vốn hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp và mỗi quốc gia; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả nguồn nhân lực,
nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích luỹ của một cá nhân, một
doanh nghiệp, một quốc gia. Trong đó vốn tiền tệ có vị trí rất quan trọng, là
điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sau
sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều
được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào, dù bất cứ
cấp độ nào, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn
nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, của cải của thế hệ
trước, sở hữu về trí tuệ, bản quyền phát minh.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ những quốc gia phát triển nhanh trên Thế giới đã
khẳng định tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh
- 11 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
hay chậm là do nguồn vốn quyết định. Sự tăng trưởng kinh tế với tích tụ và tập
trung vốn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự tăng trưởng kinh tế vừa là
nguyên nhân lại vừa là kết quả của tích tụ và tập trung vốn. Mặt khác, mức tiết
kiệm cao của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp chỉ có thể đạt được với những cải
cách mạnh mẽ trong quản lý điều hành kinh tế .
Nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế chỉ có thể được tạo ra bằng tiết kiệm trong
nước và vốn đầu tư từ nước ngoài. Thực tiễn ở nước ta cho thấy nhân tố hàng
đầu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như đối với sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế là phải có vốn lớn.Vấn đề huy động vốn cho quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa hết sức quan trọng cho nền kinh tế

nước ta. Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước; đây
là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nguồn vốn nội bộ được tạo
ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng, miền của nền
kinh tế đất nước; từ sự phát triển mạnh mễ của các công ty cổ phần thông qua
việc huy động tiền nhàn rỗi của dân cư, các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể,
các khoản thuế nộp ngân sách của Nhà nước.
Nguồn vốn nội bộ của nền kinh tế có tính chất quyết định trong quá trình quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng vẫn còn hạn hẹp. Các quốc gia khác
trên Thế giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài thông qua các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh, vay với
lãi suất thấp, viện trợ v.v. Trong điều kiện nền kinh tế tích luỹ vốn còn chậm thì
việc thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là có ý nghĩa rất to lớn.Từ nguồn
vốn bên ngoài tạo thành nguồn lực trong nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần có cơ chế,
chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều vốn và tranh thủ với công nghệ
tiên tiến. Muốn tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài thì cần phải có một nguồn vốn
tương ứng trong nước. Còn việc vay vốn thì phải tính đến khả năng trả nợ.
Ngoài ra còn phải đảm bảo các yếu tố khác về độc lập, chủ quyền, kinh tế, chính
trị. Vì thế mà nguồn vốn nội bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nước phải tạo
- 12 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
điều kiện cho từng địa phương, từng cơ sở phát triển mạnh mẽ sản xuất nhằm
huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân nhằm phục vụ có hiệu quả sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề bảo đảm, sử dụng và phát
triển vốn cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện
trước hết trong công tác tổ chức tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và
phát triển vốn trước hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới,

phải hoạch toán kinh tế kinh doanh.
Xuất phát từ yếu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm bảo tính
hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, đẻ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững tất
yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
4.Vai trò của Nhà nước trong quản lý quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi được thực
hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là một quá trình lâu dài và phức tạp; nó tuân theo quy luật và tính quy
luật của các quan hệ cung cầu, giá cả, cạnh tranh sẽ quyết định quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, quyết định các phương án lựa chọn đầu tư v.v. Nhưng
cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật và hạn chế riêng của nó, cho nên nếu
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lệ thuộc quá nhiều vào cơ chế thị trường
thì sẽ không đạt được những mục tiêu công bằng xã hội, an ninh quốc gia và sự
bền vững của môi trường. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có sự quản lý
của Nhà nước; sự quản lý của Nhà nước là bộ phận không thể thiếu của cơ chế
quản lý quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhà nước quản lý quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thực hiện quyền quản lý của mình thông
qua các công cụ chủ yếu như: định hướng kế hoạch phát triển, hệ thống luật
pháp, các chính sách kinh tế xã hội, các quỹ quốc gia v.v. Thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động
- 13 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô sau đây:
a.Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho qúa trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, bảo đảm sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp

thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và
thuận lợi cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
b.Định hướng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trực tiếp đầu tư vào
một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa;ổn
định môi trường kinh tế vĩ mô như :Chống lạm phát,khủng hoảng,ngăn ngừa
những đột biến xấu trong nền kinh tế.
c. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá,thực hiện đúng các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và
chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước.
d. Khắc phục hạn chế các mặt tiêu dùng cực của cơ chế thị trường,phân phối
thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Ngoài ra vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức quản lý quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá còn thể hiện trong việc lựa chọn sử dụng trong những công cụ
quản lý có hiệu quả cao như hệ thống pháp luật,các chính sách kinh tế xã hội đặc
biệt là các chính sách kinh tế nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; lựa chọn các phương pháp quản lý như: giáo dục,
thuyết phục, động viên, phương pháp tổ chức hành chính, phương pháp kinh tế,
bố trí hợp lý các cán bộ đầu ngành chủ chốt trong các cơ quan quản lý. Tóm lại
nhà nước có vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- 14 -


kinh tÕ chÝnh trÞ

CHƯƠNGII: Thực Trạng Vai Trò Của Nhà Nước Trong Quá Trình
Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá.

I. Định Hướng Cho Quá Trình Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá.

1.Việc đề ra mục tiêu chiến lược, kế hoạch bước đi của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra những chuyển biến cơ
bản về kinh tế, trên cơ sở đó góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân; đảm bảo công bằng xã hội. Nhưng việc xác định phương hướng, bước
đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay còn nhiều thiếu sót bất cập. Tuy
Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cho phát triển kinh tế nhưng chưa giải quyết thoả
đáng mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng dùng. Các chính sách kinh tế của
Nhà nước chưa gắn bó hữu cơ với các chính sách xã hội: chính sách xoá đói
giảm nghèo đã được triển khai nhưng phương pháp thực hiện chưa hữu hiệu, tốc
độ còn chậm. Phương hướng và bước đi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
chưa gắn bó chặt chẽ với phương hướng và bước đi thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, chưa định hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn để phát huy
có hiệu quả nguồn lực và lợi thế của đất nước.
Định hướng phát triển vẫn còn khá dàn trải, chia đều cho các ngành, chưa khai
thác và động viên có hiệu quả mọi nguồn lực có sẵn trong nước. Tuy Nhà nước
đã cố gắng tích cực tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phù hợp với khả năng tiếp
thu, quản lý và sử dụng công nghệ, nhân lực nhưng không có chính sách kiểm
tra, giám sát chặt chẽ nên vẫn còn nhiều lãng phí, kém hiệu quả. Nhà nước chưa
thúc đẩy nhanh chóng quá trình đổi mới thiết bị, công cụ lao động trong các
ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là các ngành trọng điểm.

- 15 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
Việc lựa chọn mục tiêu các giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế còn nhiều thiếu sót, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vượt quá khả
năng thực hiện.
2.Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nước ta khi bước vào thời kỳ đổi mới đã phải tiếp nhận thực trạng của một
cơ cấu kinh tế mang nặng tính đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Sau
nhiều kế hoạch phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế được hình
thành, song cho đến cuối những năm 80 nền kinh tế cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế
cũ, lạc hậu và kém hiệu quả mà việc cấu trúc lại không phải là đơn giản. Qua
hơn 10 năm đổi mới cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển biến đáng khích lệ;
cho đến năm 1999 thì đã có sự biến chuyển đáng kể: Giá trị sản lượng công
nghiệp đạt 165.498 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 1998 (150.407 tỷ) tăng hơn 15
tỷ đồng; xuất khẩu đạt 9.875,5 triệu USD, so với cùng kỳ năm 1998 (9.365 triệu)
tăng hơn 500 triệu USD; giá trị nhập khẩu đạt 12.464 triệu USD, so với cùng kỳ
năm 1998 (11.390 triệu) tăng hơn 1.000 USD; thu ngân sách (tính theo giá thực
tế) đạt 71.420 tỷ đồng, tăng gần 5.000 tỷ so với cùng kỳ năm 1998 (66.462 tỷ).
Nước ta đã chuyển hẳn sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 về cơ bản là hoàn thành quá trình quá
độ và trở thành một nước công nghiệp theo đúng nghĩa của nó.
Tuy vậy, nhưng về cơ cấu ngành kinh tế, Nhà nước chưa thúc đẩy nhanh các
vùng tập trung chuyên canh, chậm đưa công nghệ sinh học và các phương pháp
canh tác tiên tiến vào nông nghiệp; công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản xuất
khẩu chưa phát triển; công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cơ bản thiết yếu còn
ít oi, nhỏ bé. Ngành cơ khí chưa hướng vào sản xuất công cụ thiết bị phục vụ
sản xuất nông,lâm ngư nghiệp, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến nông, lâm
thuỷ
sản.v.v.
- 16 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
Nhà nước chưa chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của

