Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là : Nguyễn Thị Huệ
Là sinh viên lớp 35K03.1, thuộc khoa Du Lịch, trường đại học Kinh Tế Đà
Nẵng.
Tôi xin cam đoan nghiên cứu “Hoàn thiện sản phẩm “Khu chợ quê dân
gian tại Lifestyle Resort Danang” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu
khoa học độc lập và nghiêm túc. Các số liệu trong chuyên đề được thu thập từ
thực tế có nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy, được xử lý trung thực và khách quan
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Sinh viên
Nguyễn Thị Huệ
SVTH: Nguyễn Thị Huệ_35K03.1
1
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với TS. Nguyễn Thị Mỹ Thanh, cô
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện
chuyên đề.
Tôi xin chân thành cảm ơn khách sạn Lifestyle Resort Danang cùng các anh
chị đang làm việc tại khách sạn đã nhiệt tình giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho tôi
trong suốt quá trình thực tập, cũng như cung cấp các số liệu và thông tin cần thiết
về khách sạn để tôi có thể hoàn thành tốt chuyên đề.
Sinh viên
Nguyễn Thị Huệ
SVTH: Nguyễn Thị Huệ_35K03.1
2
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………………….1
SVTH: Nguyễn Thị Huệ_35K03.1
3
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Khác biệt giữa khách sạn và khu nghỉ dưỡng……………………………..11
SVTH: Nguyễn Thị Huệ_35K03.1
1
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ.
SVTH: Nguyễn Thị Huệ_35K03.1
1
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của hoạt
động Du lịch thế giới trong đó có ngành du lịch của Việt Nam. Theo thời gian
ngành du lịch Việt Nam đang phát triển ngày càng lớn hơn về quy mô và chất
lượng. Sự phát triển của cuộc sống hiện đại hiện nay đã làm tăng nhu cầu đi nghỉ
dưỡng, tránh xa cuộc sống tất bật thường ngày tại các khu Resort càng tăng cao.
Việc đi nghỉ dưỡng không chỉ đơn giản nghỉ ngơi mà còn nhằm mục đích khám
phá, học hỏi nét đẹp văn hóa vùng miền. Theo Hội nghị Bộ trưởng Du lịch Đông
Á - Thái Bình Dương, du lịch tìm hiểu văn hóa đang là xu hướng mới cho các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, việc kết hợp văn
hóa địa phương trong các khu nghỉ dưỡng tại Việt Nam chưa thật sự phát triển.
Nhắc đến nét đẹp văn hóa địa phương, đến lối sống bình dị hằng ngày, ta phải
nhắc đến các phiên chợ xưa – nơi mọi người được giao lưu, nơi nét đẹp văn hóa
địa phương được thể hiện, mộc mạc chân quê, người mua, người bán gặp nhau
cười nói rôm rả, tay bắt mặt mừng, xen tiếng mặc cả lẫn tiếng hỏi thăm thắm
đượm tình quê, giản dị như những người nông dân chất phác, thật thà, nơi vẫn
giữ được cái hồn quê xưa và lưu giữ nét văn hóa Việt.
Nhằm tạo cho du khách một trải nghiệm với cuộc sống bình dị, tránh xa sự
hối hả thường ngày, một cơ hội khám phá nét đẹp của văn hóa Việt, đồng thời
góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam cho bạn bè quốc tế. Bên cạnh các sản
phẩm hiện có của Resort, hiện nay sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” tại
Lifestyle Resort chưa thể hiện hết chức năng và nhiệm vụ của một cầu nối văn
hóa. Sản phẩm hiện tại nằm trong một hình thức tổ chức sự kiện, tiệc theo yêu
cầu của khách hàng. Chưa được tổ chức bán một cách chủ động như các sản
phẩm khác.
Xác định sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” có cơ hội phát triển và có khả
năng trở thành sản phẩm thu hút khách đến nghĩ dưỡng tại Resort. Hiện nay
Resort đang có kế hoạch hoàn thiện để phát triển thành sản phẩm chuyên biệt.
Tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào chính thức cho việc hoàn thiện này.
Do đó, tôi chọn đề tài”
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 1
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
“ Hoàn thiện sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” tại Lifestyle Resort”.
MỤC TIÊU CỦA NGHIÊN CỨU:
- Đánh giá mức độ cảm nhận của du khách về sản phẩm “Khu chợ quê dân
gian” tại Lifestyle Resort. Từ đó, xác định những mặt hạn chế của dịch vụ và
phân tích nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” hiện có đã thỏa mãn và phù hợp với nhu
cầu của du khách hay chưa? Từ đó đưa ra hướng phát triển mới cho sản phẩm
“Khu chợ quê dân gian” tại Lifestyle Resort.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
-
Đối tượng nghiên cứu:
•
Tình hình cung cấp và sử dụng sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” tại
Lifestyle Resort Danang.
-
Phạm vi nghiên cứu:
•
Thời gian nghiên cứu: từ 2/1/2013 đến 20/4/2013
•
Không gian nghiên cứu: Lifestyle Resort Danang, điểm du lịch tại Đà Nẵng..
•
Vấn đề nghiên cứu: tình hình cung ứng sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” của
Resort và sự đánh giá của du khách về sản phẩm đó.
BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng về sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” tại Lifestyle Resort
Danang.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” tại
Lifestyle Resort Danang.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOÀN
THIỆN SẢN PHẨM “KHU CHỢ QUÊ DÂN GIAN” TRONG
RESORT.
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 2
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Tổng quan về kinh doanh resort.
1.1.1.
Khái niệm resort.
Trong những năm gần đây, các khách sạn, resort ở Thành phố Đà Nẵng đã
không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng. Bên cạnh một vài khách sạn đạt
tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao như khách sạn Green Plaza, Mercure Danang, Hoang
Anh Gia Lai Plaza…thì các resort đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao cũng đã và đang
được xây dựng như Sandy Beach, Furama, Lifestyle, Fusion Maia, Vinpearl
Luxury Danang, Crowne Plaza Danang, Hyatt Recency Danang, Mercure Son
Tra Danang…
Theo Thông tư 88/2008-TT-BVHTTDL thì khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch,
có quy mô từ mười buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất,
trang thiết bị và dịch vụ cần thiết phục vụ khách lưu trú và sử dụng dịch vụ. Tuy
nhiên hiện nay, khái niệm về Resort vẫn chưa được định nghĩa thống nhất và
chưa xây dựng được tiêu chuẩn xếp hạng dành riêng cho resort. Khởi thuỷ của
khái niệm “Resort” là nơi chữa bệnh, là nơi dành cho những người được dưỡng
bệnh ở những nước phát triển. Lâu dần việc này đã trở nên không còn độc quyền
cho người chữa bệnh nữa mà dành cho những khách hàng của khách sạn. Với
giáo trình World Of Resort – From Development to Management của Tiến sĩ
Chuck Yim Gee – hiện đang là thành viên trong ban quản trị của hệ thống mười
trường Đại học Hawaii, ông đã định nghĩa resort rằng “Resorts are typically
destination properties or are associates with destination or particular activities.
