Câu 7: Anh (chị) hãy kể tên các tố chất thể lực và trình bày phương pháp giáo dục tố chất sức
mạnh?
Các tố chất thể lực: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo.
Các phương pháp giáo dục sức mạnh:
1. Khái niệm sức mạnh: Là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng sức mạnh cơ bắp, nói
cách khác, sức mạnh của con người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề
kháng lại nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp.
2. Nhiệm vụ và phương tiện rèn luyện sức mạnh:
Nhiệm vụ chung của quá trình rèn luyện sức mạnh nhiều năm là phát triển toàn diện và đảm bảo
khả năng phát huy cao sức mạnh trong các hình thức hoạt động vận động khác nhau.
Nhiệm vụ cụ thể của rèn luyện sức mạnh là:
- Tiếp thu và hoàn thiện các khả năng thực hiện các hình thức sức mạnh cơ bản: Sức mạnh tĩnh
lực và động lực, sức mạnh đơn thuần và sức mạnh tốc độ, sức mạnh khắc phục và sức mạnh
nhượng bộ.
- Phát triển cân đối sức mạnh của tất cả các nhóm cơ của hệ vận động.
- Phát triển năng lực sử dụng hợp lý sức mạnh trong các điều kiện khác nhau.
Ngoài ra tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi hoạt động mà đề ra các nhiệm vụ rèn luyện sức mạnh
chuyên môn.
Để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng các bài tập sức mạnh, tức là các động tác với lực đối
kháng. Căn cứ vào tính chất lực đối kháng, các bài tập sức mạnh được chia thành hai nhóm.
+ Các bài tập với lực đối kháng bên ngoài:
- Các bài tập với dụng cụ nặng.
- Các bài tập với lực đối kháng của người cùng tập.
- Các bài tập với lực đàn hồi.
- Các bài tập với lực đối kháng của môi trường bên ngoài (Chạy trên cát, trên mùn cưa).
+ Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể.
Ngoài ra, trong rèn luyện sức mạnh, người ta còn sử dụng rộng rãi các bài tập khắc phục trọng
lượng cơ thể cộng thêm với trọng lượng của vật thể bên ngoài.
3. Các khuynh hướng, phương pháp cơ bản trong rèn luyện sức mạnh:
Như trên đã nêu, trong rèn luyện sức mạnh là tạo ra kích thích lớn đối với hoạt động của cơ.
Trong thực tế, thường có 3 cách tạo căng cơ tối đa.
- Lặp lại cực hạn lượng đối kháng chưa tới mức tối đa.
- Sử dụng lượng đối kháng tối đa.
- Sử dụng trọng lượng chưa tới mức tối đa với tốc độ cực đại
3.1. Sử dụng lượng đối kháng chức tới mức tối đa với số lần lặp lại cực hạn.
Phương pháp nỗ lực lặp lại có những ưu điểm sau:
* Tăng sức mạnh cùng với sự phì đại cơ bắp. Khối lượng vận động lớn tất yếu sẽ dẫn đến những
biến đổi mạnh mẽ trong quá trình trao đổi chất.
- Tăng thiết diện cơ nhờ tập luyện gọi là phì đại vận động. Nói chung các sợi cơ không phân
chia. Trong trường hợp đặc biệt mới thấy một số rất ít sợi cơ bị phân chia nhỏ. Với sự phì đại quá
lớn, có thể dẫn tới hiện tượng tách cơ theo chiều dọc một cách cơ học, nhưng chúng ta vẫn có
chung dây chằng.
* Sử dụng lượng đối kháng chưa tới mức tối đa sẽ hạn chế được hiện tượng ép khí lồng ngực.
* Bài tập với lượng đối kháng chưa tới mức tối đa tạo khả năng kiểm tra kỹ thuật tốt hơn.
* Đối với người mới tập sử dụng phương pháp nỗ lực lặp lại hạn chế được chấn thương.
* Tiêu hao năng lượng tương đối lớn cũng có lợi với buổi tập theo xu hướng sức khoẻ.
Phương pháp nỗ lực lặp lại có những nhược điểm sau:
* Không có lợi thế về mặt năng lượng.
* Hiệu quả của phương pháp thấp hơn so với sử dụng lượng đối kháng tối đa.
3.2. Sử dụng lượng đối kháng tối đa và gần tối đa:
Trong trường hợp cần tăng sức mạnh cơ bắp nhưng hạn chế được hiện tượng tăng khối lượng của
nó, người ta thường tập luyện theo xu hướng thứ 2 – xu hướng sử dụng lượng đối kháng tối đa và
gần tối đa.
3.3. Sử dụng các bài tập tĩnh trong rèn luyện sức mạnh.
sngày nay pp tập tĩnh chỉ được coi là 1 pp độc đao của pp nỗ lực cực đại. hơn nữa đó chỉ là pp
thứ yếu trong rluyên SM.
PPtập tĩnh có 1 số ưu điểm:
– Duy trì ổn định sự căng cơ trong tgian tương đối dài
– Các bài tập tĩnh không đòi hỏi thời gian, trang thiết bị đơn giản
– Có thể tác động bất kỳ lên nhóm cơ nào
– Có thể thực hiện trong điều kiện biên độ động tác hạn chế.
Tuy vậy PP tập tĩnh có những hạn chế rất cơ bản: hiệu quả thấp hơn so với các bài tập động
Các btập tĩnh nên sdụng dưới dạng căng cơ tối đa kéo dài 5-6 giây (ít hơn hoặc nhiều hơn tgian
đó đều kém hquả).
Khi sdụng btập tĩnh thì sự phát triển của SM chỉ được thể hiện chủ yếu ở những tư thế đã tluyện.
Vd, nếu dùng btập tĩnh để phát triển SM các cơ gấp khớp cảng tay ở góc 90 độ, thì các góc vượt
ra ngoài giới hạn 90+-20dộ, lực cơ tăng lên rất ít. Vì vậy mỗi nhóm cơ phải được tập theo các
góc đọ khớp khác nhau hoặc chọn tư thế khó khăn nhất của đtác thi đấu.
Khối lượng các bài tập tĩnh nên lớn. Mỗi buổi tập chỉ nên dành 10-15 phút ch tập tĩnh. nếu mục
đích là tăng Sm cơ thì không nê sdụng cácc bài tập tĩnh ở dạng ổn định quá 1-2 tháng.
CÂU 8: Anh (chị) hãy định nghĩa và phân loại môn điền kinh:
Điền kinh là một tập hợp các môn thể thao cạnh tranh bao gồm đi bộ, chạy các cự ly, nhảy
cao, nhảy xa, ném lao, ném đĩa, ném búa, đẩy tạ và nhiều môn phối hợp khác. Với việc cần ít các
thiết bị đi kèm và tính đơn giản của các môn này đã khiến điền kinh trở thành các môn thể
thao được thi đấu nhiều nhất trên thế giới. Điền kinh chủ yếu là môn thể thao cá nhân, với ngoại
lệ là các cuộc đua tiếp sức và các cuộc thi mà kết hợp biểu diễn vận động viên chẳng hạn như
chạy băng đồng.
Cơ sở của môn điền kinh chính là các động tác tự nhiên có tác dụng phát triển toàn diện về thể
lực và tăng cường sức khỏe. Chính vì vậy, điền kinh được xem là rất quan trọng trong giáo dục
thể chất cũng như trong chương trình tập luyện vì sức khoẻ của mọi người.
* Phân loại: điền kinh là 1 môn thể thao có nội dung rất phong phú. Để thuận tiện cho viecj
giảng dạy, HLV và giáo viên phân loại thành 2 cách chủ yếu sau: phân loại theo nhóm môn và
phân loại theo tính chất hoạt động
Phân loại theo tính chất hoạt động: dựa vào đặc điểm từng môn có hay không có chu kỳ, người
ta phân điền kinh thành 2 nhóm môn
+) Nhóm môn hoạt động theo chu kỳ: đi bộ và chạy
+) Nhóm hoạt động không theo chu kỳ: nhảy, ném, các môn phối hợp
Phân loại theo nhóm môn: dựa vào đặc thù của từng môn, người ta chia điền kinh ra làm 5
nhóm:
1. Nhóm đi bộ: cự ly luyện tập thường là 3-50 km, là những môn thi trong đại hội thể thao
2. Nhóm các môn chạy:
a) Chạy trong sân vận động
+) Chạy cự ly ngắn: 20- 400m, trong đó 100m, 200, 400m là các môn thi đấu trong các
đại hội thể thao Olympic
+) Chạy cự ly trung bình: 500-2000m, trong đó chạy 800 – 1500m là các môn thi trong
các đại hội Olympic.