công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp vẫn còn ở
mức cao, tỷ suất hàng hoá nông lâm sản thấp, tỷ trtọng hàng xuất khẩu vẫn còn
nhỏ bé manh mún.
Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP còn quá thấp. Công nghiệp
chế biến nông lâm hải sản và công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng dùng để xuất
khẩu còn phát triển chậm.
II. Phát triển công nghệ .
1.Phát triển công nghệ sản xuất.
Đất nước ta đang dần chuyển hẳn sang hoạt động theo cơ chế thị trường với
nền kinh tế mở, phải cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường Thế
giới. Chúng ta đã thấy được chính sách và cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp của Nhà nước đã kìm hãm việc đổi mới và nâng cao trình độ công
nghệ sản xuất ở nước ta như thế nào. Chính vì vậy mà những chính sách kinh tế
và cơ chế quản lý kinh tế mới ban hành nhằm kích thích đổi mới và nâng cao
trình đọ công nghệ đã nhanh chóng tìm được sự hưởng ứng và đón nhận, đem lại
kết quả ban đầu đáng khích lệ. Những chính sách và cơ chế mới ban hành của
Nhà nước trong thời gian qua nhằm tạo quyền chủ động cho các đơn vị sản xuất
trong việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất đã có tác
dụng giúp nhiều cơ sở sản xuất đứng vững được trong cạnh tranh mạnh mẽ trên
thị trường, bước đầu làm ăn có hiệu quả. Ta có thể thấy rõ điều này qua nghị
quyết số 217- HĐBT ngày 14/11/1998 về các chính sách đổi mới kế hoạch hoá
và hoạch toán kinh doanh đối với các xí nghiệp công, quốc doanh đã có những
tác động tích cực, làm các doanh nghiệp Nhà nước độc lập hơn, tự chủ hơn trong
sản xuất và tiêu thụ. Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; luật bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp, pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam và
một loạt các thông tư quyết định cụ thể khác của Nhà nước đã tạo điều kiện ban
đầu thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước nhanh chóng đổi mới công nghệ

- 17 -



kinh tÕ chÝnh trÞ
sản xuất. Những quy định trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà
nước đã:
-Tạo ra nhu cầu bức thiết cho các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao
trình độ công nghệ.
-Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng (các doanh nghiệp) quyết định lựa
chọn mua bán công nghệ, kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
-Mở ra những hình thức mới không những chỉ tiếp cận mà còn thu hút được
công nghệ tiên tiến của Thế giới.
Báo cáo tại hội thảo kinh tế Việt Nam, Bộ trưởng bộ khoa học công nghệ và
môi trường Đặng Hữu đã đánh giá:"xem xét lại trong gần 400 dự án với tổng số
vốn trên 3 tỷ USD và các hợp đồng chuyển giao công nghệ khác thấy rằng nhiều
công nghệ mới được đưa vào Việt Nam đã góp phần nâng cao trình độ công
nghệ chung của sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm".
Đồng thời bên cạnh những mặt tích cực, những chính sách và cơ chế quản lý
kinh tế của Nhà nước với việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn có những mặt hạn chế tồn tại. Đólà:
-Thiếu sự định hướng rõ rệt trong đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ.
Hiện nay Nhà nước vẫn chưa xác định được chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ quốc gia làm cơ sở định hướng hoạt động và chính sách công nghệ và
hoạch định chính sách công nghệ. Do thiếu định hướng hoạt động và chính sách
công nghệ, cụ thể hoá định hướng thành các quy định quản lý nên phải thừa
nhận rằng hiện tại các hoạt động để phát triển công nghiệp đang diễn ra một
cách tự phát, thiếu sự quy hoạch và phối hợp tổng thể cả trong ngành lẫn địa
phương.
-Thiếu sự an tâm, tin tưởng từ phía người đầu tư cho phát triển công nghệ với
tính ổn định nhất quán của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của
Nhà nước. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy: sự tin tưởng an tâm từ phía người đầu
tư trong và ngoài nước là một yếu cầu rất quan trọng khi hợp tác. Những đổi