Resorts exist to provide pleasure to their users” ( Tạm dịch là “Resort thường là
những điểm đến hoặc là điểm đến kết hợp với các hoạt động cụ thể. Resort tồn tại
nhằm mục đích cung cấp những dịch vụ vui chơi giải trí, các tiện nghi chăm sóc
sức khỏe cho khách hàng”). Từ điển Tiếng Anh lại dịch nghĩa: “Resort là nơi thu
hút khách đến vì mục đích thư giãn và giải trí”.
Một trong những yếu tố cấu thành quan trọng về tổ chức không gian hoạt
động du lịch và cơ sở lưu trú, sản phẩm quan trọng của du lịch Việt Nam là Khu
du lịch, Khách sạn nghĩ dưỡng (Hotel Resort), Làng du lịch (Tourist village) có
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 3
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
tính chất và đặc điểm tương tự với Resort trên thế giới. Luật Du lịch Việt Nam
năm 2005 cũng đã giải thích các từ ngữ trên như sau:
Khu du lịch:“là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du
lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường”.
Khách sạn nghỉ dưỡng (hotel resort): “là khách sạn được xây dựng thành
khối hoặc thành quần thể các biệt thự, căn hộ, băng-ga-lâu (bungalow) ở khu
vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí, tham
quan của khách du lịch”.
Làng du lịch (tourist village): “là cơ sở lưu trú du lịch gồm tập hợp các biệt
thự hoặc một số loại cơ sở lưu trú khác như căn hộ, băng-ga-lâu (bungalow) và
bãi cắm trại, được xây dựng ở nơi có tài nguyên du lịch, cảnh quan thiên nhiên
đẹp, có hệ thống dịch vụ gồm các nhà hàng, quầy bar, cửa hàng mua sắm, khu
vui chơi giải trí, thể thao và các tiện ích khác phục vụ khách du lịch”.
Như vậy có thể thấy có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về Resort
và trong bản chuyên đề này khái niệm về Resort có thể được hiểu như sau:
“ Resort là loại hình khách sạn được xây dựng độc lập thành khối hoặc thành
quần thể gồm các biệt thự, căn hộ du lịch; băng-ga-lâu (bungalow) ở khu vực có
cảnh quan thiên nhiên đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí, tham quan du
lịch”.
1.1.2.
Đặc điểm kinh doanh resort.
Theo thống kê của Tổng cục du lịch Việt Nam thì năm 2009 tổng lượt khách
quốc tế đến Việt Nam ước đạt 3.772.359 lượt khách, trong đó lượt khách quốc tế
đến Việt Nam theo mục đích du lịch, nghỉ ngơi là 2.226.440 lượt khách chiếm
59%. Tương tự năm 2010 tổng lượt khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt
5.049.855 lượt khách, trong đó lượt khách quốc tế đến Việt Nam theo mục đích
du lịch, nghỉ ngơi là 3.110.415 lượt khách chiếm 61,6%. Đến năm 2011 tổng lượt
khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 6.014.032 lượt khách, trong đó lượt khách
quốc tế đến Việt Nam theo mục đích du lịch, nghỉ ngơi là 3.651.299 lượt khách
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 4
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
chiếm 60,7%. Các số liệu thống kê trên cho thấy rằng lượng khách đến Việt Nam
theo mục đích du lịch, nghỉ dưỡng ngày càng nhiều, họ cần thư giãn tinh thần,
phục hồi thể lực, trí lực nên có xu hướng chọn những nơi yên tĩnh, cảnh quan
thiên nhiên tươi đẹp và có thể đáp ứng mọi nhu cầu của họ để nghỉ ngơi. Vậy
nên, các khách sạn, resort ở ven biển hay ở khu đồi núi luôn là sự lựa chọn ưu
tiên của họ bởi resort là nơi có khả năng đáp ứng những nhu cầu trên của khách
hàng.
Đặc biệt để tổ chức các hoạt động kinh doanh trong resort thì phải cần một
không gian có diện tích rộng lớn, xung quanh là hồ bơi, phòng gym, massage,
khu ẩm thực, khu biểu diễn nghệ thuật…
a. Phù hợp với đối tượng là khách hàng mục tiêu của resort
Trước khi xây dựng Resort, các nhà đầu tư phải xác định được khách hàng
mục tiêu của mình là ai, nhu cầu hưởng thụ và khả năng chi trả của họ cho các
loại hình dịch vụ trong Resort như thế nào. Sự phân đoạn thị trường khách hàng
mục tiêu sẽ giúp cho nhà đầu tư đưa ra ý tưởng đầu tư xây dựng và khai thác hợp
lý. Nếu không phân định rõ khách hàng mục tiêu ngay từ đầu sẽ gặp khó khăn
trong hoạt động marketing sau này. Ví dụ các Resort từ 4 đến 5 sao sẽ phù hợp
với khách hàng mục tiêu là những người có nhu cầu hưởng thụ, có khả năng chi
trả cao hoặc cũng là Resort 5 sao như nhau nhưng một bên hướng vào khách
hàng mục tiêu là các cơ quan, doanh nghiệp, công ty chuyên tổ chức hội nghị, hội
thảo, một bên xác định khách hàng mục tiêu là những người có nhu cầu tham gia
các hoạt động vui chơi giải trí để thể hiện đẳng cấp.
b. Kinh doanh resort phụ thuộc vào tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch
Mỗi địa phương hoặc vùng miền sẽ có một dạng địa hình khác nhau do thiên
nhiên ban tặng, vậy nên khi xây dựng Resort các nhà đầu tư cần chú trọng đến
yếu tố hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên và kiến trúc xây dựng. Cũng chính
việc khai thác cái riêng, cái đặc thù của địa phương sẽ giúp nhà thiết kế có những
ý tưởng mới lạ tạo nên sự hấp dẫn riêng của khu Resort.
c. Kinh doanh resort đòi hỏi dung lượng vốn đầu tư lớn
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Hiện nay phần lớn hình thức tổ chức kinh doanh Resort chủ yếu ở Việt Nam
là hình thức liên doanh nước ngoài hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Diện tích các Resort thường từ 1 hécta tới 40 hécta và diện tích ngày càng được
mở rộng vì đặc trưng của khu Resort thường là các khu vực có không gian rộng
rãi và thoáng đãng nên chi phí cho việc xây dựng, đất đai đã làm cho chi phí đầu
tư vào Resort cao. Ngoài ra do yêu cầu về chất lượng cũng như sự đồng bộ của
cơ sở vật chất trong Resort đòi hỏi nhà đầu tư phải bỏ ra một lượng vốn khá lớn.
d.