+) Chạy cự ly dài: 3000- 30000m, trong đó 3000m (nữ), 5000-10000m (nam) là các môn
thi đấu trong các thế vận hội Olympic
b) Chạy trên địa hình tự nhiên: từ 500- 50000m, trong đó môn chạy marathon (42,195m)
là môn thi trong các đại hội Olympic. Ngoài rat hi chạy việt dã, marathon còn được tổ
chức riêng ở các khu vực hoặc các quốc gia trong hệ thống thi đấu cảu liên đoàn điền
kinh nghiệp dư quốc tế.
c) Chạy vượt chướng ngại vật: chạy vượt rào từ 80-400m và chạy 3000m vượt chướng
ngại vật, trong đó chạy vượt rào 100m (nữ), 110m (nam); 200m và 400m, 3000m là
các môn thi đấu trong đại hội olympic
d) Chạy tiếp sưc: chạy cự li ngắn ( 50-400m), tiếp sức cự li trung bình (800- 1500m) và
chạy tiếp sức hỗn hợp (800 + 400 +200 +100m; 400+300 +200 +100 m…) trong đó
môn thi 4x 100m và 4x400m là các môn thi bắt buộc trong đại hội thể thao Olympic
3. Các môn nhảy xa: gồm nhảy xa, nhảy 3 bước, nhảy côn, nhảy sào. Các môn này đều có
trong chương trình thi đấu của đại hội Olympic
4. Nhóm các môn ném: ném bóng, ném lựu đạn, ném dĩa, ném đao, ném tạ xích, dây tạ.
Trong đó ném lao, ném dĩa, ném tạ xích và dây tạ là những môn thi trong ĐHTTO.
5. Nhóm các môn phối hợp:
+) 7 môn phối hợp của nữ: chạy 100m rào, nhảy cao, dây tạ (0.4kg), chạy 200m, nhảy xa,
ném lao 800m.
+) 10 môn phối hợp nam: chạy 100m, nhảy cao, nhảy xa, chạy 400m, chạy 110m rào, ném đĩa,
nhảy sào, ném lao và chạy 1,5km
Câu 10: Anh chị hãy nêu các khái niệm Giáo dục thể chức, Giáo dưỡng thể chất và Chuẩn
bị thể lực.
GDTC là một hình thức giáo dục nhằm trang bị kỹ năng kỹ xảo vận động và những tri thức
chuyên môn, phát triển tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe.
Giáo dưỡng thể chất là quá trình hình thành và hoàn thiện kĩ năng, kĩ xảo vận động quan trọng
trong cuộc sống, kể cả kỹ năng, kỹ xảo thực dụng về thể thao và trang bị những kiến thức chuyên
môn.
CBTL là kết quả của quá trình chuẩn bị thể lực, kỹ năng vận động cho một loại hình hoạt động
nào đó.
Câu 11: Anh chị hãy trình bày nội dung hô hấp trong hoạt động thể dục thể thao?
Đường đi của không khí vào hệ hô hấp: từ mũi -> khí quản -> phổi -> phế nang. Diện tích các
phế nang này từ 100-200 m2.
Các giai đoạn hô hấp
-Hô hấp ở phổi: xảy ra hiện tượng cơ học hít vào thở ra. Nhờ có Hb trong máu làm trung
gian mà xảy ra hiện tượng hô hấp ở phế nang.
+ Tác dụng đối với phổi khi tập luyện các cơ quan lồng ngực được nở ra do vậy hai lá phổi cũng
được phát triển theo dẫn tới diện tích phế nang cũng được tăng cường tức là khả năng trao đổi
khí ở phổi tập luyện tốt sẽ xây dựng được phản xạ thở sâu và thở sâu dẫn tới tần số hô hấp giảm.
-Hệ hô hấp tổ chức: so sánh người tập luyện và người ít tập luyện thì cùng một lượng Hb
như nhau ở người ít rèn luyện là 100g Hb có 22cc o2 còn ở người tập luyện có 28cc o2
+Tác dụng đối với hệ vận động: Hệ vận động gồm có cơ, khớp, xương
+Tác dụng đối với xương: tập luyện làm thành xương dày lên, ống tủy nhỏ lại làm xương vững
chắc. Nếu tập luyện đầy đủ, sụn kích thích phát triển nhanh chóng làm cho xương dày thêm,
người cao hơn. Nhất là ở lứa tuổi còn đang phát triển.
+Tác dụng đối với cơ: khi tập luyện TDTT làm cho các mao quản trong bắp thịt được tăng cường
hoạt động.
Câu 13: Khái niệm hô hấp ngoài, hô hấp trong. Vẽ sơ đồ .
- Hô hấp ngoài: Là quá trình vận chuyển ôxy từ ngoài vào máu thông qua hệ hô háp và đào thải
CO2 từ máu ra ngoài.
Đảm nhiệm chức năng hô hấp ngoài là vòng tuần hoàn nhỏ: Trao đổi khí ở phổi.
- Hô hấp trong : Hay còn gọi là hô hấp tế bào là quá trình trao đổi ôxy và CO 2 giữa máu và tế
bào
Câu 15:Đẻ hạn chế chấn thương trong quá trình tập luyện và thi đấu, chúng ta cần tuẩn
thủ theo những quy tắc nào
Chấn thương trong thể thao là điều luôn luôn có thể xảy ra, việc điều trị các chấn thương này
cũng thường kéo dài làm hạn chế thành tích và khả năng tập luyện. Vì vậy, tốt nhất phải biết
cách phòng ngừa để giảm thiểu nguy cơ bị chấn thương. Cần nắm vững các nguyên tắc sau đây:
Kiểm tra sức khỏe trước khi chơi thể thao
Đánh giá sức khỏe tổng quát, phát hiện các bệnh tiềm ẩn có thể gây nguy hiểm tính mạng
như viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, hen suyễn…
Phát hiện các khuyết tật hệ cơ xương khớp có thể gây chấn thương
Phát hiện các tình trạng mà người chơi không nên tham gia môn thể thao nào đó. Vd:
người có 1 thận không nên chơi các môn có đối kháng như võ thuật
Đánh giá sức mạnh đối với môn thể thao đã chọn
Đưa ra các lời khuyên về chương trình tập luyện
2.Quần áo và giày dép thích hợp
Giúp chịu đựng sự thay đổi nhiệt độ
Giữ mát: màu nhạt, cotton
Giữ ấm: nhiều lớp như áo gió khoác ngoài
Mặc đồ thể dục khi làm ấm để giữ nhiệt
Khi thi đấu, nam nên luôn có đồ bảo vệ vùng kín, nữ luôn mang nịt ngực
Khi chạy buổi tối, nên mang áo có cản quang
3.Hiểu rõ môi trường khí hậu
Cơ thể có thể bị quá nóng hay quá lạnh do thời tiết và quần áo mang không phù hợp.
Nhiệt độ cơ thể tăng và mệt mỏi có thể gây choáng váng, ngất xỉu
Trời lạnh, đặc biệt nếu ẩm ướt và có gió, dễ gây hạ nhiệt độ cơ thể.
4. Khởi động kỹ trước khi tập và “làm nguội” sau khi tập
Cần khởi động kỹ các động tác, đặc biệt là các động tác mềm dẻo của các khớp để tránh các hiện
tượng sái khớp, sưng khớp.
Trước khi tập: làm nóng, kéo dãn, tập dợt trước các động tác
- Làm nóng(5phút): giúp tim tăng bơm máu, xung thần kinh dẫn truyền tăng, mềm và ấm cơ,
tăng dịch nhờn bôi trơn khớp.