mới trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế thời gian qua vẫn chưa
- 18 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
đáp ứng được yếu cầu này. Nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước và Quốc hội đều
nhận xét về môi trường kinh tế ngày nay là: "Chính sách quản lý vĩ mô có nhiều
sơ hở và thiếu sót, kỉ luật phép nước không nghiêm". Nhà nước cần đổi mới và
hoàn thiện các chính sách kinh tế nhằm tạo ra niềm tin cho các hoạt động đầu tư
phát triển khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
-Thiếu sự khuyến khích phát triển dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng để bảo
đảm tiếp nhận và khai thác có hiệu quả công nghệ mới phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Sự yếu kém về hàng hoá, dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng ở
nước ta đang là một trong những cản trở lớn nhất trong chuyển giao công nghệ.
Nó đã và đang để tuột nhiều dự án đầu tư, mặc dù đã có những ưu đãi đặc biệt
so với thông lệ chung của quốc tế.
2.Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học.
Các chính sách, cơ chế của Nhà nước chưa tạo ra động lực kích thích đối với
cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Sự phát triển khoa học
và công nghệ vừa là mục tiêu dùng vừa là phương tiện của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Con người là yếu tố quan trọng của sự phát triển ấy
bởi vì con người là yếu tố chủ động, năng động của sự phát triển ấy. Thế nhưng
hiện tại trong lĩnh vực này đang thiếu sự khuyến khích, kích thích cần thiết.
Nhận xét về các chính sách đối với cán bộ khoa học công nghệ, nghị quyết 26
của bộ chính trị vừa qua đã chỉ rõ:" Chính sách, chế độ đãi ngộ trong khoa học
còn nhiều bất hợp lý. Tiền lương mang nặng tính chất bình quân chủ nghĩa. Lao
động chất xám nói chung rẻ hơn lao động đơn giản. Điều kiện tối thiểu để làm
việc và sinh hoạt cho cán bộ khoa học chưa đảm bảo". Hiện nay, với yếu cầu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì chất lượng, trình độ kỹ thuật và tay nghề lao
động của nước ta còn quá thấp. Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục đào

tạo có hệ thống cơ bản chỉ chiếm khoảng 11% trong tổng số lao động toàn xã
hội. Mặt bằng dân trí thấp, lao động trí tuệ, lao động chân tay có trình độ đại học
và sau đại học còn ít. Nhìn tổng thể mà xét; về mặt lượng thì nguồn lao động của
nước ta là lớn, nhưng về mặt chất thì chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của công
- 19 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy phải có những giải pháp nhằm nâng cao trình
độ lao động, phát triển cán bộ khoa học kỹ thuật để tạo ra một sự biến đổi về
chất lực lượng lao động ở nước ta.
III. Phát triển nguồn vốn.
1.Thực trạng huy động vốn của Nhà nước.
Nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên Thế giới, muốn thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì cần phải có vốn. Từ năm 1992 trở lai đây, nhờ thực
hiện chính sách tài chính thắt chặt, Nhà nước đã chấm dứt được tình trạng phát
hành tiền cho tiêu dùng dùng của ngân sách, số thu không những đã bù đắp số
chi thường xuyên, mà còn dành ra một phần để tích luỹ đầu tư cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Nhưng nếu chỉ dùng số tiền tích luỹ đó thì sẽ không đủ để
phát triển kinh tế. Do đó Nhà nước đã có những biện pháp để huy động vốn
trong và ngoài nước. Việc huy động vốn trong nước bằng các hình thức: tín
phiếu, trái phiếu tuy có phát triển song vốn huy động được còn rất hạn chế và
chủ yếu vẫn là nguồn vốn ngắn hạn( chiếm 90% doanh số phát hành). Hình thức
huy động vốn còn đơn điệu. Hình thức tín phiếu kho bạc với thời hạn dài ( 3
năm), hầu như chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của dân cư, và chủ yếu
là dùng biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp buộc phải mua. Tuy Nhà nước đã
thiết lập được hệ thống ngân hàng hai cấp: ngân hàng Nhà nước quản lý Nhà
nước về tiền tệ tín dụng và ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền
tệ trên nguyên tắc đi vay để cho vay. Nhưng tổng số vốn huy động trong dân cư
bằng các hình thức qua kênh ngân sách và ngân hàng như: tín phiếu, trái phiếu