Lực lượng lao động trực tiếp trong Resort tương đối lớn
Trong kinh doanh Resort thì nhân tố con người là quan trọng nhất. Kinh
doanh Resort là kinh doanh các sản phẩm dịch vụ, mà dịch vụ thì yêu cầu sự tiếp
xúc giữa người và người. Có thể máy móc trang thiết bị vật chất kỹ thuật tạo ra
sản phẩm nhưng nó vẫn cần đến con người để mang sản phẩm phục vụ khách
hàng.
Tính chuyên môn hóa giữa các khâu trong chăm sóc phục vụ khách hàng
tương đối lớn, điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận
với nhau. Thời gian lao động của lao động trực tiếp trong Resort phụ thuộc vào
hành vi tiêu dùng của khách hàng, khi nào có cầu thì sẽ tạo ra cung tại chỗ vì các
dịch vụ không thể sản xuất hàng loạt, đồng bộ và lưu kho được. Khách hàng
Resort không mua sản phẩm cụ thể là phòng ngủ hay thức ăn, đồ uống. Khách bỏ
tiền ra để mua cung cách phục vụ chuyên nghiệp, sự trải nghiệm du lịch do chính
nhân viên Resort mang lại. Do vậy nó đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp
tương đối lớn.
e.
Kinh doanh Resort mang tính quy luật
Kinh doanh Resort có thể phụ thuộc vào một số quy luật như: quy luật tự
nhiên, quy luật kinh tế xã hội, quy luật tâm lý con người…
Lượng khách đến du lịch tại một điểm du lịch, một khu du lịch nào đó nhiều
hay ít phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch, hệ thống các sản
phẩm du lịch, dịch vụ, cơ sở hạ tầng giao thông và khí hậu, thời tiết tại nơi đó.
Những yếu tố trên sẽ tạo ra tính mùa vụ trong du lịch, đặc biệt là các Resort nghỉ
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
dưỡng ven biển hoặc núi. Chẳng hạn như tài nguyên du lịch biển ở Đà Nẵng rất
hấp dẫn, hệ thống sản phẩm du lịch, cơ sở giao thông hạ tầng tốt nên mùa khô sẽ
có nhiều khách du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, ngược lại mùa mưa bão khách sẽ
ít hơn. Vậy thì chính yếu tố thời tiết đã tạo nên tính mùa vụ trong du lịch.
Ngoài ra, hoạt động của các Resort ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
- Một là, về hình thức tổ chức kinh doanh: các Resort chủ yếu là hình thức
liên doanh nước ngoài hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nhờ vậy, tạo
điều kiện cho những tập đoàn chuyên kinh doanh Resort đem tới kinh nghiệm
quản lý tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động của các khu Resort.
- Hai là, về cơ sở vật chất kỹ thuật: do các khu Resort được xây dựng ở các
vùng biển hoặc các nơi có tài nguyên du lịch nên kiến trúc của các khu Resort
thường là các khu nhà thấp tầng, mang tính gần gũi với môi trường, gần gũi với
thiên nhiên nhưng vẫn đảm bảo tới sự sang trọng, tiện nghi. Diện tích các Resort
thường từ 1 hécta tới 40 hécta và diện tích ngày càng được mở rộng vì đặc trưng
của khu Resort thường là các khu vực có không gian rộng rãi trong đó diện tích
xây dựng thường chiếm tỷ lệ nhỏ.
- Ba là, về cách thức tổ chức quản lý: thường áp dụng theo tiêu chuẩn của các
tập đoàn nước ngoài, trong đó một số Resort đã áp dụng bộ phận chuyên trách
quản lý công tác môi trường.
- Bốn là, về chất lượng lao động: hầu hết các Resort là cơ sở hạng cao sao nên
chất lượng tuyển chọn người lao động được chú trọng nhằm đảm bảo chất lượng
dịch vụ của cơ sở.
Bên cạnh đó, để tạo được “cái Hồn” cho Resort, các Resort cần phải phát huy
các đặc điểm sau:
- Mỗi Resort phù hợp với một loại khách:
Sự phân biệt rõ ràng các đối tượng phục vụ sẽ giúp cho nhà đầu tư đưa ra
những ý tưởng đầu tư và khai thác. Không thể nói rằng phải xây dựng một khu
khách sạn nghỉ dưỡng chung chung mà phải tập trung cho một số đối tượng nhất
định. Chính vì thế mà phân chia ra các loại Resort như 4 sao, hay 5 sao…Resort
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Mũi Né, Furama-Đà nẵng là loại Resort 5 sao, Vạn chài - Sầm sơn là Resort 4
sao…
- Gắn liền với đặc thù địa phương:
Khai thác cái riêng, cái đặc thù của địa phương đã đem lại cho nhà đầu tư
cũng như nhà thiết kế những cứu cánh cho việc tìm ra sự hấp dẫn riêng của khu
Resort. Điều này đòi hỏi sự sâu sắc trong suy nghĩ của chủ đầu tư. Sâu sắc là bởi
vì, có khi, chỉ vì hăng say khai thác cái đặc thù vô hình trung nhà đầu tư và người
thiết kế đã làm mất đi cái duyên đã có sẵn mà thiên nhiên đã ban tặng.
- Chất liệu sử dụng trong kiến trúc là “ Diễn viên chính”:
Người nông thôn lên thành thị thì mong tìm sự thích thú trong tiện nghi, chất
liệu sang trọng. Người thành thị tránh gần máy lạnh, nền bóng loáng…mà tìm
đến hương đồng gió nội, gạch tàu, ghế tre. Hãy suy nghĩ đúng về chất liệu sử
dụng cho từng đối tượng.
