MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................1
1.
Lý do chọn đề tài.................................................................................................................1
2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu.......................................................................................3
3.
Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................................4
4.
Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................4
5.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................................4
6.
Đóng góp mới của đề tài.....................................................................................................4
7.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.................................................................................5
8.
Kết cấu của đề tài...............................................................................................................5
NỘI DUNG..........................................................................................................................................6
1.
Khái quát về cư dân bản địa Australia và tình hình cư dân bản địa Australia............6
2.
Các giá trị đời sống tinh thần của cư dân bản địa Australia trước năm 1788..............8
2.1. Tín ngưỡng.......................................................................................................................8
2.1.1. Dreamtime..................................................................................................................8
2.1.2. Totem........................................................................................................................14
2.1.3. Các nghi lễ...............................................................................................................16
2.2. Lễ hội..............................................................................................................................20
2.3. Ma thuật.........................................................................................................................21
2.3.1. Khái niệm.................................................................................................................21
2.3.2. Phân loại..................................................................................................................22
2.3.3. Ma thuật của cư dân bản địa Australia...................................................................23
2.4. Nghệ thuật......................................................................................................................26
2.4.1. Trình diễn.................................................................................................................27
2.4.2. Hội họa và điêu khắc...............................................................................................33
2.4.3. Nghệ thuật trên vỏ cây.............................................................................................35
2.4.5. Nghệ thuật trên đá....................................................................................................36
2.4.5. Tranh bóng...............................................................................................................37
2.4.6. Nghệ thuật X-ray......................................................................................................38
2.4.7. Nghệ thuật Dot-painting..........................................................................................39
2.4.8. Biểu tượng................................................................................................................40
KẾT LUẬN........................................................................................................................................42
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................................46
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Australia là quốc gia lớn thứ sáu trên thế giới với lục địa Australia, đảo Tasmania và
hàng ngàn đảo nhỏ khác. Nằm hoàn toàn ở Nam bán cầu, Australia là quốc gia duy nhất
trên thế giới có diện tích lãnh thổ thống trị toàn bộ diện tích lục địa của một châu lục Châu Đại Dương. Với diện tích rộng lớn của mình, Australia được thiên nhiên ưu đãi với
hệ thời tiết, khí hậu, hệ động - thực vật vô cùng đa dạng và phong phú. Ở Australia đã
phát triển những loài động – thực vật độc nhất vô nhị kể từ khi lục địa này tách khỏi siêu
lục địa Gondwana cách đây hơn 50 triệu năm, mà chúng ta không thể tìm thấy những loài
động thực vật đó ở vùng đất nào khác trên trái đất. Australia là nơi sinh sống của hệ động
vật hoang dã phong phú với khoảng 800 loài chim mà một nửa trong số đó chỉ có ở đây.
Australia cũng là nơi sinh sống của nhiều loại thú có túi với kích thước từ nhỏ đến lớn,
mà điển hình trong đó là loài Kangaroo. Ở Australia còn có những chú gấu Koala đáng
yêu, những con đà điểu to lớn. Môi trường thủy sinh có hơn 4.000 loài cá và hàng vạn loài
không xương sống, thực vật và vi sinh vật. Khoảng 80% số loài sinh vật biển ở phía nam
Australia không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Ở Australia có ít nhất
25.000 loài thực vật. Hệ thực vật này bao gồm những hóa thạch sống, như cây thông
Wollemi và cây cỏ, cùng những loài hoa dại đẹp rực rỡ. Chỉ riêng ở Tây Australia đã có
hơn 12.000 loài. Australia cũng là đất nước duy nhất trên thế giới mà chúng ta có thể trải
qua cả 4 mùa xuân - hạ - thu - đông chỉ trong vòng một vài giờ đồng hồ. Bờ biển Australia
kéo dài gần 50.000 cây số và nối với trên 10.000 bãi biển xinh đẹp, cùng với dải san hô
Great Barrier tuyệt đẹp ở Queensland là nơi lý tưởng cho các hoạt động nghỉ dưỡng và du
lịch, khám phá cho mọi người.
Bên cạnh những ưu đãi của thiên nhiên, Australia còn nổi tiếng về một đất nước đa
văn hóa với nền văn hóa đa đạng, độc đáo mà những người dân nhập cư đã mang đến đây.
Các nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới cùng quy tụ lại nơi này đã tạo ra một nền
văn hóa đa sắc màu cho đất nước Australia rộng lớn. Ở Australia, hàng năm có các lễ hội
2
văn hóa vô cùng đặc sắc, thu hút sự quan tâm của nhiều người trên thế giới. Tuy vậy, mỗi
khi nhắc đến nền văn hóa của cư dân Australia, chắc hẳn chúng ta không thể bỏ qua nền
văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa Australia – những cư dân bản địa đầu tiên
sinh sống trên lãnh thổ Australia. Cư dân bản địa Australia đã sinh sống và phát triển trên
lục địa này hơn 50.000 năm và được coi là có nền văn hóa lâu đời nhất thế giới. Khác với
các cộng đồng cư dân khác sinh sống trên thế giới, cộng đồng cư dân bản địa Australia do
sống trong một vùng đất nằm hoàn toàn tách biệt với các châu lục khác nên họ không có
cơ hội tiếp xúc với các nền văn minh lớn trên thế giới. Tuy vậy, xã hội của những người
cư dân bản địa này đã có những bước tiến đặc biệt trước khi những người châu Âu đến
với lục địa này. Họ đã phát minh ra boomerang phục vụ cho việc săn bắt, tìm kiếm thức
ăn. Họ cũng là những người đầu tiên sử dụng răng cưa trên những dụng cụ bằng đá cũng
như sử dụng những dụng cụ bằng đá để xay xát hạt giống. Họ đã chế tạo công cụ từ
những vật liệu tự nhiên sẵn có để có thể thích nghi với điều kiện sống khắc nghiệt ở đây
và sinh tồn trong thời gian dài.
Mặc dù từ năm 1788, khi người Anh đến nhập cư tại Australia, cộng đồng cư dân
bản địa đã bị đồng hóa dần dần, làm mất đi nhiều nét đặc trưng của mình, cư dân bản địa
bị di chuyển đến những nơi ở mới, bị bắt buộc phải xóa bỏ đi những tập tục truyền thống
của họ, bị buộc phải sử dụng ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ của mình, nhưng những di
sản văn hóa của cộng đồng cư dân bản địa được lưu giữ từ quá khứ đến hiện tại cũng tạo
ra được sự thu hút rất lớn đến những người quan tâm đến văn hóa cư dân bản địa
Australia. Chính từ những di sản văn hóa được lưu lại ấy đã gợi lên cho những người
quan tâm câu hỏi “Vậy thì trước khi người Anh đến xâm nhập lãnh thổ Australia, cộng
đồng cư dân bản địa ở đây đã sinh sống và sinh hoạt như thế nào? Đời sống tinh thần của
họ có gì đặc biệt hay không? ”
Là những sinh viên đến từ ngành Australian Studies, khoa Đông Phương học, chúng
tôi chọn đề tài “Đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân bản địa Australia trước
năm 1788” làm đề tài nghiên cứu khoa học với mục đích tìm hiểu sâu hơn về các hoạt
động tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật của cộng đồng cư dân bản địa trong thời kỳ trước
1788, trước khi người Anh đưa tù nhân của mình đến đất nước Australia. Thông qua đó,
3
bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi có thể được sử dụng như tài liệu tham khảo cho các
bạn sinh viên chuyên ngành Australian Studies cũng như cho tất cả mọi người quan tâm
đến đất nước Australia xinh đẹp, giúp mọi người có thêm nhiều hiểu biết về đời sống tinh
thần của cộng đồng cư dân bản địa Australia trong giai đoạn trước khi người châu Âu
khám phá ra vùng đất này, làm giàu thêm cho hành trang kiến thức của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề về cư dân bản địa Australia hiện nay đang được quan tâm cả trong và ngoài
nước. Đề tài được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. nhóm chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu một khía cạnh nhỏ của cư dân bản địa Australia nhưng cũng không kém phần quan
trọng - “Đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân bản địa Australia trước năm 1788”.