Đạp xe tại chổ, chạy chậm, đi nhanh, leo cầu thang, nhảy dây
Không gây mệt, chỉ để chuẩn bị kéo dãn. Đến khi ra mồ hôi là vừa.
- Kéo dãn(5-10phút): giúp mềm dẻo gân cơ, dây chằng, tăng tầm độ khớp
Đặc biệt khi có tuổi và có chấn thương sẵn
Không đau
30-60giây mỗi động tác
Không nhảy lên nhảy xuống để kéo dãn và làm cơ co dãn quá nhanh
Vd:
Tennis: kéo dãn vai, tay, cổ, cẳng chân, gót, cổ chân
Chạy bộ: kéo dãn chân, thắt lưng, tứ đầu, đùi sau, bắp vế, mông
- Tập dợt trước các động tác (10 phút): giúp phối hợp nhịp nhàng, giảm nguy cơ chấn thương do
trượt ngã, đánh hụt…
Lý tưởng: 10 phút ngay trước khi vào tập
Bắt chước các động tác tập.
Vd: Trước khi chạy bộ: tập đi-chạy-chạy chậm
Trước khi chơi quần vợt: tập đánh qua lại nhẹ nhàng
Sau khi khởi động, các môn cần sức chịu đựng cao như chạy, bơi, đua xe đạp, nhịp tim nên đạt
đến 50% nhịp tối đa .
Sau khi tập xong: Không bao giờ ngưng đột ngột dễ làm nhịp tim giảm nhanh, gây đau đầu,
thậm chí ngất xỉu.
- Làm nguội: 5phút
Giống như giai đoạn làm nóng, thực hiện nhẹ nhàng để nhịp tim về bình thường
Vd:
Sau khi chạy bộ: chạy chậm dần rồi đi bộ
Sau khi chơi quần vợt: chạy, đi trên máy, đạp xe tại chỗ..
- Kéo dãn thả lỏng, xoa bóp nhẹ:
Tóm lược lại các động tác như giai đoạn kéo dãn
Làm cơ không co lại quá nhanh
Giúp cơ đào thải a xit lactic, giảm nhức mỏi
5.Ngoài các nguyên tắc trên, cần sử dụng đúng dụng cụ, không tập quá mức, không thực hiện các
động tác mạnh một cách đột ngột, đặc biệt là với các động tác xoay khi lấy khớp gối làm trụ,
không thực hiện các động tác khó khi thấy đau và có trở ngại của vận động khớp, nắm vững kỹ
thuật của môn chơi.
Câu 17: Anh (chị) hãy trình bày khái niệm chấn thương, phân loại, sơ cứu ( cách xử trí và
biện pháp phòng ngừa chấn thương trong tập luyện và thi đấu.
I. Khái niệm chấn thương.
Chấn thương thể dục thể thao là những tổn thương về thực thể hoặc chức năng do tập
luyện và thi đấu gây nên.Đó chính là sự tổn thương về cấu trúc giải phẫu bình thường của một tổ
chức nào đó do tác động từ bên ngoài kéo theo sự suy giảm, rối loạn hoặc làm mất đi chức năng
sinh lý bình thường của tổ chức đó. Các tác nhân gây ra chấn thương thường rất đa dạng, có thể
là các tác nhân cơ học, lý học hay hoá học... tuỳ thuộc vào vị trí điều kiện và nguyên nhân gây ra
chấn thương mà có thể chia chấn thương thành các dạng như : chấn thương do sản xuất, chấn
thương trong sinh hoạt, chấn thương do tai nạn giao thông, chấn thương trong chiến tranh và
chấn thương thể thao. Tuy trong các dạng chấn thương trên, chấn thương thể thao chỉ được xếp
vào hàng cuối cùng và chỉ chiếm khoảng 2 - 3% trong tổng số các chấn thương thường gặp
nhưng cũng phải đặc biệt chú trọng tới vấn đề này bởi vì trong tập luyện thể dục thể thao tỷ lệ
mắc chấn thương cần phải giảm tới mức tối thiểu. Thực tếcho thấy ở nơi nào mà bác sĩ, các huấn
luyện viên và giáo viên đặc biệt quan tâm tới vấn đề này thì ở nơi đó chấn thương thường rất ít
xảy ra, vì vậy trong công tác phòng ngừa chấn thương cần phải có sự tham gia tích cực của mỗi
bác sĩ, GV và HLV. Bên cạnh đó để đạt được hiệu quả cao trong công tác này những người có
trách nhiệm cũng cần phải hiểu biết một cách cận kẽ và thấu đáo về đặc điểm, nguyên nhân và
điều kiện gây ra các chấn thương.
II- Phân loại chấn thương trong thể dục thể thao
1. Căn cứ vào thực thể tổn thương (tổ chức giải phẫu): được chia làm hai loại là :
- Tổn thương phần cứng như gãy xương, sai khớp...
Gãy xương là do xương bị gãy, mất sự liên tục thường có của xương, thường xảy ra đột ngột
do
chấn
thương
hoặc
tai
nạn.
Dấy hiệu: đau tại vùng xương gãy, đau tăng lên khi sờ ấn or nhúc nhích đoạn kề đó; Sưng
nềto khi gãy xương lớn, chảy máu,có bầm tím đặc trưng cho từng loại gãy xương; không thể
nhấc chân hoặc tay lên được vì đoạn gãy không còn là cánh tay đòn để cơ kéo; Thay đổi hình
dạng của đoạn chi, vd: đoạn chi đó ngắn hơn, lồi lõm bất thường;Trường hợp gãy xương hở,
có
thể
nhìn
thấy
đầu
xương
gãy.
Cố định tạm thời làm giảm đau khi bị gãy xương và tránh được các biến chứng như xương di
lệch thêm hoặc gây tổn thương mạch máu, thần kinh hoặc cơ. Trong trường hợp gãy xương
hở, trước khi cố định cần xử lý vết thương theo nguyên tắc: không rửa, không đẩy xương thò
ra vào sâu, phải lau bẩn xung quanh vết thương, bôi thuốc sáttrùng và băng ép vô khuẩn.
Cố định bằng các loại nẹp y tế tiêu chuẩn sản xuất như nẹp Tomat cố định gãy xương đùi,
nẹp Cơramer hình bậc thang cố định nhẹ. Tuy nhiên cũng có thể dùng nẹp tự tạo or phương
tiện có sẵn nơi xảy ra chấn thương như đòn gánh, gỗ đủ độ dài. Nếu gãy xương đùi cần cố
định các khớp háng, khớp gối, khớp cổ chân; Nếu gãy xương cẳng chân cần cố định khớp
gối, khớp cổ chân; Nếu gãy xương cẳng tay cần cố định khớp khuỷu và khớp cổ tay.
Yêu cầu của cố định: Phải chắc chắn, cố định trong tư thế chức năng là dễ chịu nhất và tư thế
thường
sử
dụng
nhất.
Khi VĐV bị gãy xương phải vận chuyển bằng mọi phương tiện đến cơ sở điều trị nhanh nhất
và an toàn nhất. Chuẩn bị phương tiện và cố định thật tốt mới chuyển. Gãy xương cột sống
phải nằm trên ván cứng, gãy xương đùi cũng phải vận chuyển trên cáng nằm, còn gãy xương
chi trên có thể vận chuyển ở tư thế ngồi.
Sai-trật khớp
Trật khớp là việc xương bị nhô ra khỏi ổ khớp sau một động tác nào đó rồi trở lại vị trí cũ. Trật
khớp thường kéo theo giãn dây chằng, mà phổ biết nhất là chấn thương lật cổ chân hay trật khớp
vai. Trật khớp thường rất đau đớn và đôi khi kèm theo cả vết bầm tím do chảy máu trong vùng
chấn thương.