Làn sóng xây dựng các khu nghỉ dưỡng (Resort) ở Việt nam nói riêng và các
nước trong khu vực nói chung đã tạo ra sự cạnh tranh không những đáp ứng nhu
cầu mà còn tạo ra nhu cầu. Nghĩa là người ta đã vô hình trung nâng dần nhu cầu
tận hưởng những phương tiện của nghành công nghiệp không khói-du lịch nghỉ
dưỡng. Bởi vậy nên trong thời gian ngắn mà Vũng Tàu, Mũi né, Sầm sơn, Nha
Trang, Hội an, Phú quốc đã mọc lên vô số những khu nghỉ dưỡng. Những khu
Resort ở Bali, Indonesia, Phuket-Thái Lan đã trở thành những ví dụ điển hình
cho những minh họa mà hầu hêt các chủ đầu tư đều hướng tới. Nhà tranh, vách
đất, mái lá, lu nước, bánh xe bò, tàu lá chuối..là những chất liệu và vật dụng được
sử dụng trong Resort.
Việc kinh doanh Resort khác hẳn với kinh doanh khách sạn thông thường, khi
kinh doanh resort, các nhà đầu tư cũng chú ý các đặc điểm này để đạt hiệu quả
cao nhất trong việc thiết kế, xây dựng chương trình hoạt động và thu hút khách.
Bảng 1.1 Khác biệt giữa khách sạn và khu nghỉ dưỡng.
KHÁCH SẠN
1
Phong cách thiết kế của
khách sạn dầy, tận dụng mặt
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
RESORT
Phong cách thiết kế của Resort chỉ xây dựng từ
40-50% diện tích mặt bằng, phần còn lại dành cho
Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
bằng cho kinh doanh, hệ số xây cây xanh, bãi cỏ, ao, hồ, suối, đường đi dạo bãi
dựng cao so với diện tích đất
biển, sinh hoạt ngoài trời. Ngoài nhà khối nhiều
đai vốn không rộng lắm,
phòng (nhưng tối đa ba tầng), còn lại là loại hình
thường xây cao tầng.
Villa trết hay Bungalow xen lẫn sân, vườn.
Phòng gọi theo số thứ tự.
Tên phòng, bungalow thường đặt tên theo hoa,
trái, chim.
2
Triết lý điều hành: áp dụng
Coi trọng việc thúc đẩy sáng tạo ở người quản
máy móc các quy trình đã lập
lý trung gian các cấp. Chỉ xây dựng một “khung
ra, ít chịu thay đổi, xem việc
quản lý” chung nhưng rộng rãi, để cho cấp dưới
tuân thủ quy trình là tiêu chí
“linh hoạt”.
“Khuôn vàng thước ngọc”
3
Về sản phẩm: khách sạn
Resort vừa cung cấp dịch vụ lưu trú, ăn uống,
cung cấp chủ yếu dịch vụ lưu
nhưng phải có các hoạt động vui chơi, giải trí để
trú, ăn uống. Có nhiều nơi
khách không phải ra ngoài tìm các thú vui. Lại còn
không có dịch vụ vui chơi giải
phải có các loại hình sinh hoạt (Animation) như đốt
trí, để việc này cho khách tự lo
lửa trại, bóng chuyền trên bãi biển, bơi thuyền, câu
và ra ngoài. Một số nơi có
cá và những trò vui nhộn khác. Chăm lo cho khách
nhưng lại giới hạn về nội dung
từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ.
(Karaoke, Bar, Massage..)
4
Khách ở khách sạn gần như
Resort xây dựng một chính sách đối xử có
sẵn sàng chấp nhận một cung
“cung bậc”, theo nguyên tắc “value for money”
cách phục vụ thống nhất, từ
(sản phẩm tương thích với số tiền bỏ ra).Người thuê
người ở phòng Suite đến người
loại hình lưu trú Villa có người phục vụ riêng
ở phòng Standard.
(Butler). Còn người thuê phòng thường không được
dịch vụ ấy.Khách thuê Villa làm thủ tục tại Villa,
khách thường làm thủ tục tại quầy lễ tân.
5
Khách của khách sạn dành
Khách dành toàn bộ thời gian trong ngày ở
ít thời gian trong khách sạn.
trong khu resort: trong phòng ngủ, phòng ăn, các
Thường thì ngoài 8 giờ để ngủ,
khu vui chơi, giải trí, các khu sinh hoạt và xem
họ chỉ dành một số thời gian
cảnh quan.Vì resort phần lớn rất rộng, vả lại các
khác ăn uống... trong khách
khu nghỉ dưỡng thường nằm xa khu dân cư.
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
sạn. Số giờ còn lại họ đi ra
ngoài.
6
Trong một khách sạn, yếu
tố nghỉ dưỡng rất mờ nhạt
Yếu tố nghỉ dưỡng là mục tiêu chính của khách,
nên khong khí tĩnh mịch và trong lành là sự chọn
lựa hàng đầu của khách. Môi trường, cảnh quan
cũng phải khuyến khích sự suy tư, tịnh dưỡng. Ở
nhiều nơi trên thế giới, resort phải gắn liền với nhu
cầu “xa lánh sự vội vã” hàng ngày, hay nhu cầu
điều trị một bệnh về tâm lý nào đó.
7
Khách sạn hoạt động 7
Resort thường hoạt động 2, 3 ngày cuối tuần.
ngày /tuần, 365 ngày/ năm, nên
Thâm chí có Resort chỉ hoạt động theo mùa nên
vấn đề sử dụng lao động không
khó trong việc xây dựng một bộ máy không phí
khó và ổn định.
phạm. Vì vậy ngoài một số nhân viên lãnh lương
toàn thời gian, một số lớn nhân viên là lao động
thời vụ. Nên vấn đề đào tạo tay nghề khá vất vả,
phải làm lại đối với mỗi mùa hoạt động, vì có nhiều
nhân viên mới.
8
Trong khách sạn thường
Trong Resort,ngoài hai không gian chung và
phân biệt thành hai không
riêng nêu trên còn có những không gian riêng mở
gian:
rộng(bãi cỏ,nơi tắm riêng).Ngoài ra còn có không
-Không gian riêng (phòng
ngủ)
-Không gian chung
gian để tham quan (các vườn hoa),để sinh hoạt
ngoài trời (bãi biển),thư viện,phòng chiếu phim,khu
giải trí,sân chơi chủa trẻ em (kid play ground)...
(sảnh,nhà hàng...)
9
Khách sạn là một đơn vị
Resort là một không gian mở, nhưng thách thức
khép kín :một lối vào ra cho
về an ninh và an toàn cũng cao. Không những phải
khách, một lối vào ra cho nhân
kiểm tra ngăn chặn các tác nhân gây hại thấy được
viên và tiếp phẩm, nên dể kiểm
(trộm, phá hoại,..) mà còn phải ngăn chặn các tác
soát, bảo vệ.
nhân khó thấy (muỗi,côn trùng các loại ,nấm độc
rắn....). Phần lớn các resort biển, rừng có rào, cổng
phía trước, rào hai bên; nhưng phía tiếp với rừng
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
với biển lại khó rào.