Một số tài liệu tham khảo như:
Vũ Tuyết Loan, Bài nghiên cứu Văn hóa dân gian cư dân bản địa Australia. Đề
tài này nghiên cứu khá rõ ràng đời các giá trị văn hóa của thổ dân, mà chủ yếu
là các giá trị về tinh thần. Đây là thuận lợi cho nhóm chúng tôi trong quá trình
tiến hành nghiên cứu sâu hơn về đời sống tinh thần của cư dân bản địa
Australia.
Trần Cao Bội Ngọc, Bản sắc nghệ thuật hội họa và khắn đá của cộng đồng cư
dân bản địa Australia, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí
Minh. Tác phẩm này rất chi tiết về nghệ thuật hội họa và khắc đá của cư dân
bản địa Australia. Thông qua bài viết này có thể hình dung một phần đời sống
và lịch sử của cộng đồng cư dân bản địa Australia.
Trần Cao Bội Ngọc (2006), Văn hóa thổ dân Úc. Quyển sách này chứa đựng
tổng quan về Australia và cộng đồng cư dân bản địa Australia, cung cấp nhiều
tài liệu bổ ích về các giá trị văn hóa đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần
của cư dân bản địa Australia từ thuở xa xưa cho đến thời hiện đại. Tài liệu này
đã thể hiện một khái nhìn tổng quát về con người và cuộc sống của cư dân bản
địa Australia, cách thức hoạt động xã hội của họ diễn ra như thế nào, các thiết
chế xã hội và văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân bản địa Australia ra sao.
4
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu sâu hơn về các yếu tố trong đời sống tinh thần của cộng đồng cư
dân bản địa Australia như hoạt động tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật trước khi
bị cư dân nhập cư từ châu Âu xâm chiếm.
Rút ra được những nét đặc sắc tiêu biểu trong các hoạt động đời sống tinh
thần của cộng đồng cư dân bản địa Australia, giúp mọi người có cái nhìn
hoàn thiện hơn về đời sống của cư dân bản địa Australia trong giai đoạn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do một số hạn chế về cách tiếp cận nguồn tài liệu và thông tin liên quan, đề tài chỉ
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm kiếm những tài liệu bao gồm sách,
luận văn, báo, tập san hay những nguồn tài liệu an toàn và đảm bảo từ
Internet.
Phương pháp phân tích tổng hợp: từ những nguồn tài liệu đã tìm được, từ đó
sẽ phân tích các dữ liệu bổ ích, tổng hợp những tài liệu quan trọng, có ích
cho đề tài nghiên cứu. Từ việc phân tích, tổng hợp tài liệu để đi đến những
kết luận cho bài nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giá trị về đời sống tinh thần của cộng đồng
cư dân bản địa Australia trước năm 1788. Đề tài đã loại bỏ những giá trị về đời sống vật
chất của cư dân bản địa Australia cũng như một số giá trị khác và chỉ tập trung vào nghiên
cứu những giá trị tinh thần của họ.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài này đã tìm lại một số giá trị tinh thần truyền thống của cư dân bản địa Austrlia
mà đã bị lãng quên. Các giá trị này giữ vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân bản
địa Australia, do đó cần được nghiên cứu sâu hơn và cần được bảo tồn.
5
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu này góp phần tăng sự đa dạng trong tài liệu liên quan
đến cư dân bản địa Australia.
Đề tài này còn góp phần giúp những sinh viên ngành Úc học hoặc những
sinh viên có hứng thú với nước Australia có thể tham khảo trong nghiên
cứu và học thuật.
Cung cấp những kiến thức về đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân bản
địa Australia trước năm 1788.
Từ bài nghiên cứu này, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm trong
nghiên cứu về cư dân bản địa Australia trong những giai đoạn khác và
cũng như nghiên cứu về văn hóa của các nước khác.
8. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài được chia làm ba phần
Phần 1: MỞ ĐẦU
Phần 2: NỘI DUNG
Nội dung được chia thành 2 phần:
Khái quát về cư dân bản địa Australia và tình hình cư dân bản địa Australia
Các giá trị đời sống tinh thần của cư dân bản địa Australia trước năm 1788
Phần 3: KẾT LUẬN
Phần 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
NỘI DUNG
1. Khái quát về cư dân bản địa Australia và tình hình cư dân bản địa Australia
“Cộng đồng cư dân bản địa” Australia gồm có thổ dân và cư dân hải đảo Torres
Strait. Trong đó cư dân hải đảo Torres Strait chỉ chiếm 2%, 98% còn lại là thổ dân. Do đó
trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ cộng đồng cư dân bản địa để chỉ
thổ dân.
Lịch sử Australia không chỉ bắt đầu khi những người định cư da trắng đầu tiên đến
vào năm 1788. Nó bắt đầu khi những cư dân đầu tiên xuất hiện trên 50.000 năm
trước. Những cư dân đầu tiên được gọi là thổ dân và cư dân hải đảo “Torres Strait
Islander” (Tiếng Latinh “Aborigines” có nghĩa là “nguồn gốc” hoặc “mới bắt đầu”). Vào
lúc thuyền trưởng Cook đến Austrlia vào năm 1770, có lẽ đã có ít nhất 750.000 dân tộc
bản địa đang sinh sống tại đó. Theo sử sách thì người thổ dân có nguồn gốc từ Châu A
đến lục địa Australia định cư khoảng 60.000 năm về trước bằng những phương tiện đi trên
nước, và có lẽ là vào lúc mực nước biển còn thấp khi các lục địa Châu A và lục địa
Australia còn đang nối liền với nhau. Trước năm 1788, có khoảng 500-600 nhóm cư dân
bản địa khác nhau với hơn 300 ngôn ngữ riêng biệt và phần nhiều cư dân bản địa
Australia biết nói hai hoặc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên ngày nay chỉ còn 75
ngôn ngữ tồn tại và được sử dụng.
Cư dân bản địa Australia cư trú khắp lục địa Australia và đảo Tasmania. Phương
thức sinh sống của họ là săn bắn và hái lượm. Vì các cư dân bản địa không dựa vào trồng
trọt và chăn nuôi để làm phương tiện chính cho cuộc sống và không sống cố định ở một
nơi nhất định cho nên họ thường luôn di động đến những nơi khác nhau, những nơi mà họ
có thể timg thấy thức ăn để nuôi sống bản thân và gia đình. Và cũng vì thế, để giúp cân
bằng dân số với nguồn thực phẩm giới hạn của thiên nhiên, họ đã chia thành từng nhóm
nhỏ tản mác mọi phương để kiếm ăn. Khi nguồn thực phẩm dồi dào và cho phép thì trong
một năm họ có thể tụ tập lại với nhau nhiều lần để hội hè hoặc tổ chức những nghi lễ theo
tập tục.
Trước khi người da trắng xuất hiện thì các cư dân bản địa Australia có hai phương
7
hướng sinh hoạt rõ rệt. Ở những vùng đất phì nhiêu gần nguồn nước, họ thường lập những
trại tập trung để thể hiện những sự liên kết mang tính chất thần thoại (mythological
associations) với niềm tin của họ. Ðối với những vùng đất rộng lớn và khô khan gần sa
mạc thì họ chia thành từng tổ gia đình nhỏ di chuyển từ hố nước này đến hố nước khác
(waterhole to waterhole) trên những con đường quen thuộc.