Trật khớp nhẹ chỉ cần chườm đá trong 1-2 ngày, hạn chế cử động vết đau rồi xoa bóp với thuốc,
dầu nóng thì tầm 8-10 ngày sẽ khỏi. Nhiều người bị sai-trật khớp nhẹ nhưng chủ quan, không
nghỉ ngơi mà tiếp tục chơi thể thao khiến chấn thương thành mãn tính.
Trật khớp nặng phải giữ nguyên chấn thương, chườm lạnh rồi đưa đến bệnh viên hay trung tâm
chữa trị trật đả. Tránh bóp giật hay bẻ để “nắn khớp” nếu không có chuyên môn, kỹ thuật hay
kinh nghiệm chữa trị. Trật khớp nặng thường nhiều khả năng dính thêm chấn thương khác là đứt
dây chằng nên việc tự ý nắn bóp, giật bẻ rất nguy hiểm cho người bị chấn thương.
- Tổn thương phần mềm như đụng dập, rách, thủng, đứt cơ, màng cơ, gân, tổn thương thần
kinh, nội tạng... Trong số các chấn thương đụng dập thì gần 50% là các chấn thương khớp và
trong đó chấn thương khớp gối chiếm khoảng 30%.
2.Căn cứ theo thời gian bị tổn thương (phản ứng cục bộ hoặc toàn thân)
Được chia làm hai giai đoạn là giai đoạn cấp tính và giai đoạn hồi phục .
GĐ cấp tính : là phản ứngcủa cơ thể xảy ra trong phạm vi từ 24 - 48 giờ sau khi bị chấn
thươngnhư xưng, nóng, đỏ đau
GĐ hồi phục : được diễn ra sau 48 giờ kể từ lúc bị chấn thương lúc này phản ứng của cơ
thể đã kết thúc để chuyển sang giai đoạn hồi phục. Thời gian của giai đoạn này sẽ phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố như : sơ cứu ban đầu, phương pháp điều trị, sức khoẻ của nạn nhân...và nếu thời
gian hồi phục kéo dài mà thực thể hoặc chức năng bị tổn thương vẫn không hồi phục lại được
bình thường thì chấn thương sẽ chuyển sang giai đoạn mãn tính.
3. Căn cứ vào mức độ tổn thương và ảnh hưởng của chúng đến kế hoạch huấn luyện
thi đấu
Được chia thành những mức độ sau :
Loại nhẹ : không làm ảnh hưởng đến kế hoạch huấn luyện, không gây nên những rối loạn
lớn trong cơ thể, không làm mất đi năng lực vận động, hoạt động thể thao, thường chiếm 75-85%
trong tổng số các ca chấn thương.
Loại trung bình : là những chấn thương gây nên những biến đổi nhỏ trong cơ thể đồng thời
làm mất tạm thời năng lực vận động và năng lực hoạt động thể thao (trong thời gian từ 24 giờ trở
lên đến 1,2 tuần) và chiếm khoảng 10-15% các ca chấn thương.
Loại nặng : gây nên những biến đổi lớn trong cơ thể, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình
trạng sức khoẻ của VĐV, vì vậy nhất thiết phải được đưa vào điều trị trong bệnh viện lâu dài.
Loại này chỉ chiếm khoảng 2-3% tổng số các ca chấn thương.
4.Căn cứ vào vị trí chấn thương (phụ thuộc vào có hay không có miệng vết thương)
Được chia làm hai loại là :
Chấn thương kín :ở vùng bị thương, da vẫn còn nguyên vẹn không có miệng vết thương
thông với bên ngoài. Ví dụ như bị va đập,bịdãn cơ S, đứt dây chằn, gẫy xương kín...
Vd: Đứt dây chằng
Đứt dây chằng phổ biến nhất là đứt dây chằng gối. Đứt dây chằng rất đa dạng vì có thể đứt đột
ngột, đứt bán phần hay đứt từ từ rồi đứt hẳn. Đứt dây chằng đột ngột dễ biết vì gây đau dữ dội,
lỏng khớp và không thể vận động được. Tuy nhiên, nhiều người chơi thể thao nghiệp dư thường
bị đứt dây chằng kiểu bán phần hay đứt từ từ mà không hay biết cho đến khi khớp gối trở nên
lỏng lẻo nhờ bác sỹ thăm khám mới phát hiện.
Đứt dây chằng gối phổ biến có đứt dây chằng chéo trước hay dây chằng chéo sau, hiếm gặp hơn
là đứt cả 2 dây chằng cùng lúc.
Nhìn chung, sơ cứu đứt dây chằng cũng giống như bị chấn thương cơ, tức là chườm lạnh để giảm
đau, phù nề. Nhiều người bị đứt dây chằng gối vẫn có thể đi lại được nhưng về cơ bản cần được
phẫu thuật nối dây chằng để tránh việc bị thoái hóa khớp gối sau này.
Chấn thương hở : Da hoặc niêm mạc ở vùng bị chấn thương có miệng vết thương thông
với bên ngoài. Vd như vết thương,vết xước,xây sát đâm, chém,cắtở một bộ phận nào đó và gẫy
xương hở…
Vd: Xây sát, rách da
Té ngã gây trầy xước da hay va đập làm rách da chảy máu là chấn thương phổ biến nhất trong
thể thao. Đối với các vết trầy xước, rách da việc làm đầu tiên là phải rửa nước sạch vết thương,
sau đó có thể thoa nhẹ các loại thuốc sát trùng. Nếu vết rách da dài, sâu gây chảy máu cần được
đi khâu để vết thương nhanh khỏi hơn và cũng tránh để lại sẹo lớn về sau.
Kinh nghiệm một số các y tá cho rằng khi bị vết thương “tươi” vùng da gây chảy máu thì việc sát
trùng bằng cồn nhẹ tốt hơn là dùng nước oxy già, vì nước oxy già tuy cũng sát trùng nhưng khiến
vết thương lâu lành hơn. Nước oxy già dùng để vệ sinh vết thương cũ bị nhiễm khuẩn hay mưng
mủ vì nước oxy già khi sủi bọt sẽ tẩy các mô chết, vết bẩn để làm sạch vết thương.
* Chấn thương cơ bao gồm ba cấp độ: Giãn cơ, căng cơ và rách-đứt cơ.
Giãn cơ: Chấn thương cơ dạng nhẹ do cơ giãn quá mức cho phép với số lượng bó sợi cơ bị đứt
ít, gây đau nhưng không bị chảy máu trong và vùng bị giãn cơ có thể bị sưng nhẹ.
Căng cơ: Mức độ nặng hơn giãn cơ với vết đau vì sưng, đau nhiều và thường có vết bầm do một
số sợi cơ bị rách khiến chảy máu trong.
Đối với chấn thương cơ nguyên tắc sơ cứu chung là chườm lạnh trong 24 giờ đầu tiên hoặc 48
tiếng (tùy theo mức độ) để làm dịu cảm giác đau sưng, sau đó mới thoa dầu nóng hay các thuốc
xoa bóp phù hợp
Trong y học thể thao, người ta vẫn hay nói công thức sơ cứu R.I.C.E (Rest, Ice, Compress,
Elevate) nghĩa là “ngừng chơi, chườm lạnh, băng ép, nâng cao” khi sơ cứu các chấn thương về
cơ, gân khớp. Tránh xoa dầu nóng lúc mới bị chấn thương cơ vì sẽ làm các mạch máu bên trong
giãn nở, gây xuất huyết trong nhiều hơn làm chấn thương trầm trọng thêm.
Rách cơ: Mức độ chấn thương cơ nặng với cơ rách 50-75%. Thường rách cơ gây đau dữ dội và
người bị chấn thương có khi nghe tiếng “phựt” khi cơ bị đứt. Rách cơ sẽ làm tê liệt khả năng
hoạt động tức thời của người chơi thể thao. Rách cơ mất đến 1-3 tháng mới bình phục.
Đứt cơ: Chấn thương cơ nặng nhất khi cơ bị đứt hoàn toàn hoặc bị tách ra hẳn khỏi xương. Cách
cơ cứu là chườm lạnh và chở ngay người bị chấn thương đến bệnh viện để chữa trị.