10
Đối với bộ phận kinh
Trong resort, sản phẩm ăn uống thuộc phạm trù
doanh ẩm thực :khách sạn
“nghệ thuật ẩm thực”(gastronomy), tính khoa hoạc
giống như resort là có các nhà
dinh dưỡng cao, trình bày đẹp hơn, sử dụng các
hàng cung cấp sản phẩm ẩm
dụng cụ phục vụ ( đĩa,chén....)cao cấp hơn.
thực của các nền bếp khác
Và cũng vì yếu tố nghĩ dưỡng nên đầu bếp ở
nhau. Tuy nhiên, phần lớn các
resort phải nắm vững các nguyên tắc khoa học dinh
khách sạn cung cấp sản phẩm
dưỡng để xây dựng các thực đơn đặc biệt (người ăn
ẩm thực ở mức độ “chế biến”,
kiêng = Diet Menu; người hưởng tuần trăng mật =
chứ không phải ở mức độ
Honey moon Menu; Món ăn để phục hồi sau căn
“nghệ thuật ẩm thực”(Product
bệnh = Convalescence Menu).
of gastronomy).
Trên thế giới người ta quen với khái niệm
Resort không thể tách rời văn hóa bản địa, nên
khách thường đòi hỏi các thực đơn độc đáo của
vùng.
11
Về yếu tố trang trí: trong
Trong các Resort, người ta thường chú ý nhiều
các khách sạn quốc tế người ta
đến yếu tố bản địa, những nét mộc mạc (cái lu, gáo
thường chọn yếu tố sang trọng
nước, gạch nung thô). Ngoài ra còn chú trọng đến
và cực kỳ hiện đại.
những gì gần với thiên nhiên để trang trí. Lẽ dĩ
nhiên, phòng ốc, buồng tắm phải có thiết bị hiện đại
mà khách quen sử dụng.
Chính các yếu tố trang trí sẽ tạo hồn cho khu
nghỉ dưỡng.
12
Tổ chức sinh hoạt và vui
chơi giải trí: Có khách sạn
Trong các khu nghỉ dưỡng, các sinh hoạt vừa
tạo hồn, vừa là nguồn thu lớn, vừa tránh sự nhàm
không có hẳn dịch vụ này, phần chán. Người ta có thể liệt kê như sau:
lớn có tổ chức nhưng chỉ giới
hạn ở hoạt động câu lạc bộ cho
khách quen.
- Các hoạt động giải trí thông thường (karaoke,
ca nhạc, khiêu vũ...).
- Các hoạt động phục vụ nghỉ dưỡng, điều trị
( Sauna, Massage, spa, yoga, đánh cờ....), chăm sóc
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
sắc đẹp.
- Các hoạt động mang tính chất xã hội như hoạt
động câu lạc bộ, học tập ( học nấu ăn...).
- Các hoạt động du khảo quanh vùng có hướng
dẫn viên nhằm việc khám phá.
- Hoạt động chăm sóc trẻ em khi cha mẹ bận
công việc (Baby sitting, kể chuyện, bày trò chơi...).
1.1.3.
Ý nghĩa hoạt động kinh doanh resort.
Kinh doanh Resort là một trong những hoạt động chính của ngành du lịch và
thực hiện những nhiệm vụ quan trọng của ngành.
a. Về phương diện kinh tế
- Góp phần tăng trưởng GDP của vùng và của quốc gia
Thông qua kinh doanh lưu trú và ăn uống, vui chơi giải trí một phần trong
quỹ tiêu dùng của người dân được sử dụng vào việc tiêu dùng các sản phẩm,
hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp Khách sạn, Resort tại điểm du lịch. Như vậy
nó sẽ có sự phân phối quỹ tiêu dùng từ nơi này sang nơi khác góp phần tăng
trưởng GDP của khu vực và quốc gia.
-
Tăng cường vốn đầu tư trong và ngoài nước, huy động được vốn nhàn
rỗi trong dân cư.
Với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, con người thân thiện, hiền hoà
và nền chính trị hoà bình, ổn định, Việt Nam hiện nay là thị trường mục tiêu
hướng đến của các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư về các lĩnh vực dịch
vụ, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng…Từ đó các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài liên
tục đổ vào Việt Nam, đồng thời với các nhà đầu tư trong nước cũng sẽ huy động
vốn của mình để đầu tư nhằm mục đích sinh lợi nhuận trong tương lai.
- Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Đặc thù của ngành kinh doanh Resort là cần một khối lượng lớn lao động làm
việc ở các bộ phận khác nhau để đảm bảo các hoạt động phục vụ khách hàng
diễn ra một cách thông suốt và nhanh chóng. Tuy nhiên để tối đa hoá lợi nhuận
và tối thiểu hoá chi phí thì các resort sẽ ưu tiên tuyển dụng nhân lực có sẵn tại địa
phương, điều đó tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lao động tại chỗ.
- Góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển
Hằng ngày các Resort tiêu thụ một số lượng lớn sản phẩm của các ngành như
công nghiệp nặng ( các loại máy móc trang thiết bị), công nghiệp thực phẩm
( các loại thực phẩm sử dụng hàng ngày), ngành bưu chính viễn thông ( Internet,
mail, fax…), ngành ngân hàng và thủ công mỹ nghệ... Khi lượng sản phẩm tiêu
thụ càng nhiều thì kích thích các ngành trên sản xuất càng nhiều sản phẩm đáp
ứng nhu cầu tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
b. Về phương diện xã hội
Thông qua việc đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi trong thời gian đi du lịch của con
người, kinh doanh Resort góp phần gìn giữ và phục hồi khả năng lao động và
sức sản xuất của người lao động.
Hoạt động kinh doanh Resort còn làm tăng nhu cầu tìm hiểu, khám phá,
nghiên cứu về các di tích lịch sử văn hoá của đất nước và các thành tựu của công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước do cha ông ta ngày xưa để lại, góp phần giáo
dục lòng yêu nước và nêu cao lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ.
Khi xã hội ngày càng văn minh, phát triển thì nhu cầu muốn giao lưu, gặp
gỡ, kết bạn giữa các quốc gia, các châu lục ngày càng lớn. Bên cạnh việc giao
lưu qua các phương tiện truyền thông thì hiện nay các Khách sạn, Resort cũng là
địa điểm được nhiều khách du lịch lựa chọn. Điều này làm tăng ý nghĩa vì mục
đích hoà bình, hữu nghị và tính đại đoàn kết giữa các dân tộc với nhau. Hơn nữa
đây còn là nơi chứng kiến những sự kiện ký kết các hợp đồng làm ăn, các văn
bản chính trị kinh tế quan trọng trong nước và thế giới. Vì vậy kinh doanh Khách
sạn, Resort đóng góp tích cực cho sự phát triển giao lưu giữa các quốc gia và dân
tộc trên thế giới trên nhiều phương diện khác nhau.