Ngoài việc tìm kiếm miếng ăn cái mặc, cư dân bản địa Australia cũng chú trọng đến
việc giữ gìn những giá trị truyền thống thiêng liêng cũng như niềm tin tâm linh gắn liền
với mảnh đất nơi họ sinh sống. Và tất cả niềm tin của họ đều gắn liền với Dreamtime. Họ
tin rằng thế giới được sáng tạo và đặt ở trung tâm của một giấc mơ đang tiếp diễn
(Dreaming), hoặc là trong thời gian mộng mị (Dreamtime). Đây là một khái niệm dùng để
nói về quá khứ, hiện tại, tương lai, và bao gồm tất cả phương diện của cuộc sống hàng
ngày. Trong Dreamtime, tổ tiên của thổ dân vươn ra từ lòng đất và hóa thành những yếu
tổ trong tự nhiên như các loài động vật, nguồn nước hay bầu trời. Tất cả sự phì nhiêu màu
mở, sức mạnh tâm linh, đều được giữ kín bởi các linh thần (Dreaming Beings) và họ sẽ tự
động ban cho thế giới nhân loại nếu nhân loại biết đi theo những dấu chân của họ. Cho
nên những lễ lạc cho các thần linh cần được tiếp diễn để sức sống luôn được không ngừng
ban cho. Và trong những ngày lễ lạc như thế, các linh hồn (Spirit Beings) thường được
dùng làm phương tiện chuyển kiến thức mới vào xã hội của nhân loại. Và cũng từ những
giấc mơ hoặc từ những tiềm thức, con người sẽ tiếp xúc với thế giới thần linh để lấy được
thêm sức mạnh.
Những câu chuyện thần thoại về Dreamtime được lưu truyền từ đời này sang đời
khác vì đây chính là nền tảng cốt lõi trong đời sống tâm linh của cộng đồng cư dân bản
địa Australia. Đời sống tâm linh của họ cũng thể hiện mới quan hệ mật thiết không thể
tách rời giữa con người và đất đai nơi họ sinh sống. Không giống với những tôn giáo
khác, tín ngưỡng của cư dân bản địa Australia không tách con người khỏi thiên nhiên hay
đặt mình ở vị trí cao hơn thiên nhiên. Họ tin rằng Tổ tiên của mình sau khi khuất đi đã
hóa thân vào thiên nhiên (vào trong các tảng đá hay con sông), nơi đó, linh hồn của tổ tiên
họ luôn ngự trị.
Đời sống tinh thần của cộng đông cư dân bản địa Australia cũng vô cùng phong phú.
8
Họ thể hiện các giá trị tinh thần của mình thông qua các hình thức như lễ hội, nhảy múa,
âm nhạc hay hội họa… Mỗi hình thức đều mang mỗi màu sắc khác nhau nhưng tất cả đều
liên kết chặt chẽ với Dreamtime. Các vũ điệu, các bức tranh hay những tập tục của họ đã
trở thành những giá trị nghệ thuật rất riêng và không hề bị lẫn lộn hay ảnh hưởng bởi bất
kì nền nghệ thuật nào.
2. Các giá trị đời sống tinh thần của cư dân bản địa Australia trước năm 1788
2.1. Tín ngưỡng
2.1.1. Dreamtime
Dân bản địa được chia thành các nhóm với hơn 300 ngôn ngữ khác nhau nhưng tất
cả đều tin rằng thế giới được hình thành trong quá khứ xa xôi trong một kỷ nguyên thiêng
liêng được gọi là “Dreamtime” hoặc “Dreaming”.
“Dreamtime” mang ý nghĩa khác nhau trong từng nhóm cư dân bản địa khác nhau.
Các “Dreaming” có thể được xem như một hiện thân của sự sáng tạo của cư dân bản địa
đó mang lại ý nghĩa cho tất cả mọi thứ. Nó thiết lập các quy tắc, quản lý các mối quan hệ
giữa con người, đất và động – thực vật... “Dreaming” chi phối cách các cư dân bản địa
sống và cư xử như thế nào và những ai không tuân thủ theo các quy tắc đó sẽ bị trừng
phạt.
Dreaming hoặc Dreamtime thường được sử dụng để mô tả thời điểm trái đất và con
người và động vật được tạo ra. Dreaming cũng được sử dụng bởi các cá nhân để tham
khảo những giấc mơ của riêng mình hay của cộng đồng.
Trong thời kỳ Dreamtime, linh hồn tổ tiên đã đến thế gian và tạo ra các dạng địa
hình, các loài động vật và thực vật. Những câu chuyện Dreaming kể về việc linh hồn tổ
tiên di chuyển qua đất tạo ra các sông, hồ và núi như thế nào. Về bản chất, Dreaming đến
từ đất. Trong xã hội của cư dân bản địa, người ta không có khái niệm sở hữu đất đai mà
đó là một phần của họ và đó cũng là một phần nhiệm vụ của họ: tôn trọng, chăm sóc và
bảo vệ đất mẹ. Thổ dân và cư dân hải đảo Torres Strait tin rằng con của tổ tiên có hình
dạng đất và tạo ra tất cả các đặc điểm tự nhiên cũng như các dạng sống của nó bao gồm
các loài thực vật và động vật. Sau khi tạo lập xong, tổ tiên thần biến mất vào đất, nước
9
hoặc bầu trời, bỏ lại đằng sau những dấu hiệu về khoảng thời gian họ tồn tại trên trái đất,
thể hiện qua các hang động, đồi núi, cây cối, đá và các đặc điểm tự nhiên khác của cảnh
quan. Mỗi nhóm thổ dân có trách nhiệm chăm sóc các vùng đất thiêng liêng của họ trong
khu vực sinh sống. Bởi sức mạnh của tổ tiên thần vẫn có thể được cảm nhận qua đất và
các dạng sống của nó. Các con của tổ tiên không thực sự chết. Họ sống trên các hình thức
khác nhau và linh hồn của họ vẫn còn tồn tại. Thông qua điều này, quá khứ tiếp tục được
kết nối mạnh mẽ đến nay. Và đó là lý do tại sao các dân tộc bản địa có nhiệm vụ phải bảo
vệ đất, thực vật và động vật và chăm sóc cho những nơi linh thiêng. Có thể thấy, đất đối
với cư dân bản địa Australia có ý nghĩa rất thiêng liêng và cao quý.
Những câu chuyện về Dreaming được sinh ra từ những giá trị văn hoá và hệ thống
niềm tin tâm linh truyền lại cho những thế hệ sau. Thông qua những bài hát, những điệu
múa, những bức vẽ và những câu chuyện truyền miệng, những người thổ dân muốn lưu
giữ một mối liên kết với “kỷ nguyên thiêng liêng Dreaming” từ thời xa xưa để tạo nên
một nền văn hoá bản địa hết sức đa dạng và đặc sắc.
Những câu chuyện truyền thuyết Dreaming từ tất cả các khu vực của Australia cho
thấy cư dân bản địa Australia tin vào một Đấng Tạo Hóa tối cao gọi là “Great Spirit”.
“Great Spirit” được gọi bằng nhiều tên khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau, chẳng
hạn như Byamee, Wandjina và Nargacork. “Great Spirit” chịu trách nhiệm theo dõi và
giúp đỡ các nhóm cư dân bản địa khác nhau và thường giúp đỡ tinh thần cho họ nên làm
thế nào để làm điều gì đó, ví dụ, đốt lửa hoặc bắt cá.
Một ví dụ về những câu chuyện Dreaming là từ vùng đất màu mỡ của những người
Gagudju thuộc phía Bắc Australia. Cuộc sống đã bắt đầu khi Đấng sáng tạo
Warramurrungundjui xuất hiện từ đại dương sâu thẳm và sinh ra con người đầu tiên, và
cùng lúc đó cũng ban cho con người ngôn ngữ để giao tiếp. Đấng sáng tạo đã tự đào nắn
lên vùng đất này, đưa đến vùng đất này những thứ cho sự tồn tại của con người như các
loại lương thực, nguồn nước và những loại thực vật quan trọng khác. Đấng sáng tạo tự tay
trồng thực phẩm, tạo ra những hố nước rộng và sâu với kích cỡ khác nhau. Sau khi hoàn
thành sự nghiệp sáng tạo trái đất của mình, đấng sáng tạo Warramurrungundjui trở về với
tự nhiên, với đất đá, cây cỏ.