5. Căn cứ theo vị trí các bộ phận bị chấn thương:Có hai loại chấn thương
- Chấn thương ngoài (ngoại thương): Chấn thương da, chấn thương cơ và gân cơ, chấn thương
khớp,xương, sụn đệm, thần kinh mạch máu …
- Chấn thương bên trong(nội thương):Cơ thể con người sau khi gặp lực tác dụng bên ngoài mà
dẫn đến chấn thương các cơ quan nội tạng thì gọi là nội thương.Loại chấnthương này thường có
triệu chứng toàn thân,nếu như xử lý không tốt sẽcó thể nguy hiểmtới tính mạng. Nội thương
thường gặp có các loại sau :
Chấn thương hộp sọ.Ví dụ chấn động não, não bị đè
Chấn thương lồng ngực như chấn thương các tạng tim, phổi, gan…và dập gan ,tụy, xuất huyết…
Chấn thương phần bụng:Có nhiều cơ quan nội tạng nằm trong bụng,do vậy các va đập dẫn đến
chấn thương,phần lớn đều tổn thương trực tiếp các cơ quan nội tạng,thậm chí phát sinh
bệnhchứng nội thương như chảy máu, rách vỡ gan,mật,...
Qua nghiên cứu người ta thấy rằng khả năng xảy ra chấn thương ở các môn thể thao khác
nhau cũng có sự khác biệt nhất định và trong thi đấu khả năng bị chấn thương cao hơn gần bốn
lần so với trong tập luyện. Trong các giờ học không có HLV và giáo viên hướng dẫn tỷ lệ chấn
thương cũng cao hơn gấp bốn lần so với trong các giờ học có huấn luyện viên. Ngoài ra chấn
thương còn phụ thuộc vào trình độ tập luyện của vận động viên và trình độ càng thấp chấn
thương càng cao.
Một số biện pháp ngăn ngừa chấn thương
Do chấn thương thường được gây ra bởi rất nhiều các nguyên nhân khác nhau, cho nên muốn
nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa thì trước hết chúng ta phải hiểu rõ và nắm vững
các quy luật và nguyên nhân chủ yếu gây ra các chấn thương để đề ra các phương pháp
phòng ngừa thích hợp như:
-Tăng cường công tác tập luyện nhằm phát triển toàn diện cả 4 tố chất nhanh, mạnh, bền,
khéo léo và trong quá trình tập luyện cần phải đặc biệt chú ý đến việc phát triển các bộ phận
cơ thể có cấu trúc giải phẫu không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật đồng thời thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tăng tiến và vừa sức ( phân tán khối lượng ), để từng bước làm cho các bộ
phận này thích nghi dần với yêu cầu kỹ thuật của động tác.
- Nâng cao ý thức tự giác, hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác phòng ngừa chấn
thương, các nguyên nhân gây ra chấn thương và các phương pháp phòng ngừa, bảo hiểm và
tự bảo hiểm.
- Nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc tập luyện. Để làm tốt được điều này thì yêu cầu huấn
luyện viên phải không ngừng trao đổi, học hỏi để nắm vững về cơ sở khoa học của hoạt động
thể dục thể thao và nâng cao kiến thức cơ bản, đặc biệt là về y sinh học thể dục thể thao.
Câu 18: Anh(chị) hãy trình bày đặc điểm sinh lý của sự phát triển các tố chất vận
động?
Trong quá trình tập luyện thể dục thể thao có hệ thống, tất cả các tố chất thể lực đều được
phát triển. Sức nhanh, sức mạnh, sức bền đều có nhiều cơ sở sinh lý chung. Vì vậy, hoàn
thiện tố chất vận động này bao giờ cũng kèm theo sự hoàn thiện tố chất vận động khác. Hiện
tượng này còn gọi là sự di chuyển dương tính các tố chất vận động. Hiện tượng di chuyển
dương tính thường xuất hiện rõ trong thời kì mới tập luyện có hệ thống. Trong các bài tập thể
lực, các bài tập nhằm phát triển sức bền có tác dụng di chuyển dương tính rõ rệt nhất đối với
các tố chất khác. Vì vậy mà các bài tập phát triển sức bền chung được coi là bài tập cơ sở để
phát triển các tố chất khác và nâng cao khả năng vận động chung. Khi việc rèn luyện thể lực
đã đạt đến một trình độ tương đối cao, một số bài tập có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
của một tố chất nhất định. Ví dụ, tập luyện phát triển sức mạnh kéo bằng tạ có thể ảnh hưởng
xấu đến sức nhanh và sức bền, hiện tượng này gọi là sự di chuyển âm tính. Như vậy trình độ
phát triển các tố chất càng cao thì sự di chuyển dương tính các tố chất càng hạn chế, nó có
thể trở thành di chuyển âm tính, cản trở sự phát triển của các tố chất khác. Khi ngừng tập
luyện một cách hệ thống, các tố chất vận động cũng ngừng phát triển và sau một thời gian
nhất định lại trở về tạng thái ban đầu. Tốc độ thoái hóa của tố chất vận động phụ thuộc vào
nhiều yếu tố:
-
Trình độ tập luyện
-
Đặc điểm cá nhân
Mức hoạt động cơ bắp trong lao động và sinh hoạt
Ngay sau khi ngừng tập luyện, các tố chất giảm rất nhanh, sau đó tốc độ giảm sẽ chậm dần,
trong các tố chất vận động, sức nhanh giảm sớm nhất, sau đó đến sức mạnh và cuối cùng là
sức bền. Các tố chất vận động tăng giảm khác nhau trong một ngày. Sự dao động có thể đến
1530%. Sự dao động trong ngày của tố chất thể lực là biểu hiện của hiện tượng nhịp sinh
học. Trong các tố chất vận đọng, sức mạnh dao động nhiều nhất trong ngày, sức nhanh và
sức bền cũng có dao động nhưng yếu hơn. Thường thường các tố chất thể lực giảm nhiều
nhất trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy. Ngoài nhịp ngày đêm, các tố chất thể lực còn biến
đổi theo các nhịp sinh học khác nhau như tháng, năm và nhiều năm.
Câu 19: Anh (chị) hãy trình bày cơ sở sinh lý của sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận
động?
1. Khái niệm
Trong quá trình tập luyện, các động tác không điều kiện đơn giản kết hợp thêm với các
thành phần có điều kiện mới để hình thành các động tác hoặc toàn bộ một hành động trọn
vẹn, được thực hiện theo thói quen một các tự động và trở thành kĩ năng vận động. Kỹ
năng vận động là các động tác được hình thành trong cuộc sống cá thể do tập luyện. Về
bản chất, kỹ năng vận động là là một phản xạ vận động có điều kiện phức tạp, chúng
được hình thành theo cơ chế đường liên hệ tạm thời.
Kỹ xảo vận động: sau khi các kỹ năng vận dộng được hình thành và được củng cố nhiều
lần, nhiều động tác của kỹ năng vận động được thực hiện một cách tự động, không có sự
tham gia của ý thức gọi là kỹ xảo vận động.
2. Bản chất sinh lý của sự hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động.
Phản xạ có điều kiện là cơ sở để hình thành kỹ năng vận động. Kỹ năng vận động của
con người được hình thành như một phản xạ có điều kiện phức tạp theo cơ chế hình
thành đường liên hệ tạm thời. Nhưng quá trình hình thành kỹ năng vận động có một số
quy luật đặc biệt.
Trong phản xạ điều kiện, đường liên hệ tạm thời trên vỏ não được hình thành giữa một
kích thích vô quan và phản ứng không điều kiện hay phản ứng có điều kiện đã có ổn định
từ trước (ví dụ như phản xạ tiết nước bọt, co rụt chân). Trong các phản xạ loại này, phản
ứng trả lời cơ thể là phản ứng có sẵn. Chỉ có phần hướng tâm, tức là phần thu nhận tín
hiệu vô quan là mới lạ đối với cơ thể.