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Và cuối cùng việc phát triển hoạt động kinh doanh Resort sẽ tạo nên cảnh
quan sang trọng, tăng tính thẩm mỹ trong một vùng, một quốc gia, nâng cao cơ
sở hạ tầng tại địa phương.
1.1.4.
Hệ sản phẩm của Resort.
Không giống như sản phẩm của khách sạn, Resort vừa cung cấp dịch vụ lưu
trú, ăn uống, nhưng phải có các hoạt động vui chơi, giải trí để khách không phải
đi ra ngoài tìm các thú vui. Lại còn phải có các loại hình sinh hoạt (Animation)
như đốt lửa trại, bóng chuyền trên bãi biển, bơi thuyền, câu cá và những trò chơi
vui nhộn khác. Chăm lo cho khách từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ.
- Dịch vụ lưu trú: trong resort cần tạo sự thoải mái cho khách tận hưởng. Một
nơi tuyệt đối an toàn, không ồn ào, bon chen, không khí trong lành luôn có người
phục vụ theo dõi khách từ xa và sẽ xuất hiện khi khách cần. Theo đó, người ta
phân loại phòng như sau:
+ Các loại hình truyền thống: đó là các phòng, từ cực kỳ sang trọng đến phổ
thông. Loại phòng phổ thông có diện tích 30-35 mét vuông, gọi là phòng
Superior. Loại phòng rộng hơn, 40-45 mét vuông gọi là Delux. Loại cao cấp,
rộng từ 65-75 mét vuông phân chia thành nhiều không gian: hai phòng ngủ,
không gian sinh hoạt gia đình, không gian tiếp khách, loại phòng này thường gọi
là Suite, có thể rộng đến 100 mét vuông, bên trong chia thành nhiều không gian
khác nhau, không những cho thành viên gia đình mà còn chỗ cho thư kí, vệ sĩ…
Phần lớn các phòng cao cấp đều có “ban công”, khách có thể sử dụng đặt bàn
uống café, đọc báo hoặc phơi nắng. Đối với phòng hạng Superior nếu không có
“ban công” thì tối thiểu phải có của sổ lớn, nhìn ra cảnh quan khu nghỉ dưỡng.
+ Các loại hình mới: Vào cuối thế kỷ XIX, các khu nghỉ dưỡng có xây loại
hình Biệt thự (Villa) riêng rẽ, có rào bao quanh, bên trong có bãi cỏ. Những gia
đình muốn hưởng không khí trong lành, trong sự riêng tư hay thuê dạng này. Ở
một số vùng, người ta xây dựng loại hình kiến trúc là “Bungalow”, với tàng trệt
là nơi sinh hoạt gia đình, trẻ em nô đùa. Xung quanh có bồn cỏ, có thể có hồ bơi
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
nhỏ. Tầng trên là các phòng ngủ. Đặc điểm là có “Ban công” hoặc hành lang bao
quanh tầng trên, nơi đây khách có thể ngồi tắm nắng, ngắm cảnh.
Đến các năm cuối thế kỷ XX, một số khu nghỉ dưỡng xây thêm các kiến trúc
cao tầng ( tối đa 4 tầng) với các căn phòng rộng khoảng 80-100 mét vuông, trang
bị đầy đủ cho một gia đình đến ở, trong đó có bếp, phòng ăn, ít nhất hai phòng
ngủ, phòng tắm, phòng giặt đồ. Họ gọi đó là “Condotel” hoặc “Hotel-Condo”.
Một số khách lơn tuổi hoặc đã nghỉ hưu, thường mua để ở trong nhiều tháng và
khi không sử dụng, giao lại cho khu nghỉ dưỡng cho thuê để thu hồi vốn.
Trang thiết bị trong phòng thường đầy đủ tiện nghi như điều hòa nhiệt độ-Bồn
tắm, vòi sen. Riêng các phòng Suite sang trọng có thể gắn bồn tắm thủy lực
( Jacuzzi) -Dịch vụ internet, điện thoại trong phòng và phòng tắm – Két sắt an
toàn – Tủ Minibar – Truyền hình cáp – Các tủ đựng quần áo, bàn viết, bàn trang
điểm cho phụ nữ - Giá để hành lý .
Giường tùy theo hạng mà có các tiêu chuẩn khác nhau. Giường tiêu chuẩn
(rộng 1,2 mét), giường đôi (1,4 mét), giường Queen ( 1,6 hoặc 1,8 mét), giường
King (2 mét). Trên giường có nệm, drap, gối. Riêng gối cũng theo đẳng cấp của
khu nghỉ dưỡng và loại phòng. Phổ biến là gồi gòn, mút, hơi, hơi chống ngáy…
Nhưng cao cấp nhất là gối lông vũ.
Đồ dùng trong phòng ngủ gồm: dụng cụ pha trà, cà phê, compendium ( tập
bìa cứng, trong đó có giấy viết thư, các chương trình vui chơi giải trí, thực
đơn…).
Đồ dùng trong phòng tắm gồm các bộ khăn, xà phòng, dầu gội đầu, bàn chải
đánh răng và kem. Trong các khu nghỉ dưỡng cao cấp còn có dao cạo râu, nước
hoa, kem chống nắng, kem giữ ẩm cho da, cân sức khỏe…
-Dịch vụ ăn uống: là dịch vụ thu hút được lượng lớn “ngân sách” của khách
trong kinh doanh nghỉ dưỡng. Khi khách đã vào khu nghỉ dưỡng vài ngày, ít khi
muốn ra ngoài, nếu chúng ta có đầy đủ cái mà khách cần, đặc biệt là các bữa ăn
đa dạng, có thay đổi. Bộ phận ẩm thực phải sáng tạo các món ăn không những
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
ngon mà còn lạ lẫm, làm cho khách vừa thích thú, vừa ngạc nhiên. Theo đó, dịch
vụ ăn uống trong khu nghỉ dưỡng có những chuẩn riêng.
+ Những món ăn, thức uống không những phải ngon mà còn phải là một tác
phẩm nghệ thuật trong việc lực chọn chén, đĩa, trang trí, mùi vị.