10
Trong thời kỳ Dreamtime, hình tượng rắn cũng được coi là một vị thần cao quý lâu
đời nhất tạo ra sự sống, thường được gọi là “Rainbow Serpent” (Rắn Cầu vồng). Đặc
điểm của “Rainbow Serpent” trong những câu chuyện kể thời kỳ Dreamtime của những
các nhóm cư dân bản địa Australia là một con rắn và luôn luôn gắn liền với những con
sông. “Rainbow Serpent” được mô tả như một vị nữ thần bảo vệ vùng đất mà cư dân bản
địa sinh sống, bảo vệ con người nơi đây, là khởi nguồn của tất cả sự sống cũng như nước
là một yếu tố quan trọng mang tính chất sống còn. Tuy nhiên, “Rainbow serpent” có thể
hủy hoại vùng đất này nếu không được tôn thờ. Những cư dân bản địa tin rằng sự tức giận
của “Rainbow Serpent” là cực kì khốc liệt và đáng sợ. Rằng “Rainbow Serpent” có khả
năng ăn thịt người sau đó phun xương của họ ra biến thành những tảng đá lớn như một lời
răn đe cho kẻ khác.
Các huyền thoại về “Rainbow Serpent” thường được miêu tả trong các tác phẩm
nghệ thuật truyền thống, chẳng hạn như bản vẽ cát, chạm khắc, tranh vẽ vỏ cây và hang
động. Nó thường được biểu diễn như một con rắn rất dài cuộn dây xung quanh. “The
Rainbow Serpent” được tôn thờ trong sự sợ hãi của các cộng đồng cư dân bản địa và được
nhắc đến với sự tôn trọng tuyệt vời.
Hình ảnh phổ biến nhất của “Rainbow Serpent” trong những câu chuyện kể thời kỳ
Dreaming, thế giới là một nơi bằng phẳng, trống rỗng, cô đơn và lạnh lẽo. Rainbow
Serpent ngủ yên dưới lòng đất sâu thẳm cùng với tất cả các loài động vật được ấp ủ trong
bụng bà ấy để đợi được sinh ra. Đến một lúc thích hợp cho sự tồn tại của sự sống, bà ấy
gọi tất cả những sinh vật của bà ấy lên vùng đất cô đơn lạnh lẽo. Tiếp theo đó, bà bắt đầu
tạo ra những dãy núi, những ngọn đồi, lấp đầy nước cho vùng đất này, tạo nên những con
sông, những hồ nước trải dài. Cuối cùng, bà ấy tạo ra mặt trời, tạo ra lửa cùng tất cả sắc
màu khác nhau cho vạn vật. Từ đó, thế giới không còn là một thứ gì đó trơ trọi lạnh lẽo
nữa, mặt đất trở nên gồ ghề, ánh sáng từ mặt trời và lửa chiếu sáng của vùng trời, xua tan
màn đêm tối tăm, ảm đạm, đem lại một thế giới lung linh đa sắc màu cho sự sống của vạn
vật.
Theo người Gagudju, “Rainbow Serpent” được biết đến là Almudj và là Đấng sáng
tạo chủ yếu, mang đến cho con người khí hậu, thời tiết ẩm ướt mỗi năm, và đó là nguyên
11
nhân xuất hiện những màu sắc khác nhau trên bầu trời được biết đến là cầu vồng. Nhưng
Almudj là nỗi sợ hãi của con người vì Almudj có thể trừng phạt bất cứ kẻ nào phá vỡ luật
lệ bằng cách nhấn chìm con người trong cơn lũ lụt. Almudj vẫn sống dưới thác nước ở
Kakadu.
Theo người Jawoyn của khu vực Katherine Gorge thuộc lãnh thổ phía Bắc kể rằng
“Rainbow Serpent” ngủ yên dưới lòng đất cho đến khi bà ấy thức dậy trong thời kỳ
Dreaming và quyết định lên trên mặt đất. Sau đó, bà đi ngao du vùng đất này, rồi ngủ say
khi mệt mỏi, và đã để lại những vết hằn trên mặt đất. Khi bà trở về và gọi những con ếch
của bà đến, nhưng chúng đi quá chậm bởi vì bụng chúng chứa đầy nước. Rainbow
Serpent đã cù vào bụng của những con ếch này làm chúng cười to lên, thế là nước từ
trong miệng chúng chảy ra lấp đầy những vết hằn mà Rainbow Serpent để lại trên bề mặt
trái đất, từ đó tạo ra những con sông và những hố nước. Chính điều này đã làm thức tỉnh
tất cả động vật và thực vật trên vùng đất này. Người ta tin rằng Rainbow Serpent tiếp tục
sống mãi trong thế giới ngày nay ở một nơi linh thiêng bí mật, và rằng cầu vồng nhìn thấy
trên bầu trời là một sự phản ánh của sinh vật.
Nhiều người trong số những huyền thoại Dreamtime, đặc biệt là những người nói về
lũ lụt lớn, núi lửa và động vật khổng lồ thực sự được dựa trên thực tế. Bằng chứng khảo
cổ cho thấy đất và động vật sống đã thay đổi ở Australia trong lòng cư dân bản địa trong
một khoảng thời gian dài.
Dreamtime là nhắc đến sự sáng tạo là vạn vật, qua đó cũng xuất hiện những câu
chuyện về bầu trời và những vì sao. Từ những cư dân hải đảo, người Tagai, hay những
chiến binh đã mô tả những nét đặc trưng tiêu biểu về thời kỳ Dreamtime trong những câu
chuyện kể của họ. Chính vì số phận của cư dân hải đảo phụ thuộc vào biển, nên những
câu chuyện của người Tagai thường tập trung vào những tinh tú trên bầu trời.
Một câu chuyện của Tagai mô tả rằng Tagai là một người đàn ông đứng trên một
chiếc ca nô lướt trên biển. Trên tay trái của ông cầm một thanh xiên cá, đại diện cho Nam
bội tinh. Bên tay phải của ông giữ một loại trái cây màu đỏ, gọi là “sorbi”. Trong câu
chuyện này, Tagai cùng 12 đồng đội chuẩn bị cho cuộc hành trình mới. Nhưng trước khi
bắt đầu cuộc hành trình, những đồng đội đã dùng hết tất cả số đồ ăn và thức uống đã
12
chuẩn bị sẵn. Vì tức giận, Tagai đã cột những người đồng đội thành 2 nhóm rồi ném họ
xuống biển, nơi mà những hình ảnh của họ trở thành những ngôi sao trên bầu trời.
Câu chuyện về “Lightning Brothers” - các chòm sao trên bầu trời
Những nhóm cư dân bản địa khác cũng có
những câu chuyện khác liên quan đến bầu trời
– ngôi sao, mặt trời và mặt trăng. Một câu
chuyện Dreamtime từ khu vực Flinders
Ranges thuộc phía Nam Australia kể rằng , có
hai anh em nọ đi săn trong đêm và quyết định
dừng lại đốt lửa trại khi trời xuất hiện gió to.
Không may thay, ngọn lửa quá to đã lan rộng
khắp dãy núi. Hai anh em cố gắng chạy lên
vùng cao nhất để thoát khỏi đám cháy, nhưng
lửa vẫn bắt kịp họ. Họ bắt đầu bị bốc cháy, tổ tiên thấy thương xót nên đã tặng cho hai
anh em một món quà đề chiến đấu với ngọn lửa. Cuối cùng, hai anh em bay lên cao hòa
vào bầu trời đêm sáng lấp lánh cả vùng trời.
Những tri thức về các vì sao giúp con người trong việc đi lại trên đất liền cũng như
trên biển. Các chòm sao miêu tả những hình ảnh tương tự như trong môi trường tự nhiên
của cư dân bản địa như cá sấu, đại bàng, hay hình ảnh những vị anh hùng như trong câu
chuyện Wardaman.