kho bạc, tiền tiết kiệm gần đây mới chỉ đạt trên 8.000 tỷ đồng/năm, chiếm
khoảng 5%GDP và chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy, nếu so với các
nước trong khu vực Đông Nam á thì tỉ lệ vốn trong nước để đầu tư cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta còn thấp. Nguyên nhân của tình hình trên
là do một số chính sách tài chính, tiền tệ hiện nay còn chưa tạo điều kiện và
khuyến khích thoả đáng cho các doanh nghiệp tự đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh như: chính sách thuế, chế độ thu khấu hao.v.v. Các hình thức huy động
- 20 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
vốn chưa được mở rộng. Người dân chưa thật tin vào sự ổn định kinh tế, còn sợ
lạm phát, khủng hoảng kinh tế. Kế đến là Nhà nước chưa có nhiều hình thức huy
động vốn linh hoạt, có lãi suất hấp dẫn cũng như chưa tạo ra được môi trường
pháp lý, môi trường kinh tế và bộ máy nhân sự đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị
trường.
2.Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn:
Những năm gần đây, đầu tư của Nhà nước bước đầu đã có một số thay đổi
theo chiều hướng tốt, một số công trìng đã phát huy tác dụng làm tăng thêm cơ
sở vật chất kỹ thuật cho bước mới thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Tuy nhiên nhìn chung việc sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước đến nay vẫn
còn rất lãng phí và kém hiệu quả. Quan niệm đầu tư của Nhà nước còn đơn giản,
chỉ chú trọng vào đầu tư cơ bản để làm tăng tài sản cố định, chưa quan tâm thích
đáng và gắn bó với đầu tư xây dựng cơ sở nguyên liệu, đầu tư vào con người và
phát triển khoa học kỹ thuật. Đối với cơ cấu đầu tư cũng còn nhiều bất hợp lý,
Nhà nước chưa chú ý thích đáng đến đầu tư cho kết cấu hạ tầng, hiệu quả vốn
đầu tư thấp do không ít trường hợp đầu tư sai, cơ chế cấp phát vốn của Nhà
nước vẫn còn mang tính chất bao cấp, thất thoát, lãng phí nhiều. Kết quả tính
toán cho thấy hiệu quả vốn đầu tư hiện nay là rất thấp.
Tình hình quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điều cần

phải xem xét lại. Những năm qua vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào nước ta
tuy tăng nhanh qua các năm, song vẫn có sự mất cân đối về cơ cấu đầu tư, việc
chuyển giao công nghệ vào Việt Nam còn bị hạn chế. Trong quá trình thực hiện
luật đầu tư và triển khai các dự án khác đã và đang xuất hiện những tiêu dùng
cực trong việc lợi dụng sơ hở trong cơ chế chính sách của Nhà nước. Thực trạng
trên là vì:
-Luật đầu tư của Nhà nước dù đã xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển
nhưng lại chậm đưa ra danh mục các dự án thu hút vốn và còn bị động trong thu
hút vốn.