+ Ngoài việc chế biến món ăn, còn cần các yếu tố khác thu hút khách. Đó là
thực đơn, hình thức phục vụ, nơi phục vụ và hầm rượu. Phải để cho khách thấy
được tài nghệ của đội ngũ nhà bếp, vừa đóng vai trò “ Đại sứ văn hóa ẩm thực”.
+ Kinh doanh ẩm thực tại khu nghỉ dưỡng còn tìm được thêm doanh thu qua
dịch vụ “dọn ăn tại phòng”. Ngoài ra, khách ở các biệt thự gần khu nghỉ dưỡng
có thể nhờ bộ phận Ẩm thực đến phục vụ cho tiệc tùng. Đây vừa là cơ hội tăng
doanh thu cho bộ phận, vừa quảng bá cho thương hiệu, và về mặt tâm lý khách
có tiền thích chứng tỏ “ đẳng cấp” nên không ngại chi thêm cho “phục vụ phí”
đặc biệt.
- Dịch vụ chăm sóc sức khỏe: gồm các dịch vụ spa, trung tâm thể dục, thể dục
dưới nước, tắm nắng, tắm bùn, tắm cát…Khách của các khu nghỉ dưỡng thường
đi với mục đích nghỉ ngơi và hồi phục sức khỏe, vì vậy đây là bộ phận quan
trọng làm khách đạt được cái mình muốn. Các dịch vụ này cần có trang thiết bị
hiện đại, đạt chuẩn, nhân viên là chuyên gia và người bạn tâm giao khi chăm sóc
và trị liệu cho khách.
-Dịch vụ vui chơi giải trí: gồm các hoạt động ngoài trời và trong nhà, nhằm
mục đích thu hút, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vui chơi, nghỉ ngơi của khách ngay
trong khu nghỉ dưỡng mà không cần phải ra ngoài tìm kiếm.
1.2.
“ Khu chợ quê dân gian”.
1.2.1 Khái niệm khu chợ quê dân gian trong văn hóa truyền thống Việt
Nam.
Nhắc đến chợ, ai cũng biết là nơi gặp nhau, giao lưu giữa những người cần
bán hàng hóa và người tiêu dùng cần mua. Nhiều người cho rằng chợ khởi nguồn
từ việc các sản phẩm làm ra không dùng hết, cần trao đổi với người khác để lấy
những thứ mình cần mà không làm ra được.
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Đối với người Việt Nam,chợ là nơi rất đặc biệt. Ở chợ diễn ra mọi sinh hoạt
thường ngày qua cách ứng xử, cách ăn uống… ở miền xuôi cũng như miền
ngược, qua những điều ấy thể hiện nét văn hóa độc đáo từng vùng dân cư khác
nhau.
Với người miền núi, đi chợ là đi hội, họ xuống chợ với những bộ quần áo đẹp
nhất, đi chợ để giải tỏa những mệt nhọc sau những ngày làm việc, tìm người tình,
tìm bạn.
Chợ quê dân gian trong văn hóa truyền thống Việt Nam là hoạt động trao đổi
hàng hóa, các sản phẩm “cây nhà lá vườn” cho nhau, bên cạnh việc tìm nơi giao
lưu, học hỏi với quy mô nhỏ của một làng, xã.
1.2.2 Đặc điểm Khu chợ quê dân gian trong văn hóa truyền thống Việt
Nam.
Nhìn chung, chợ quê dân gian trong văn hóa truyền thống Việt Nam thường
có các đặc điểm sau:
-
Chợ thường được diễn ra ở địa điểm trung tâm làng. Với làng quê Việt,
nơi tập trung trao đổi, giao lưu cần phải thuận tiện cho việc đi lại và là nơi thu
hút được mọi người dân trong làng. Trung tâm làng thường được chọn để họp
chợ, và là nơi sinh hoạt chung, ai cũng có quyền tham gia của làng.
-
Sản phẩm được đem ra bán là “cây nhà, lá vườn”, các sản phẩm như
lúa, khoai, trái cây, áo quần, cuốc xẻng… đều là sản phẩm của gia đình làm ra và
được đem ra trao đổi, quy đổi lấy hàng hóa khác về sử dụng. Các sản phẩm
thường không có thương hiệu, tên hiệu như các sản phẩm bây giờ. Có chăng, tên
sản phẩm được lấy theo tên của người chủ tạo ra nó, như nón lá ông Tư, ổi bà
Ba… những tên gọi rất gần gũi, mộc mạc.
-
Chợ quê thường họp rất sớm, nhiều làng chợ họp từ 5 giờ sáng, cũng có
làng muộn hơn. Không phải ngẫu nhiên mà chợ được họp sớm như vậy, đó là
tính chất công việc, thói quen của người dân quê. Người dân thường đi chợ rất
sớm, mua thức ăn cho cả ngày để còn đi làm ruộng, cấy cầy, chăn trâu, chăn bò.
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Cũng do ảnh hưởng thói quen đó mà chợ làng thường chỉ họp vào buổi sáng và
tan rất sớm và khoảng 9 hay 10 giờ thì chợ đã tan.
-
Chợ quê không chỉ dừng lại ở việc trao đổi hàng hóa, đây còn là những
nét văn hóa làng quê được thể hiện qua đời sống hằng ngày của người dân quê.
Thông qua hoạt động mua, trao đổi thông tin mà chợ trở thành nơi các phong tục
văn hoá khác nhau tìm đến tiếng nói chung. Một phần đời sống của người dân
quê được khắc hoạ và thể hiện qua cái chợ làng. Từ tương, cà, mắm, muối, đến
vải vóc áo quần, hàng khô, hàng tươi… đều có mặt đầy đủ với nhiều chủng loại
phong phú phục vụ nhu cầu sinh hoạt ngày càng khá giả, thịnh vượng hơn của
làng quê . Dù còn mang nặng tính tự túc, tự cấp nhưng chợ quê không phải vì thế
mà đơn điệu, lạc lõng với thế giới bên ngoài. Người mua, kẻ bán, tất thảy đều xởi
lởi, vui vẻ, có khi còn đùa tếu pha trò. Cụ già ngồi bán buồng cau, tiếp thị độc
đáo bằng miếng trầu cánh phượng têm rất khéo đặt bên cạnh lát rễ chay và quả
cau bổ tư tươi rói, người không biết ăn trầu nhìn cũng thấy hấp dẫn.