“Lightning Brothers” đi từ vùng đất Warlpiri thuộc vùng lãnh thổ phía Bắc, và dừng
lại tại Yirindale Springs trước khi đến nghỉ chân tại Yiwalalay. Trong chuyến đi của họ,
người em trai Yabiringi bắt đầu đem lòng yêu mến Kanayanda (hay Gulidang) – cô vợ của
người anh trai Yagjabula, và hai anh em đã có một cuộc xung đột lẫn nhau. Trong câu
chuyện Dreamtime, người anh trai đã xử trảm người em bởi một cây rùi bằng đá rất đặc
biệt. Sau đó Lightning Brothers sống trên bầu trời, nơi mà nhiều linh hồn tổ tiên cư ngụ.
Hình ảnh hai anh em được cư dân bản địa khắc họa trên đá và tranh vẽ.
Cư dân bản địa Australia truyền nhau nghe về những câu chuyện Dreamtime, và
13
không thể thiếu câu chuyện về sự xuất hiện của mặt trời. Thuở xa xưa khi thế giới vẫn
chưa có mặt trời, con người phải tìm kiếm thức ăn trong ánh sáng mặt trăng len lỏi. Một
ngày nọ, một con đà điểu và một con sếu đã xảy ra bất hòa. Trong cơn tức giận, con sếu
đã gắp mất một trong những cái trứng khổng lồ trong tổ của chim đà điểu và ném quả
trứng ấy lên bầu trời cao. Quả trứng vỡ ra, và lòng đỏ của trứng bắt đầu phát ra ngọn lửa
khổng lồ tuyệt đẹp, phát sáng trên bầu trời đêm và soi sáng cho cả thế giới bên dưới. Khi
những linh hồn trên trời thấy được ánh sáng kỳ diệu này, họ cho rằng vùng đất sinh sống
cần phải có ánh sáng này mỗi ngày để thuận tiện cho việc tìm kiếm thức ăn. Do đó, cứ
mỗi đêm, những linh hồn trên trời đã thu thập nhiều gỗ khô và đốt cháy chúng ngay khi
bình minh xuất hiện. Nhưng lại nảy sinh một vấn đề, nếu trời nhiều mây thì những vì sao
và ngọn lửa sẽ bị che khuất. Vì vậy, họ đã nhờ đến một loài chim Kookaburra có khả năng
hót to để gọi họ vào mỗi buổi sáng. Khi tiếng cười của con chim này phát lên lần đầu tiên,
ngọn lửa trên bầu trời được thắp sáng nhưng với lượng ánh sáng và nhiệt ít ỏi. Đến trưa,
khi tất cả những cây gỗ cháy to, cái nóng trở nên dữ dội hơn. Sau đó, ngọn lửa từ từ chết
dần cho đến khi mặt trời lặn. Đây là một trong những câu chuyện Dreamtime về sự xuất
hiện của mặt trời. Từ đó, các bộ lạc cư dân bản địa Asutralia tôn thờ loài chim
Kookaburra, nghiêm cấm không ai được bắt chước tiếng gọi của loài chim Kookaburra.
Bởi vì nếu xúc phạm đến loài chim này, chúng sẽ nổi giận và sẽ trở nên im lặng. Điều đó
có thể dẫn đến bóng tối sẽ lại một lần nữa bao trùm xuống trái đất và con người sinh sống
ở đó.
Một thời kỳ sự sống ra đời và phát triển, rất nhiều câu chuyện Dreamtime được cư
dân bản địa Australia lưu giữ từ đời này sang đời khác. Những câu chuyện về các vị thần
sáng tạo nên vạn vật góp phần tạo nên niềm tin tín ngưỡng sâu sắc của cộng đồng cư dân
bản địa Australia. Những hình ảnh về các vị thần sáng tạo được lưu lại trên những vách
đá, những hang động, thân cây,... Họ tin tưởng vào những vị thần, họ tôn trọng thần vì đã
tạo nên vùng đất thiêng liêng này. Đất là một phần rất quan trọng đối với cư dân bản địa
Australia vì đó được coi là nơi trú ngụ của tổ tiên, do đó cư dân bản địa ra sức bảo vệ
vùng đất của mình.
14
2.1.2. Totem
Khái niệm: Totem (vật tổ) là một hình thức tín ngưỡng phản ảnh tư tưởng của xã hội
thị tộc khi con người gắn bó chặt chẽ với môi trường sống, con người phải phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên. Totem phản ánh mối quan hệ cộng động của thị tộc, bộ lạc với
thiên nhiên. Totem có thể là động vật, cây cỏ, đồ vật hoặc hiện tượng tự nhiên mà tộc
người nguyên thủy coi đó là biểu tượng thiêng liêng của bộ tộc mình, và họ tin rằng
những thứ đó có mối quan hệ gần gũi máu thịt với con người.
Môi trường tự nhiên rất quan trọng đối với các cộng đồng cư dân bản địa Australia
vì nó cung cấp cho họ tất cả các nhu cầu cần thiết và đóng vai trò như một sợi dây vô hình
kết nối tới tổ tiên của họ. Mỗi thị tộc trong cùng một nhóm ngôn ngữ có một “Totem” là
dấu hiệu của linh hồn con người họ gắn liền với vùng đất. Totem là những biểu tượng cụ
thể được coi là thiêng liêng đối với người tôn thờ. Totem có thể là một loài động vật, một
loài thực vật hay một số đặc trưng thiên nhiên khác như kiểu thời tiết đặc trưng hay thậm
chí là những tảng đá. Totem tồn tại trong thế giới tinh thần của cư dân bản địa từ thời
Dreamtime. Totem không bao giờ thay đổi và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác trong cùng một nhóm ngôn ngữ. Mỗi cá nhân đều có một Totem hoặc một đặc trưng
đặc biệt của vùng đất đồng nhất với linh hồn họ, do đó họ luôn bảo vệ Totem của mình.
Totem phụ thuộc vào nơi mẹ của một người được sinh ra và nơi người phụ nữ ấy sinh ra
đứa con đầu tiên. Theo truyền thống, các Totem động vật, chim, đá hoặc hoa không bao
giờ bị săn đuổi, giết chết hoặc làm ô uế vì sự tôn trọng đối với tổ tiên, đều mang dòng
máu ruột thịt.. Totem cũng vô cùng quan trọng trong tất cả các nhóm và cá nhân trong các
dịp lễ kỷ niệm và nghi lễ. Hình ảnh totem được xuất hiện khá nhiều trong các bức tranh
và điêu khắc và các công cụ của các nhóm cư dân bản địa. Totem đóng vai trò cực kỳ
quan trọng trong văn hóa truyền thống, vì điều đó thể hiện được lòng trung thành với quá
khứ. Hệ thống totem cho đến tận hôm nay vẫn còn được sử dụng bởi người bản địa như
một cách duy trì sự kết nối với đất, Dreamtime và tổ tiên của họ. Việc tôn trọng những
Totem giống nhau đã giúp mọi người gắn kết với nhau chặt chẽ hơn.
Mỗi nhóm cư dân bản địa Australia sống tại những khu vực khác nhau trên khắp lục
địa Australia đều có một vật tổ quan trọng nhất định. Những niềm tin tín ngưỡng chủ đạo
15
trong thời kỳ Dreamtime chủ yếu là vùng đất mà một bộ lạc sinh sống. Cư dân bản địa
Australia cho rằng, trái đất là vĩnh cữu và được tổ tiên giữ gìn và truyền lại đến muôn đời
sau. Do đó, mảnh đất chính là linh hồn của tổ tiên cư dân bản địa Australia, chính là quê
hương đất tổ. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cư dân bản địa Australia đã trải qua
nhiều cuộc hành trình trên lục địa Australia, phải vượt qua sa mạc rộng lớn, nhiều cuộc
mâu thuẫn, xung đột với các nhóm thổ dân khác đã tạo nên những con người thổ dân
mạnh mẽ, và dấu vết của họ được lưu lại trên tất cả mọi nẻo đường nơi mà họ đi qua,
vùng đất đã chứng kiến sự tồn tại của họ. Chính vì vậy họ càng tôn thờ vùng đất thiêng
liêng của họ hơn bao giờ hết, họ sẽ bảo vệ vùng đất của họ dù có phải hi sinh cả mạng
sống. Đối với một nhóm cư dân bản địa nhất định, những vật tổ thiêng liêng trong niềm
tin tín ngưỡng của họ là tối cao nhất, không một nhóm thổ dân nào có thể sánh bằng. Cứ
như thế, có thể thấy rằng thời kỳ Dreamtime cứ tiếp tục kiểm soát thế giới tự nhiên, kiểm
soát cuộc sống của cư dân bản địa Australia. Niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của họ thường
được liên kết với nhiều loài động vật đặc biệt chỉ có ở vùng đất mà họ sống, như
Kangaroo, chim đà điểu Emu, gấu Koala, loài chim Bower,... Ngoài ra, những vật tổ mà
cư dân bản địa Australia tôn thờ có thể là những loài thực vật điển hình ở Australia, những
tảng đá, các loại côn trùng,...