- 21 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
-Chính sách tài chính chưa rõ ràng trong xác định ưu đãi theo vùng lãnh thổ
cũng như chưa đủ sức hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn kinh
doanh vào lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một số năm do bội chi nên Nhà nước đã phải dùng cả vốn vay của nước ngoài
để tiêu dùng cho ngân sách làm cho đồng vốn vay không phát huy được hiệu
quả. Nhà nước khá trú trọng vay nợ`nhưng lại xem nhẹ hiệu quả sử dụng vốn
vay và nghĩa vụ trả nợ. Tính chất bao cấp trong việc vay và sử dụng vốn còn khá
phổ biến và nghiêm trọng. Nhà nước chưa có một chiến lược vay nợ, tiếp nhận
và sử dụng vốn vay nước ngoài một cách chủ động, có tính đến nhu cầu và khả
năng hấp thụ và trả nợ của đất nước đến việc vay nợ còn diễn ra rất tuỳ tiện.
-Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đầu tư vẫn còn tồn tại, người dân chưa
thật tin tưởng vào đường lối mới của Nhà nước. Trong một số chính sách kinh tế
tài chính, Nhà nước chưa có biện pháp khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trong và
ngoài
nước vào các lĩnh vực, ngành nghề mũi nhọn cần phát triển nhanh chóng để
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm tới, để quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhà
nước tất yếu phải bảo toàn phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hơn nữa.
IV.Quản lý quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước.
Các biện pháp quản lý quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chủ yếu nhằm
vào những hoạt động điều hành chỉ đạo việc hình thành và triển khai thực hiện
chủ trương của Nhà nước trong nền kinh tế. Các biện pháp quản lý của Nhà
nước trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Trong nhận thức về công
nghiệp hoá đã có nhìn nhận hơn cả về mục tiêu dùng, nội dung, quy mô lẫn biện
pháp quản lý. Mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai
đoạn hiện nay là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ, nâng
cao trình độ hiện đại hoá trong các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế quốc
dân.
- 22 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
Chủ trương đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được xác định toàn
diện thích hợp hơn. Đó là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong các
ngành kinh tế quốc dân, có trọng điểm là công nghiệp, ưu tiên ngành công
nghiệp chế biến; có sự kết hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương, trong
đó phải ưu tiên cho các vùng trọng điểm. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá với sự đầu tư phát triển toàn diện, nhưng trong đó chú trọng nhất về công
nghệ và tri thức công nghệ.
Biện pháp thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được Nhà nước điều
chỉnh trong đó rõ nhất là: thực hiện quy hoạch phát triển toàn diện kinh tế xã hội
theo từng cấp, căn cứ vào điều kiện và lợi thế so sánh cụ thể mà xác định được
quy hoạch xây dựng các công trình theo yêu cầu công nghiệp hoá. Điều chỉnh cơ
cấu đầu tư theo hướng tập trung và sớm dứt điểm để nâng cao hiệu quả đầu tư,
công tác đào tạo cán bộ được tăng cường mạnh mẽ ở những ngành chuyên môn

đang rất thiếu như: công nghệ, marketing quản trị kinh doanh và những lĩnh vực
không thể thiếu khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất trong biện pháp quản lý
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể:
-Phương hướng khai thác tiềm năng chưa rõ ràng, chính xác. Nhìn chung các
địa phương đã xây dựng quy hoạch phát triển, trong đó phân tích khá rõ những
điều kiện và lợi thế phát triển chung của nước ta và Thế giới còn có những điểm
khác xa nhau.
-Tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được Nhà nước định
ra cụ thể. Về tổng quát, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ được thực
hiện mạnh mẽ trong thời gian từ nay đến đến năm 2020, nhưng các bước đi cụ
thể chưa được xác định rõ ràng. Do đó, trong tiến trình thực hiện các mục tiêu
phát triển đã nảy sinh một số vấn đề. Ví dụ như vấn đề thực hiện phát triển công
nghiệp chế biến như thế nào và vào lúc nào khi nguồn nguyên liệu chưa được
phát triển, giải pháp vay vốn và sử dụng vốn chưa thật thuyết phục trong cân
nhắc về hậu quả, nhu cầu vốn cho thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất
- 23 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
lớn phải có sự tài trợ từ bên ngoài; nhưng Nhà nước vẫn chưa tính toán kỹ trong
việc thanh toán trả nợ sau này. Việc phát triển hiện nay với sức đè nặng của các
món nợ trong vòng 18-20 năm nữa.
-Phương hướng chỉ đạo nhập công nghệ chưa cụ thể. Nhiều vấn đề trong chủ
trương nhập công nghệ không được chỉ đạo dứt khoát và thực hiện thống nhất
như: xác định trình độ công nghệ tiên tiến ở mức nào, cơ cấu công nghệ cần
nhập ra sao, hiện đại hoá các công nghệ truyền thống như thế nào. Việc kiểm
soát nhập công nghệ qua các dự án đầu tư của nước ngoài cũng không chặt chẽ,
diễn ra tình trạng nhập các công nghệ thấp, công nghệ loại thải vào nước ta.
Chúng ta lại thiếu các thông tin về công nghệ. Do vậy, khi được nước ngoài giới