Trong các kỹ năng vận động, phản ứng trả lời đối với kích thích không phải là những
phản ứng đã có sẵn. Để đáp ứng lại kích thích vận động, cơ sở phải sử dụng một động tác
mới, hoặc phải xây dựng một tổ hợp mới các động tác mà trước đó chưa có. Nghĩa là
trong các kỹ năng vận động, đường liên hệ tạm thời phải được hình thành không chỉ đối
với phần hướng tâm (cảm giác) mà cả phần ly tâm (vận động) của bộ máy vận động.
Như vậy, kỹ năng vận động có đặc điểm với phản xạ có điều kiện là, trong kỹ năng vận
động có sự phối hợp cả hai loại đường liên hệ tạm thời. Một mặt, thông qua hệ thống tín
hiệu thứ nhất và thứ hai, cần phải hình thành đường liên hệ giữa kích thích vô quan (kích
thích không điều kiện) và động cần phải thực hiện. Mặt khác, cần phải xây dựng các
phản ứng vận động trả lời mới tương ứng không chỉ với nhiệm vụ vận động mà cả những
biến đổi đổi dinh dưỡng.
Kỹ năng vận động của con người có thể được hình thành nhờ các đường liên hệ tạm thời
cao cấp, xây dựng dựa trên sự tác động không chỉ của hệ thống tín hiệu thứ nhất, mà còn
của cả hệ thống tín hiệu thứ hai. Việc xây dựng kỹ năng vận động có thể tiến hành không
chỉ bằng thị phạm (làm mẫu) mà cả bằng lời giảng, bằng tư duy.
Sự hình thành kỹ năng vận động bao giờ cũng làm xuất hiện các đường liên hệ tạm thời
với các cơ quan dinh dưỡng. Nghĩa là, kỹ năng vận động bao gồm thành phần vận động
và thành phần dinh dưỡng. Hai thành phần này có thể được hình thành không cùng một
lúc. Trong kỹ năng vận động đơn giản như đi, chạy thì kỹ năng vận động được hình
thành trước. Trong các kỹ năng phức tạp như các môn bóng, thể thao dụng cụ, thành
phần dinh dưỡng lại hình thành trước. Khi kỹ năng vận động đã được hình thành thì
thành phần dinh dưỡng có quán tính cao và ít biến đổi hơn thành phần vận động. Ví dụ,
khi chuyển từ chạy sang ném bóng thì chức năng vận động thay đổi rất nhanh, ngay tức
khắc, còn các cơ quan dinh dưỡng vẫn tiếp tục hoạt động như chạy một thời gian dài.
3. Các giai đoạn hình thành kỹ năng vận động
Kỹ năng vận động được hình thành theo các giai đoạn:
- Giai đoạn lan tỏa
- Giai đoạn tập trung hưng phấn
- Giai đoạn ổn định
3.1 Giai đoạn lan tỏa
Là giai đoạn mà các quá trình thần kinh, phản ứng trả lời còn chưa được chọn lọc,
nhiều nhóm cơ thừa bị lôi cuốn vào hoạt động. Đây là giai đoạn lựa chọn và phối hợp
các cử động đơn lẻ thành một động tác thống nhất. Trong giai đoạn này, hưng phấn
dễ khuếch tán sang các vùng thần kinh khác, cơ thể chưa phân biệt được chính xác
các kích thích có điều kiện khác nhau.
3.2 Giai đoạn tập trung hưng phấn
Sau nhiều lần lặp lại, hiện tượng khuếch tán của các quá trình thần kinh giảm dần đi.
Hưng phấn chỉ tập trung vào những vùng nhất định. Động tác được phối hợp tốt hơn,
các động tác thừa bị ức chế dần. Động tác bắt đầu được định hình, nhưng còn chưa
được củng cố vững chắc nên dễ bị rối loạn khi điều khiển thực hiện bị thay đổi hay
không thuận lợi.
3.3 Giai đoạn ổn định
Là giai đoạn mà động tác đã được củng cố vững chắc và trở thành kỹ năng vận động,
được thực hiện ngày càng tự động hóa, không có các động tác thừa. Lúc này trên vỏ
não hình thành các đường liên hệ tạm thời giữa các trung tâm thần kinh.
Các giai đoạn nêu trên của quá trình hình thành kỹ năng động tác chỉ có tính tương
đối. Trong nhiề trường hợp, một vài giai đoạn có thể không biểu hiện rõ rệt. Điều đó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độ khó của kỹ năng, đặc điểm hoạt động của cơ bắp,
đặc điểm cá nhân và trình độ tập luyện của vận động viên. Ở một số vận động, một số
động tác hình thành không qua giai đoạn một, thậm chí cả giai đoạn hai.
-
-
-
Câu 20: Anh (chị) hãy nêu các khái niệm: thể dục thể thao, phong trào thể dục
thể thao, kỹ xảo vận động?
Thể dục thể thao là tất cả các loại hình hoạt động thể chất và trò chơi có tính cạnh
tranh với mục đích sử dụng, duy trì và cải thiện các kỹ năng và năng lực thể chất,
đem lại niềm vui, hứng khởi cho những người tham gia và sự giải trí cho người xem.
Phong trào thể dục thể thao là một hình thức đặc biệt của các hoạt động xã hội, có
nhiệm vụ phối hợp nâng cao trình độ văn hóa thể chất và phát triển thể thao trong
nhân dân. Phong trào thể thao là hoạt động có tính mục đích của các tổ chức nhà
nước, xã hội nhằm phát triển thể dục thể thao. Phong trào thể thao là một bộ phận
hoạt động văn hóa, giáo dục; nó có vị trí và chức năng quan trọng trong giáo dục về
sự hài hòa về nhân cách và thể chất con người.
Trong quá trình tập luyện, các động tác không điều kiện đơn giản kết hợp thêm với
các thành phần có điều kiện mới để hình thành các động tác hoặc toàn bộ một hành
động trọn vẹn, được thực hiện theo thói quen một các tự động và trở thành kĩ năng
vận động. Kỹ năng vận động là các động tác được hình thành trong cuộc sống cá thể
do tập luyện. Về bản chất, kỹ năng vận động là là một phản xạ vận động có điều kiện
phức tạp, chúng được hình thành theo cơ chế đường liên hệ tạm thời.
Kỹ xảo vận động: sau khi các kỹ năng vận dộng được hình thành và được củng cố
nhiều lần, nhiều động tác của kỹ năng vận động được thực hiện một cách tự động,
không có sự tham gia của ý thức gọi là kỹ xảo vận động.
Câu 21: Anh (chị) hãy trình bày cơ sở sinh lí của tố chất sức bền?
2.4. Cơ sở sinh lý của tố chất sức bền
2.4.1. Khái niệm sức bền
Sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào đó. Khái niệm sức bền như
một tố chất thể lực, vì vậy, có tính tương đối rất cao, nó được thể hiện trong một loại
hoạt động nhất định. Hay nói cách khác, sức bền là một khái niệm chuyên biệt thể
hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động chuyên môn nhất định.
Sức bền đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể lực kéo dài liên tục từ
2- 3 phút trở lên, với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn (từ 1/2 toàn bộ cơ
bắp của cơ thể), nhờ sự hấp thụ oxy để cung cấp năng lượng cho cơ chủ yếu hoặc
hoàn toàn bằng con đường ưa khí. Như vậy, sức bền trong thể thao là khả năng thực
hiện lâu dài hoạt động cơ bắp toàn thân hoàn toàn hoặc chủ yếu mang tính chất ưa
khí. Như chạy 1500m trở lên, đi bộ thể thao, đua xe đạp đường dài, bơi từ 400m trở
lên… Có nhiều loại sức bền: sức bền chung, sức bền chuyên môn, sức bền tĩnh lực,
sức bền trong sức mạnh, sức bền tốc độ. Sức bền không chỉ phụ thuộc vào tiềm lực
năng lượng của con người mà còn phụ thuộc vào việc biết cách dự trữ năng lượng đó
một cách tiết kiệm. Trong các môn thành tích cao thì khả năng năng lượng của vận
động viên gần như nhau, vì vậy tính kinh tế (kỹ thuật và chiến thuật) còn quan trọng
hơn cả tiềm lực năng lượng.