Hơn nữa, các nhóm cư dân bản địa Australia cũng liên kết với nhau về niềm tin tôn
giáo và ngôn ngữ. Từ đó, họ có thể trao đổi nguồn lương thực, thực phẩm và các giá trị
văn hóa của nhau. Theo truyền thống, các bộ lạc bản địa cảm thấy việc bảo vệ đất đai là
một nhiệm vụ hết sức thiêng liêng và quan trọng, đặc biệt là khu vực thiêng liêng có ý
nghĩa to lớn trong Dreamtime. Họ tin rằng, nếu những nơi thiêng liêng không được chăm
sóc, các linh hồn sẽ trở nên tức giận và trừng phạt họ với hạn hán hoặc lũ lụt.
Totem xuất hiện trong thời kỳ Dreamtime, nó phản ánh niềm tin tín ngưỡng và cuộc
sống của cư dân bản địa Australia. Có thể nói, có một totem để tôn thờ, để bảo vệ thì con
người cư dân bản địa Australia sẽ có mục đích để phấn đấu cho cuộc sống yên của mình
được yên bình. Totem của một người là hoàn toàn tự nguyện, đây là nét truyền thống cá
nhân, của nhóm cộng đồng cư dân bản địa.
16
Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân bản địa Australia, giống như nhiều tín ngưỡng
khác, được đặc trưng bởi có một vị thần đã sáng tạo ra môi trường tự nhiên và các dạng
sống khác trong đó có con người trong một khoảng thời gian sáng tạo đặc biệt. Nhưng
thay vì chỉ cầu nguyện cho một vị thần duy nhất thì mỗi nhóm cư dân đều có cho mình
một số vị thần khác nhau để tôn thờ. Các vị thần có hình ảnh được mô tả, khắc hoạ trên
đá, trên các vách hang động nhưng cũng có thể trú ngụ dưới dạng các “Totem - Vật tổ”
hữu hình dưới dạng một loài thực vật hoặc động vật nào đó. Hình thức này được xem như
một tính năng cảnh quan đặc biệt. Tính năng cảnh quan có thể là hiện thân của vị thần đó,
chẳng hạn như một viên đá, hoặc kết quả mà thần đã tạo ra trong quá trính sáng tạo nên sự
sống, chẳng hạn như những con sông mà “Rainbow Serpent” đã tạo ra trong thời kì khai
sáng. Cư dân bản địa Australia không tin vào thuyết duy linh (Thuyết này tin rằng tất cả
các đối tượng trong tự nhiên đều có một linh hồn) nhưng họ có thể tin rằng một tảng đá
đặc biệt được tạo ra bởi một vị thần đặc biệt trong giai đoạn sáng tạo hoặc là nó đại diện
cho một vị thần. Họ tin rằng nhiều loài động vật và thực vật có khả năng hoán đổi cuộc
sống với con người thông qua tái hiện thân của tinh thần hay linh hồn. Và rằng điều này
liên quan trở lại thời kì sáng tạo khi các loài động vật, thực vật đã từng là người. “Tâm
linh của cư dân bản địa là cơ sở triết học của một nguồn gốc văn hoá và khái niệm toàn
diện về “nhân vị”, bản chất của mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và cốt
lõi của một nền kiến thức bản địa về đất nước và nhân dân” (Tạm dịch - Trích “Aboriginal
Spirituality: A baseline for indigenous knowledge development in Australia”, Vicki
Grieves University of Sydney).
2.1.3. Các nghi lễ
Các nghi lễ là một phần trong đời sống của cư dân bản địa kể từ lúc mới bắt đầu.
Vào thời kỳ Dreaming của cư dân bản địa Australia, nhiều nghi lễ được thực hiện nhằm
các mục đích khác nhau như để bày tỏ sự thương tiếc đối với người chết, để đạt được
quyền lực của ông Tổ bằng việc tiếc lộ những bí mật tôn giáo cho những tín đồ, để giải
quyết những tranh chấp, xung đột về địa bàn và lương thực,... Một nghi lễ có thể bao gồm
nhiềm mục đích khác nhau. Trong các nghi lễ thường có những bài hát, những điệu múa,
những hình vẽ cơ thể mang tính chất linh thiêng. Nghi lễ nhằm nhiều mục đích như: bày
tỏ sự thương tiếc người đã chết, làm cho những người chịu tang được trong sạch, tránh
17
khỏi những hậu quả của cái chết hoặc khỏi một sự đổ máu, làm tiết lộ những bí mật tôn
giáo cho những tín đồ để đạt được quyền lực của ông Tổ, trao đổi quà tặng, giải quyết
những tranh chấp hay thay những chuyện đánh nhau bằng cái khác. Một nghi lễ có thể
bao gồm nhiều mục đích khác nhau. Bên cạnh đó, người ta còn làm các nghi lễ tăng
trưởng nhằm mục đích thúc đẩy sự sinh trưởng của con người và các loại cây lương thực.
Nhìn chung, các nghi lễ của họ mang tính ma thuật. Hai nghi lễ quan trọng nhất là “Nghi
lễ nhập môn” và “Ma chay”.
Nghi lễ nhập môn
Nghi lễ nhập môn còn gọi là nghi lễ “Bước vào đời” và nó chỉ dành cho nam giới.
Theo truyền thuyết, chim biển Bridle là một thần Tổ quan trọng của bộ tộc Djambarr
- Puyngu thuộc Vịnh Buckingham, Arnhem Land. Một bài hát kể lại rằng cách mà con
chim thần lao xuống biển bắt con cá và bay trở lại điêu luyện và tuyệt vời như thế nào.
Bài hát này với một điệu múa kèm theo, và một sợi dây dài có lông chim tượng trưng cho
đường bay của con chim thần, được biểu diễn trong buổi nghi lễ tước quy đầu.
Các chàng trai trong độ tuổi từ 12 đến 16 tuổi khi thực hiện nghi lễ này phải tiến
hành nhiều công đoạn. Ban đầu, chúng được vẽ lên thân thể nhiều đường nét đặc trưng
với các màu sắc như màu trắng, màu đỏ, màu vàng tượng trưng cho đất trời tự nhiên. Các
chàng trai được đưa vào những nơi kín đáo để thực hiện những nghi lễ rất bí mật và
thiêng liêng. Các chàng trai được đưa đến những nơi kín đáo mà chỉ có đàn ông. Một số
nghi lễ khác là những chàng trai này phải nhảy qua một ngọn lửa nhỏ để chứng minh rằng
mình sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Trong gian đoạn diễn ra nghi lễ, các chàng trai phải sống
ẩn dật tách biệt với cha mẹ để học những nghi lễ thiêng liêng hơn, những bài hát thiêng
liêng, những điệu múa, những câu chuyện và những truyền thuyết truyền thống cho đến
khi họ được phép trở về với cộng đồng.