Người dân trong làng đã quen với tiếng mời mua hàng của các bà hàng rau,
hàng thịt... Tiếng nói chuyện, ở góc nọ, góc kia của chợ, thậm chí cả tiếng chửi
nhau của người bán và người mua. Đó là những cảm xúc rất thường nhật, là cái
hiện hữu vô hình nhưng lại không thể thiếu. Người dân quê quen mặt hết các bà
bán hàng, vì họ chẳng phải ai xa lạ, không là người trong làng thì cũng là người
làng khác. Mà có là người làng khác thì cũng trong một xã, họ quen nhau. Vì vậy
hôm nay thấy bà bán rau không đi, chị bán thịt vắng mặt người ta lại hỏi thăm
nhau.
Nhắc đến chợ làng phải nhắc đến chợ làng những ngày Tết. Chợ làng ngày
Tết còn là dịp gặp gỡ của những người xa xứ. Người Việt có một đặc điểm dù đi
đâu, làm gì và ở đâu thì hết năm thường về quê ăn Tết. Người xa quê thích nhất
được đi sắm tết ở chợ làng, họ muốn mua những nải chuối quê, những quả cau, lá
trầu để cúng tổ tiên. Rồi họ đổ nhau đi mua lá dong, lá chuối về gói bánh chưng,
bánh gai, mớ rau, củ hành để ăn trong ba ngày tết. Tất cả đều là sản phẩm của
những người dân quê.
Chính vì vậy, Chợ quê đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
triển văn hoá làng. Nó không chỉ tồn tại như một sự việc được tái hiện hàng ngày
mà nó còn là một nét văn hóa được truyền từ đời này qua đời khác.
1.2.3
Phân loại Khu chợ quê dân gian trong văn hóa truyền thống Việt
Nam.
Thường thì Khu chợ quê dân gian trong văn hóa truyền thống Việt Nam được
chia theo các tiêu chí khác nhau như theo động cơ đi chợ ( chợ trao đổi hàng hóa,
vật chất; chợ tình; chợ tâm linh), theo thời gian ra đời (chợ cổ, chợ mới), theo
thời gian họp chợ( chợ hàng ngày, chợ phiên) hay dựa vào thời gian trong
ngày( chợ sáng, chợ chiều, chợ hôm)…Xét theo góc độ văn hóa dân gian trong
khu chợ quê, bài chuyên đề xin được phân theo thời gian ra đời (chợ cổ và chợ
mới), theo đó:
-
Chợ cổ: là loại hình họp chợ dân dã đời thường của người dân với các
sản phẩm được đem ra bán mang đặc trưng của vùng miên, sản phẩm đơn giản
nhưng độc đáo, mang yếu tố giao lưu là chính. Bên cạnh đó, các nghề truyền
thống được hình thành theo sự phát triển của chợ.
-
Chợ mới: là loại hình họp chợ mua, bán hàng hóa là chính. Việc mua bán
thường xảy ra nhanh gọn, yếu tố giao tiếp thường ít. Bên cạnh đó, sản phẩm
thường đa chủng loại, qua nhiều trung gian để đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
1.3.
Xây dựng sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” trong resort.
1.3.1
Khái niệm sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” trong Resort.
Khi xã hội ngày càng phát triển theo lối hiện đại, nhu cầu tìm về và trải
nghiệm văn hóa dân gian, đời thường của du khách ngày càng tăng cao. Các nhà
quản trị Resort lun tìm kiếm và phát triển các dịch vụ mới lạ, mang đậm nét văn
hóa bản địa cho du khách khám phá. Trong đó, các mô hình về đời sống, sinh
hoạt thường ngày của người dân, các phiên chợ làng mang đậm văn hóa Việt
được khai thác tốt. Các mô hình về chợ quê dần được đưa vào trong hệ sản phẩm
của khu nghỉ dưỡng, một phần nhằm tăng cường doanh thu, mặt khác lại quảng
bá văn hóa dân gian Việt Nam đến du khách trong và ngoài nước như ở Hòn
Tằm, Nha Trang; Metropole; Furama…
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Ts. Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Theo đó, “Khu chợ quê dân gian” trong kinh doanh Resort là một mô hình thu
nhỏ các hoạt động giao lưu, buôn bán theo văn hóa dân gian, thuần Việt các sản
phẩm mang đậm nét truyền thống Việt Nam nhằm tạo sự đa dạng trong hệ sản
phẩm của Resort, thu hút chi tiêu của khách nghỉ dưỡng và quảng bá văn hóa
vùng miền đến du khách.
1.3.2
Vai trò của sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” trong Resort.
- “Khu chợ quê dân gian” là một thành phần trong hệ sản phẩm du lịch của
resort nhằm tăng trải nghiệm cho du khách. Là chất kết dính các tài nguyên du
lịch vùng miền và các dịch vụ cốt lõi của sản phẩm resort, nhằm hỗ trợ và làm
cho khu nghỉ dưỡng trở nên hấp dẫn và sôi động hơn, gia tăng giá trị của hệ sản
phẩm khu nghỉ dưỡng.
-
Gia tăng sự hài lòng của du khách về khu nghỉ dưỡng. Trong chuyến đi
nghỉ dưỡng của du khách, thời gian rỗi là rất nhiều, nên nếu không có các dịch
vụ cho khách tham gia, khám phá, du khách sẽ cảm thấy rất mau chán. Mặt khác,
nếu du khách không tìm được các dịch vụ, sản phẩm như mong đợi của mình tại
resort, họ sẽ có cảm giác không hài lòng về khu nghỉ dưỡng.
-
“Khu chợ quê dân gian” cũng là một trong những động lực thúc đẩy có
ảnh hưởng đến khách du lịch trong quá trình lựa chọn resort để nghỉ dưỡng.
Khách nghỉ dưỡng thường tìm về với cái thanh bình của cuộc sống đời thường,
tránh xa sự ồn ào ào của công việc thường ngày, và chợ quê có khả năng đáp ứng
nhu cầu đó của họ.
-
“Khu chợ quê dân gian” bao gồm nhiều hoạt động từ xem triển lãm, biểu
diễn nghệ thuật, đến thưởng thức ẩm thực, học nghề làm gốm, viết chữ thư
pháp.... Bất kể quy mô, những hoạt động này đều cần lao động trong doanh
nghiệp của mình, cũng như duy trì, quản lý và tổ chức điểm thu hút. Cung cấp
các cơ hội làm việc khác nhau, từ bán thời gian cho đến làm cố định.
- “Khu chợ quê dân gian” còn là cầu nối văn hóa, sứ giả quảng bá hình ảnh
cuộc sống, con người Việt Nam cho bạn bè trong nước và quốc tế.
1.3.3
Đặc điểm sản phẩm “Khu chợ quê dân gian” trong Resort.
SVTH: NGUYỄN THỊ HUỆ
Trang 20