thiệu về một công nghệ nào đó thì không có điều kiện để so sánh để biết được
trình độ công nghệ đó tiên tiến đến mức nào, ưu và nhược điểm so vơi công
nghệ cùng loại khác làm Nhà nước rất khó khăn trong quá trình quản lý, ảnh
hưởng lớn tới quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta.
V. Một Vài Khía Cạnh Về Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Cho Công Nghiệp Hoá,
Hiện Đại Hoá.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã xác định:"
công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Đó không chỉ là tăng thêm tốc độ và tỉ trọng của sản xuất công nghiệp trong
nền kinh tế mà là sự chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ,
tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân". Hiện đại hoá là quá trình ứng dụng rộng rãi những thành tựu
khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Mục tiêu dùng của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh.

- 24 -


kinh tÕ chÝnh trÞ
Vấn đề phát huy nội lực là giải pháp cơ bản quyết định thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá đất nước và là giải pháp chủ yếu đảm bảo tính hiệu quả, sự phát
triển bền vững quan hệ hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta.
Có nhiều nguồn lực cùng tác động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
VIII của Đảng đã xác định:" Lấy việc phát huy nguồn lực côn người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước". Vì vậy việc nâng cao
chất lượng nguồn lực có người có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc

phát triển đất nước.
Yêu cơ bản cầu đối với nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay là: Làm chủ công nghệ cao, biến công nghệ nhập thành
công nghệ của mình; từ đó xây dựng năng lực sáng tạo công nghệ mới. Trong
bối cảnh hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực, nguồn nhân lực có chất lượng cao
về trí tuệ và tay nghề so với ưu thế cạnh tranh của đất nước trên thị trường quốc
tế.
Hiện nay nước ta có khoảng 40 triệu lao động ( 50%), nhưng tỉ lệ công nhân
lành nghề chỉ chiếm khoảng 6% ( ở các nước công nghiệp hiện nay là 35%); lao
động trung cấp khoảng 3,5% ( ở các nước công nghiệp tỉ lệ này là 25%); tỉ lệ lao
động phổ thông ở các nước là 35%, trong khi đó ở nước ta là 88%; cơ cấu nhân
lực ở các nước công nghiệp theo tỷ lệ: 1 kỹ sư có 5 kỹ thuật viên và 7 công nhân
lành nghề; ở Việt Nam tỷ lệ này là: 1 kỹ sư có 1,29 kỹ thuật viên và 2,03 công
nhân lành nghề.
Trong lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ ở nước ta, thì tình trạng lão hoá
về tuổi đang gia tăng. Số đông các cán bộ trình độ cao đều đã lớn tuổi và nước ta
đang đứng trước nguy cơ hẫng hụt cán bộ. Theo thống kê thì có tới hơn 60% tiến
sĩ và hơn 70% phó giáo sư, hơn 90% giáo sư đã ở vào độ tuổi trên 50. Đến năm
2001, có hơn 80% số cán bộ có học hàm, học vị đến tuổi nghỉ hưu. Qua đây cho
thấy nguồn nhân lực nước ta tuy dồi dào nhưng đa số chưa qua đào tạo, số lao

- 25 -


×