Nghi lễ nhật môn có thể kéo dài nhiều tuần liền. Vào những ngày cuối cùng của nghi
lễ, các chàng trai được sơn với màu đất son trắng phải chứng minh với các bà mẹ là họ đã
trở nên mạnh mẽ, học được những điều thiêng liêng từ những người đàn ông trưởng thành
khác. Khi bước vào sân lễ, họ phải nhảy múa những điệu nhảy của Kangaroo, và các điệu
múa thiêng liêng khác. Mọi người đều có thể xem buổi diễn cho đến khi các chàng trai
18
thực hiện nghi lễ cắt bao quy đầu, phụ nữ và trẻ em không được phép nhìn. Nghi lễ này
tượng trưng cho việc đưa một cậu bé hội nhập với xã hội đàn ông và đời sống tôn giáo
của họ, vì với việc tước quy đầu, cậu bé đã từ một đứa trẻ trở thành một cậu thiếu
niên. Những người đàn ông nhảy múa tỏng buổi lễ bọc lấy cậu con trai được tước quy
đầu, giam cậu lại trong vòng sợi dây. Nghi lễ này rõ ràng là tượng trưng cho việc đưa cậu
bé hội nhập với xã hội đàn ông và đời sống tôn giáo của họ, vì với việc tước quy đầu, cậu
bé đã từ một đứa trẻ trở thành một cậu thiếu niên.
Trong những nghi lễ “Bước vào đời”, những vật, những bài hát, điệu múa thần
thánh được tiết lộ cho những người mới nhập cuộc. Trong một vài vùng Australia, chỉ đàn
ông mới có những nghi lễ đặc biệt như thế, đàn bà và con trẻ thì không được biết đến
những khía cạnh bí mật. Tại những vùng khác của Australia, đàn ông và đàn bà đều có
những nghi lễ đặc biệt, đàn ông phải bị loại ra khỏi những nghi lễ bí mật của đàn bà. Kiến
thức tôn giáo và việc tham gia tôn giáo được đánh giá rất cao vì những nghi lễ đó liên
quan tới thần linh và những quyền lực mạnh nhất trong vũ trụ. Việc tổ chức những nghi lễ
đó đòi hỏi sự hợp tác của mọi người trong một vùng rộng lớn.
Ma chay
Một trong những nghi lễ quan trọng của cư dân bản địa Australia là Ma chay (hay
Tang lễ). Đây là nghi lễ chôn cất người chết. Những người con sống tham dự buổi lễ than
khóc trước sự mất mát của người thân yêu thông qua những tiếng tri hô lớn, những bài
hát, điệu múa, vẽ lên người những họa tiết màu trắng, và cắt cơ thể của mình. Những bài
hát, những điệu múa để đưa tiễn linh hồn về nơi yên nghỉ cuối cùng, trở về nơi mình được
sinh ra để rồi lại tái sinh. Những đặc điểm này phù hợp với các giá trị tôn giáo của cư dân
bản địa Australia.
Cư dân bản địa Australia quan niệm rằng không được gọi tên người đã mất bởi vì
làm như vậy sẽ níu kéo và làm phiền linh hồn của họ. Trong ngày ma chay, họ dùng bột
trắng vẽ lên người, cắt vào thân thể mình để thể hiện sự đau buồn mất mát với người chết.
Việc chôn cất của cư dân bản địa khác nhau theo từng vùng. Các nghi lễ gắn liền với cái
chết là khác nhau bởi các nhóm ngôn ngữ khác nhau. Do đó mà các nghi lễ và lễ liên quan
đến cái chết cũng khác nhau giữa các nhóm ngôn ngữ. Ở một số vùng, người ta tin rằng
19
khi chết đi, linh hồn của người chết sẽ hòa nhập với tổ tiên hoặc liên kết với những nơi
thiêng liêng của một nhóm cư dân bản địa. Đối với một số nơi khác, người ta tin rằng con
người có hai linh hồn, một là linh hồn thiện, vô hại với sự sống. Nhưng đối với linh hồn
còn lại, là cái tà ác trong con người, linh hồn này có thể gây hại cho tổ tiên, cho sự sống
trên vùng đất này. Do vậy, nhiều nghi lễ được thực hiện để kiềm hãm sự phá phách của
linh hồn tà ác.
Ở hầu hết khắp phía Bắc Australia, việc chôn cất người chết bao gồm hai giai đoạn,
mỗi giai đoạn đều có những nghi lễ và lễ riêng.
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn chôn cất chính. Khi xác chết được đặt trên một bục
gỗ cao, phủ lá và cành cây khắp thân thể rồi để xác chết cho đến khi thịt mục rữa đi còn
lại xương.
Giai đoạn thứ hai là việc thu thập bộ xương ấy, sau đó vẽ lên bộ xương ấy màu đất
son đỏ và rải khắp nơi. Đôi khi, người thân trong gia đình sẽ bọc bộ xương ấy lại và đem
cất vào trong hang động cho đến khi bộ xương bị phân hủy theo thời gian. Một số khu
vực Arnhem Land, xương của người chết được đặt vào trong những khúc gỗ rỗng lớn và
khúc gỗ ấy được đem vào bụi rậm được chỉ định sẵn. Những thân gỗ rỗng lớn ấy được tạo
thành bởi sự đục mọt của những con mối ăn mọt gỗ.
Thông qua hai giai đoạn của Tang lễ, chúng ta có thể thấy rằng, khi con người chết
20
đi, cả tâm hồn lẫn thể xác đều trở về với đất, trở về với nơi cư ngụ của tổ tiên, được đoàn
tụ với tổ tiên. Điều này rất phù hợp với niền tin tín ngưỡng và điều lệ của cộng đồng cư
dân bản địa Australia.
2.2. Lễ hội
Trước năm 1788, lục địa Australia vẫn còn tách biệt với thế giới bên ngoài, một lục
địa vẫn chưa được nhiều người khám phá, các hình thức giải trí không nhiều. Ngoài một
số nghi lễ hay các hoạt động nghệ thuật cổ điển, lễ hội cũng được coi là một hình thức
giải trí của cộng đồng cư dân bản địa Australia. Trong thời kỳ này, cư dân bản địa
Australia vẫn chưa có một lễ hội thật sự, chủ yếu là những buổi tối các thổ dân hội họp
với nhau, kể lại những sự việc mới mẻ trong cuộc sống hằng ngày. Đây là hình thức
truyền khẩu giữa
Các thành viên trong gia đình với nhau
Gia đình với gia đình
Các nhóm thổ dân ở các vùng khác nhau
Các thành viên trong gia đình cư dân bản địa Australia, ban ngày đàn ông thì săn
bắt, còn phụ nữ và trẻ em thì hái lượm, nhặt hái những loại trái cây, những loại hạt có sẵn
trong tự nhiên làm nguồn thức ăn. Khi đêm đến, gia đình tụ tập với nhau kể lại những
hoạt động săn bắt như thế nào, người lớn thì kể cho con cái nghe những sự tích, những
truyền thuyết linh thiêng của thị tộc mình.
Đối với tụ tập, hội họp giữa gia đình với gia đình, đây có thể gọi là cuộc họp mặt
của một thị tộc, của một nhóm gia đình cùng sử dụng chung một ngôn ngữ giao tiếp.
Những gia đình có thể đốt lửa ngoài trời và ngồi tụ tập xung quanh trò chuyện với nhau,
cùng nhau thư giãn sau một ngày làm việc vất vả. Các gia đình có thể trao đổi thức ăn
kiếm được. Ngoài ra còn chia sẻ những kinh nghiệm để săn bắt những loài thú lớn. Việc
hội họp như thế này góp phần tạo nên sự đoàn kết trong cộng đồng của một thị tộc cư dân
bản địa Australia. Những câu chuyện, truyền thuyết về thời kỳ Dreamtime, truyền thuyết
về Đấng sáng tạo thế giới cũng từ đây mà được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các
thế hệ trẻ nhờ vậy sẽ biết tôn thờ những vị thần của thị tộc mình, biết bảo vệ vùng đất Tổ
21
của mình – nơi mình sinh ra và tồn tại.