Sơ đồ: Tiềm năng Q Sức bền Tính kinh tế O2 Dung lượng hệ Q Công suất sử dụng
Kỹ thuật Chiến thuật gluco phân hệ Q gluco phân và photphatgen và photphatgen Sơ
đồ. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức bền của con người
* Tính kinh tế phụ thuộc vào
- Cường độ hoạt động cơ
- Kỹ thuật của hành vi vận động
- Phương án chiến thuật lựa chọn Trong đó tiềm năng năng lượng của hoạt động sức
bền phụ thuộc chủ yếu vào:
- Khả năng hấp thụ oxy tối đa (VO2 max) của cơ thể
- Khả năng duy trì lâu dài mức hấp thụ oxy cao.
Mức hấp thụ oxy tối đa của một người quyết định khả năng làm việc trong điều kiện
ưa khí của họ. VO2 max càng cao thì công suất hoạt động ưa khí tối đa sẽ càng lớn.
Ngoài ra, VO2 max càng cao thì cơ thể thực hiện hoạt động ưa khí càng dễ dàng, và
vì vậy càng được lâu hơn. Như vậy về bản chất, sức bền chính là khả năng hấp thụ
oxy tối đa của cơ thể. Do vậy, vận động viên có thành tích thể thao cao thường có
VO2 max rất cao (5- 6lít/phút).
Khả năng hấp thụ oxy tối đa được quyết định bởi khả năng của hai hệ thống chức
năng chính, đó là: hệ vận chuyển oxy và hệ sử dụng oxy.
2.4.2. Sự biến đổi chức năng sinh lý trong hoạt động sức bền
* Hệ vận chuyển oxy bao gồm máu, tuần hoàn và hô hấp
Hệ hô hấp
Hô hấp là khâu đầu tiên của hệ vận chuyển oxy, hệ hô hấp đảm bảo việc trao đổi khí
giữa không khí bên ngoài và máu, tức là làm cho phân áp oxy trong máu động mạch
được duy trì ở mức cần thiết để cung cấp cho cơ và các cơ quan. Để đảm bảo được sự
trao đổi khí cao, tức là đảm bảo sự phát triển sức bền, hệ hô hấp phải có những biến
đổi cả về cấu tạo và chức năng nhất định.
Những biến đổi đó bao gồm:
- Các thể tích của phổi (trừ thể tích khí lưu thông) tăng lên 20 -30%, lượng khí cặn
giảm đi.
- Công suất và hiệu quả của hô hấp ngoài tăng lên do lực và sức bền của các cơ hô
hấp đều tăng. Điều đó làm cho độ sâu hô hấp tăng lên và tần số hô hấp lại giảm
xuống. Ngoài các cơ hô hấp, độ đàn hồi của lồng ngực và phổi cũng thay đổi, phổi
giãn nở tốt hơn trong khi hít vào, kháng trở đối với dòng không khí đi vào phổi giảm
xuống. Các biến đổi trên đã làm tăng thông khí phổi.
- Tăng cường khả năng khuếch tán khí của phổi. Khả năng khuếch tán khí của phổi
tăng lên một phần nhờ các thể tích khí của phổi tăng hơn mức bình thường. Song chủ
yếu khả năng khuếch tán khí của phổi tăng được là do mạng mao quản trong phế
nang tăng lên và lượng máu qua phổi nhiều, oxy đi từ phế nang vào máu và làm cho
máu bão hoà oxy nhanh.
Hệ máu
- Lưu lượng tuần hoàn, số lượng hồng cầu và hàm lượng Hb
+ Thể tích máu và hàm lượng Hb quyết định khả năng vận chuyển oxy của cơ thể.
Tập luyện sức bền làm tăng lượng máu tuần hoàn. Ở những vận động viên tập luyện
các môn thể thao sức bền, lượng máu lưu thông trung bình cao hơn người thường và
các vận động viên ở các môn khác khoảng 20%. Điều đó cho thấy, lượng máu tuần
hoàn là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển sức bền. Lượng máu tuần hoàn tăng
lên chủ yếu là do tăng thể tích huyết tương, vì vậy độ nhớt của máu của máu có xu
hướng giảm xuống. Thể tích tuần hoàn tăng có ý nghĩa rất quan trọng đối với khả
năng vận chuyển oxy cho cơ thể. nhờ lưu lượng tuần hoàn lớn mà lượng máu về tim
cũng lớn hơn, tạo điều kiện cho thể tích tâm thu tăng lên.
+ Lượng máu tuần hoàn tăng nên máu đến mao mạch ở da nhiều, nâng cao khả năng
thải nhiệt qua da trong thời gian hoạt động kéo dài. Đồng thời, lượng máu tuần hoàn
tăng sẽ pha loãng các sản phẩm chuyển hoá, do đó nồng độ acid lactic trong máu
giảm. + Hàm lượng Hb và số lượng hồng cầu trong một đơn vị thể tích máu của vận
động viên tập luyện sức bền nói chung cũng giống như những người thường và các
môn thể thao khác. Tuy nhiên, do lưu lượng tuần hoàn tăng nên số lượng hồng cầu và
hàm lượng Hb tuyệt đối của họ cũng cao hơn so với người thường. Ở người bình
thường và các vận động viên tập luyện các môn sức mạnh tốc độ, lượng Hb trong
máu khoảng 700-900g, trong khi đó các vận động viên tập luyện sức bền là 10001200 g.
- Hàm lượng acid lactic máu 31 Trong các hoạt động sức bền, tức là hoạt động ưa
khí, hàm lượng acid lactic máu tỷ lệ nghịch với thời gian vận động. Điều đó cho thấy,
hàm lượng acid lactic máu cũng biểu thị khả năng hoạt động sức bền của con người.
Trong quá trình tập luyện sức bền, hàm lượng acid lacic trong cơ và máu khi thực
hiện bài tập ưa khí dưới tối đa thấp hơn so với người thường và vận động viên các
môn thể thao khác. Hàm lượng acid lactic của vận động viên tập luyện sức bền thấp
là do:
+ Cơ bắp của vận động viên tập luyện sức bền có khả năng trao đổi chất ở hàm lượng
oxy cao, vì vậy chúng ít sử dụng cách cung cấp năng lượng yếm khí, do đó, ít tạo ra
acid lactic.
+ Hệ vận chuyển oxy của vận động viên sức bền thích nghi với vận động nhanh hơn,
do đó cung cấp oxy đầy đủ hơn cho cơ thể.
+ Các vận động viên tập luyện các môn sức bền có tỷ lệ các sợi cơ chậm cao và cơ
tim phát triển. Các sợi cơ chậm và cơ tim co khả năng sử dụng acid lactic để làm
nhiệm vụ cung cấp năng lượng rất tốt.
+ Lượng máu tuần hoàn tăng làm pha loãng acid lactic.
Như vậy tập luyện sức bền có tác dụng:
+ Tăng khả năng hấp thu oxy tối đa
+ Giảm hàm lượng acid lacic
+ Tăng khả năng hoạt động ưa khí kéo dài.
Trong các bài tập ưa khí tối đa với thời gian tương đối ngắn (chạy 1.500m), hàm
lượng acid lactic máu của vận động viên tập luyện sức bền sẽ cao hơn so với người
thường. Lượng acid lactic cao như vậy là do công suất hoạt động ưa khí tối đa của
vận động viên tập luyện sức bền cao hơn người thường rất nhiều. Do công suất hoạt
động càng cao thì hàm lượng acid lactic trong máu càng nhiều.
- Glucose huyết Trong các hoạt động kéo dài, lượng glucose trong máu sẽ giảm dần
(từ 0,8-1,2g/l xuống 0,5 – 0,6g/l). Trong quá trình tập luyện sức bền, sự giảm đường
huyết xảy ra chậm hơn và ít hơn. Khả năng làm việc khi đường huyết giảm cũng tăng
lên. Vì vậy sức bền của vận động viên cũng phát triển tốt hơn. Hệ tim mạch Do hô
hấp ngoài thường cao hơn khả năng hấp thụ oxy của cơ thể, nên trong thực tế khả
năng vận chuyển oxy chủ yếu phụ thuộc vào tuần hoàn chứ không phải hô hấp, nhất
là phụ thuộc vào khả năng đẩy máu của tim. Để có khả năng sức bền cao, tim và
mạch máu có những biến đổi sâu sắc cả về cấu tạo và chức năng. Những biến đổi đó
thể hiện trong yên tĩnh cũng như trong vận động.
- Tập luyện sức bền lâu làm tim biến đổi theo hai hướng: giãn buồng tim và phì đại
cơ tim. Giãn buồng tim làm cho lượng máu chứa trong các buồng tim tăng lên. Phì
đại cơ tim làm tăng lực co bóp của tim nên làm tăng thể tích tâm thu.
- Về chức năng, tập luyện sức bền làm giảm tần số co bóp tim lúc yên tĩnh. mức độ
giảm nhịp tim tương ứng với VO2 max và với thành tích trong các môn thi đấu thể
thao thời gian dài như chạy marathon, đua xe đạp đường dài. Sự giảm nhịp tim làm
cho tim hoạt động kinh tế, ít tiêu hao năng lượng và có thời gian nghỉ dài. Tần số tim
giảm nhưng thể tích tâm thu tăng nên không làm cho thể tích phút của máu bị giảm
đi. Những biến đổi về cấu tạo và chức năng trong yên tĩnh có ý nghĩa quan trọng để
tăng khả năng tối đa của tim trong vận động. Khi thực hiện lượng vận động ưa khí tối
đa, thể tích phút tối đa của vận động viên sức bền có thể gấp đôi người thường, đạt
mức 38 -40 lít/phút. Thể tích phút tối đa tăng là do thể tích tâm thu tăng. Tăng thể
tích tâm thu là hiệu quả chức năng quan trọng nhất của tập luyện sức bền đối với hệ
tim mạch, hô hấp và máu. Thể tích tâm thu tối đa của vận động viên sức bền có thể
lên đến 190-210ml, trong khi người thường không quá 130ml. Trong hoạt động ưa
khí dưới tối đa, ở mức hấp thụ oxy tương đương thì thể tích phút của vận động viên
và người thường không có sự khác biệt. Song tần số tim của vận động viên các môn
sức bền thấp hơn so với người bình thường còn thể tích tâm thu lại cao hơn. Trình độ
phát triển sức bền càng cao thì nhịp tim trong các hoạt động ưa khí dưới tối đa càng
thấp.
- Giảm nhịp tim trong các hoạt động ưa khí dưới tối đa thể hiện trình độ phát triển
sức bền. Nhịp tim thấp nhưng thể tích tâm thu lại tương đối cao thể hiện sự hoạt động
kinh tế và có hiệu quả của tim.
- Tập luyện sức bền làm tăng lượng mao mạch ở cơ, do vậy làm tăng lượng máu đến
cơ khi vận động. Nhờ lượng mao mạch dày mà dòng máu tối đa ở cơ của vận động
viên sẽ rất lớn. Ở các vận động viên tập luyện sức bền, khả năng trao đổi chất và oxy
qua màng mao mạch tăng, vì vậy lượng oxy mà cơ có thể nhận được cao hơn.
* Hệ sử dụng oxy - đó là hệ cơ Lượng oxy mà hệ vận chuyển mang tới trong thời
gian hoạt động thể lực chủ yếu được sử dụng ở hệ cơ. Sức bền của vận động viên phụ
thuộc một phần vào đặc điểm cấu tạo và hoá sinh của cơ. Cấu tạo nổi bật của cơ ở
vận động viên sức bền là tỷ lệ sợi cơ chậm (nhóm I) rất cao. giữa tỷ lệ sợi cơ chậm và
VO2 max có mối quan hệ chặt chẽ. Những vận động viên có tỷ lệ sợi cơ chậm cao
thường VO2 max cũng cao. Ở những vận động viên chạy marathon trình độ cao, tỷ lệ
sợi cơ chậm chiếm 80% toàn bộ số sợi cơ trong bó cơ, còn vận động viên chạy 100m,
tỷ lệ này là 20-30%. Tập luyện sức bền có tác dụng tăng tỷ lệ sợi cơ chậm và có thể
làm tăng tỷ lệ sợi nhanh nhóm II-a và giảm tỷ lệ sợi nhanh nhóm II-b. Nhóm sợi II-a
có khả năng trao đổi năng lượng bằng con đường oxy hoá cao hơn nhóm II-b. Như
vậy, tập luyện sức bền có thể làm tăng tỷ lệ các sợi cơ có khả năng trao đổi chất ưa
khí, thích nghi với hoạt động sức bền.
Tập luyện sức bền còn làm cho cơ phì đại theo kiểu phì đại cơ tương. Ty lạp thể và số
lượng các men trong cơ đều tăng lên, làm tăng khả năng hấp thụ oxy của cơ. Tập
luyện sức bền làm tăng số lượng mao mạch trong cơ. Trung bình 1mm2 tiết diện
ngang của sợi cơ ở người thường có 320 mao mạch, còn ở vận động viên là 400, do
đó lượng oxy và chất dinh dưỡng đến cơ nhiều hơn nên khả năng hoạt động thể lực
của cơ sẽ tăng lên. Trong quá trình tập luyện sức bền, ở cơ xẩy ra hàng loại biến đổi
hoá sinh để nâng cao khả năng sử dụng oxy tức là nâng cao sức bền của cơ thể. Nổi
bật là các biến đổi hoá sinh như sau:
- Tăng hàm lượng và hoạt tính của men trao đổi chất ưa khí.
- Tăng hàm lượng myoglobin trong cơ (lên từ 1,5 đến 2 lần)
- Tăng hàm lượng các chất trong cơ như glycogen, lipit (tăng 50%)
- Tăng khả năng oxy hoá đường và mỡ. Tập luyện sức bền gây ra được 2 hiệu quả cơ
bản:
- Nâng cao khả năng ưa khí tối đa của cơ thể
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ thể với công suất thấp lâu dài.
2.4.3. Cơ chế cải thiện sức bền Cơ sở của phương pháp huấn luyện sức bền hệ cơ là
phát triển sức bền trong sự phát lực của hệ cơ. Cho nên phát triển sức mạnh của cơ
bắp có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao thành tích những môn thể thao đòi hỏi
sức bền hệ cơ. Còn đối với sức bền tuần hoàn thì dùng phương pháp tập luyện giãn
cách, dùng trọng tải cố định có sự lặp đi lặp lại trọng tải đó để cơ thể thích nghi và
biến đổi chức năng sinh lý, nhất là gây phì đại cơ tim. Phương pháp hiệu quả nhất để
phát triển sức bền là phương pháp hoạt động liên tục kéo dài (đồng đều hoặc biến
thiên) cũng như phương pháp huấn luyện lặp lại và giãn cách. Cũng có thể dùng
phương pháp biến tốc, phương pháp dùng cường độ cao thấp khác nhau để nâng cao
khả năng chịu đựng nợ dưỡng. Để phát triển sức bền cần có sự phối hợp tối ưu giữa
các chức năng dinh dưỡng và vận động của cơ thể. Để phát triển sức bền yếm khí phi
lactat thường sử dụng các phương pháp vận động lặp lại và giãn cách (chạy tốc độ
cách quãng). Mục tiêu chính của phương pháp này là tận dụng tối đa dự trữ ATP và
CP ở cơ đang hoạt động và tăng hoạt tính men ATP –ase và CK –ase cơ tương. Để
phát triển sức bền yếm khí gluco phân có thể sử dụng các phương pháp bài tập một
lần cực đại, bài tập lặp lại và bài tập giãn cách. Các bài tập đặc thù được lựa chọn cần
phải đảm bảo sự gắng sức tối đa về các biến đổi gluco phân yếm khí trong các cơ
đang hoạt động (gắng sức tối đa trong khoảng 30 giây đến 2,5 phút) Để phát triển sức
bền ưa khí người ta sử dụng các phương pháp một lần liên tục, lặp lại và một vài
phương án vận động giãn cách ở các khoảng ngắn.