Đối với các nhóm cư dân bản địa ở những vùng khác nhau, thỉnh thoảng sẽ tổ chức
những buổi tụ tập với mục đích trao đổi nguồn lương thực, thực phẩm. Các nhóm cư dân
bản địa sẽ tiếp xúc với nhau, trao đổi với nhau nhiều thông tin về vùng đất mới, về nền
văn hóa của nhau. Việc giao tiếp gặp nhiều khó khăn khi các một số nhóm cư dân bản địa
không sử dụng chung một loại ngôn ngữ. Thay vào đó, họ có thể sử dụng ngôn ngữ hình
thể để diễn tả cho nhau hiểu. Nhưng, hậu quả của việc này dẫn đến sự xung đột giữa các
nhóm cư dân bản địa do hiểu lầm nhau, gây ra chết chóc, đau thương.
Lễ hội mang tính cộng đồng rất cao, là hình thức lưu lại dòng lịch sử và văn hóa của
một cộng đồng cư dân bản địa. Đời sống ngày càng phát triển, hoạt động thường xuyên
của con người cũng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Từ đó, những câu chuyện được
truyền lại ngày càng nhiều, càng nhiều điều mới lạ hơn. Nhiều hoạt động ca hát, nhảy
múa diễn ra ngày càng phổ biến trong các hoạt động lễ hội của cư dân bản địa Australia.
Có thể nói, các lễ hội của cư dân bản địa Australia trước năm 1788 đa số đều gắn
liền với các nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng. Một số lễ nghi có thể được xem là lễ hội của
cư dân bản địa Australia liên quan đến các địa điểm linh thiêng và sự tồn tại của cộng
đồng cư dân bản địa Australia. Trong đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân bản địa
Australia, các yếu tố như tôn giáo, tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội, nghệ thuật hay ma thuật
đều liên quan mật thiết với nhau.
2.3. Ma thuật
2.3.1. Khái niệm
Trước hết, về khái niệm ma thuật, cho đến nay vẫn còn những kiến giải khác nhau.
Nhiều người cho rằng ma thuật là những hành động khác nhau của con người, nhằm một
mục đích nào đó, tác động đến thế giới bên ngoài, bằng các biện pháp như thần chú, lời
nguyện, thuốc men… “Ma thuật dựa trên cơ sở niềm tin rằng bên cạnh thế giới thực,
dường như còn tồn tại một thế giới siêu nhiên, các hiện tượng của giới tự nhiên dường
như được các sức mạnh siêu nhiên chi phối, và con người trong những hoàn cảnh và điều
kiện nhất định dường như có được sức mạnh siêu nhiên, mà nhờ đó tác động đến các hiện
22
tượng tự nhiên và số phận con người theo mong muốn của mình”1.
Ma thuật xuất hiện từ thời nguyên thủy, và trở thành một hình thái của tín ngưỡng
nguyên thủy và tiếp tục tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước. Tuy nhiên, sự tác
động của nó đến con người trong xã hội nguyên thủy sâu rộng, phong phú và đa dạng; còn
trong các xã hội có giai cấp, phạm vi tác động của nó bị thu hẹp lại.
2.3.2. Phân loại
Về phân loại ma thuật, có nhiều cách khác nhau để phân loại. Người ta có thể căn cứ
vào mức độ phức tạp, căn cứ vào tính chất, căn cứ vào sự tác động đến đối tượng trực tiếp
hay gián tiếp, gần hay xa, toàn bộ hay một bộ phận con người hoặc căn cứ vào mục đích
để phân thành các loại hình ma thuật khác nhau.
Căn cứ vào mức độ phức tạp, người ta chia ma thuật thành ma thuật với tác
động mang tính cá nhân và ma thuật với tác động mang tính tập thể.
Căn cứ vào tính chất, người ta phân biệt ma thuật phòng ngừa và ma thuật gây
hấn.
Đáng chú ý hơn cả là cách phân loại ma thuật dựa trên mục đích. Dựa vào mục
đích, các nhà nghiên cứu đã phân ra làm hai nhóm là ma thuật trắng và ma thuật
đen. Ma thuật trắng là những loại ma thuật hướng tới những mục đích tốt đẹp
như giúp con người thoát khỏi hoạn nạn, ma thuật cầu mưa, các loại ma thuật
tạo ra thức ăn, ma thuật kết nối tình cảm giữa con người với thiên nhiên và với
nhau,… Ma thuật đen là những loại ma thuật nhằm hại người khác, giết người
hay gây ra bệnh tật cho người khác,.. Tuy vậy, ranh giới giữa ma thuật đen và
ma thuật trắng không rõ ràng. Có đôi khi các hoạt động ma thuật tạo ra điều tốt
cho mình nhưng lại gây ra điều xấu cho người khác. Hay sử dụng ma thuật tình
ái cho người đã có chồng để cô gái đó yêu chàng trai cũng không thể gọi là ma
thuật trắng. Do đó sự phân loại ma thuật như thế nào phải tùy vào cách nhìn
nhận của người nghiên cứu.
1 Ma thuật làm hại trong tín ngưỡng các dân tộc và phương pháp khắc phục – GS.TS Phan
Hữu Dật
23
2.3.3. Ma thuật của cư dân bản địa Australia
Ma thuật cũng được sử dụng trong các hoạt động mưu sinh của nhiều dân tộc trên
thế giới. Nhiều dân tộc sử dụng ma thuật có tính quy luật của họ. Nhà dân tộc học nổi
tiếng B.Malinôpxki đã nhận ra được tính có quy luật trong sử dụng ma thuật của con
người sau một thời gian dài nghiên cứu thực địa ở các đảo Trobriăng, thuộc quần đảo
Mêlanêdi, châu Đại Dương. Khi trồng khoai sọ và khoai môn thổ dân dùng ma thuật.
Nhưng khi trồng dừa, chuối, xoài, mít thì lại không dùng ma thuật. Trong hoạt động đánh
cá, nếu đánh bắt cá mập đầy nguy hiểm thì dùng ma thuật, còn các loại cá không nguy
hiểm đến tính mạng con người thì không dùng ma thuật. Khi đóng thuyền thì dùng ma
thuật, còn khi làm nhà thì không. Cư dân đảo Trobriăng rất thạo nghề chạm khắc trên gỗ,
nếu chạm trên gỗ mềm và hoa văn đơn giản, ai cũng làm được thì không dùng ma thuật,
còn nếu chạm trên gỗ cứng hoa văn phức tạp, không phải ai cũng làm được thì lại dùng
ma thuật. Như vậy khi hoạt động kiếm sống trong những điều kiện được đảm bảo, tổ chức
lao động hợp lý, kết quả đạt được là chắc chắn thì khi đó không cần đến ma thuật, còn khi
kết quả đạt được bấp bênh, có thể được, có thể không thì người ta lại dùng đến ma thuật.
Trong đời sống của cư dân bản địa Australia ngày đó cũng cũng tồn tại những hoạt
động tín ngưỡng và như thế, dĩ nhiên là cũng tồn tại hoạt động ma thuật.
Ma thuật mưu sinh
Thứ nhất là ma thuật trong hoạt động mưu sinh. Tài liệu Dân tộc học cho thấy trong
hoạt động mưu sinh của con người, ma thuật cổ xưa nhất thường liên quan đến các hoạt
động săn bắt (săn bắn), hái lượm và đánh cá. Cư dân bản địa Australia sống cuộc sống du
cư trên vùng sa mạc khô nóng. Mùa hè thì khô cằn, con người sống lay lắt, mùa mưa thì
suối sông đầy nước, cây cỏ nảy mầm xanh tươi, động vật sinh sôi nảy nở. Để có thể bắt
được động vật làm thức ăn cho mình, người cư dân bản địa cũng sử dụng ma thuật trong
hoạt động săn bắt. Nếu như ở các vùng đất khác, người đi săn thực hiện các động tác phù
phép vào các dụng cụ săn như lao, mộc, lưới; vẽ các hình vẽ vào mặt và thân hình, xoa và
bôi một số bột hoặc dưới dạng nước vào tay chân, thân hình và các dụng cụ săn, đeo vào
người các loại bùa; lại còn phải tuân thủ một số kiêng cữ: như không ăn một số thức ăn,
không được sinh hoạt tình dục; đối tượng săn bắt và con đường đi về đều phải tuyệt đối