Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

KTCT PHÂN PHỐI THU NHẬP TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.76 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Trong công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước những năm gần đây cơ
chế quản lý kinh tế ở nước ta đã có nhiều đổi mới và toàn diện tạo ra những
chuyển biến tích cực cho sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh
tế nước ta chuyển từ nền kinh tế hàng hoá tập trung sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế tập trung có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN là xu hướng tất yếu. Thu nhập quốc dân là bộ
phận còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi bù đắp những TLSX đã sử
dụng là những giá trị mới do LĐXH tạo ra trong một năm. Thu nhập quốc
dân gồm tất cả giá trị mới do lao động tạo ra, thu nhập quốc dân còn bao
gồm tư liệu tiêu dùng va một phần TLSX dùng để mở rộng sản xuất. Vì vậy,
thu nhập quốc dân đóng vai trò quyết định quỹ tích luỹ và tiêu dùng của xã
hội. Qua đó có thể thấy rằng phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN có hợp lý hay không là một trong những điều kiện quan
trọng giúp nền kinh tế nước ta càng được mở rộng và tiến gần đến nền kinh
tế thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân phối thu nhập trong nền kinh
tế thị trường, sau khi được trang bị những kiến thức lý luận ở trường và qua
thời gian nghiên cứu các tài liệu bên ngoài cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình
của thầy cô bộ môn kinh tế chính trị em chọn đề tài : PHÂN PHỐI THU
NHẬP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY””.

1


NỘI DUNG
I.

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH PHÂN PHỐI THU


NHẬP Ở NƯỚC TA.
1.

Về phân phối tiền lương ở nứơc ta.

Tiền lương là một trong những thu nhập chính của người lao động. Do
đó chính sách tiền lương và tiền công lao động đặc biệt quan trọng thể hiện
quan điểm của Đảng và nhà nước trong sự hình thành và phân phối thu nhập
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, chính
sách tiền lương và chính sách bảo hiểm XH đã có những bước cải cách
mang tính đột phá. Năm 1993 chính phủ đã thực hiện cải cách tiền lương,
lần cải cách này đã có những thay đổi cơ bản trong cơ cấu tiền lương theo
hướng xoá bỏ cơ chế bao cấp, đưa các khoản trước đây được phân phối gian
tiếp qua ngân sách voà tiền lương để trả trực tiếp cho người lao động. Việc
thay đổi này không chỉ ảnh hưởng tới những người làm công ăn lương mà
còn tác động đến toàn XH.
Một số ngành như giáo dục và đào tạo thì vấn đề càng bức xúc và đáng
quan tâm:
Bội số tiền lương tuy có nâng lên (1-8.2) nhưng vẫn chưa phản ánh
đúng quan hệ giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn nên tình trạng
bình quân chủ nghĩa vẫn tồn tại trong tiền lương.

2


Số bậc lương của một số ngạch lương quá ít gây ra hiện tượng không ít
trường hợp giáo viên làm hàng chục năm mà không được nâng bậc, đồng
thời một số ngạch khác lại quá nhiều bậc dẫn tới hiện tượng thang lương
“treo”.

Quy định thời gian được xét nâng bậc lương thường xuyên thành 2 loại
(24 tháng và 36 tháng ) đã làm tăng sự phức tạp trong việc quản lý và xét
nâng bậc lương thường xuyên cho cán bộ công chức. Hơn nữa nếu thời gian
nâng bậc lương là 24 tháng thì tổng 1 tháng lương số bậc phải nhiều ,
khoảng cách chênh lệch phải nhỏ sẽ không có tác dụng và ý nghĩa của việc
cải thiện mức lương qua nâng bậc. Việc chuyển xếp lương cũ sang lương
mới đã gây nhiều bất hợp lý trong nội bộ ngành .
Ví dụ:
Trước kia lương của 2 công chức chỉ cách nhau 1 hoặc 4 năm nay áp
dụng chế độ lương thì ít nhất từ 4 đến 10 năm nữa mức lương công chức thứ
2 mới bằng mức lương hiện hưởng của công chức thứ nhất.
Việc nâng ngạch trong hệ thống bảng lương cung gây ra nhiều bất hợp
lý. Sau thời gian phấn đấu và phải trải qua 1 kỳ thi nâng ngạch giảng viên
(có hệ số lương là 3.37) được bổ nhiệm thành giảng viên chính và được xếp
số lương là 3.35. còn giảng viên chính lên giảng viên cao cấp hệ số lương là
từ 5.03 xếp xuống 4.92 ; từ 5.31 xuống 5.23 ... tuy hêh số giảm không nhiều
nhưng gây ra tâm tư cho cán bộ công chức, phụ cấp ưu đãi đã đóng góp phần
cải thiện mức sống của giáo viên. tuy nhiên đã nảy sinh một số vấn đề bất
hợp lý.

3


Sau một thời gian phấn đấu và trải qua một kỳ thi nâng ngạch, giảng
viên (có hệ số lương là 3.37) được bổ nhiệm thành giảng viên chính và được
hệ số lương là 3.35; còn giảng viên chính lên giảng viên cao cấp hệ số lương
từ 5.03 xếp xuống 4.92 ; từ 5.31 xếp xuống 5.23... Tuy thế số giảm không
nhiều nhưng đã gây tâm tư cho bộ phận cán bộ công chức. Phụ cấp ưu đãi đã
góp phần nâng cao mức sống của giáo viên. Tuy nhiên đã nảy sinh ra một số
vấn đề bất hợp lý và mâu thuẫn mới.

Ví dụ:
Mâu thuẫn về thu nhập giữa giáo viên với giáo viên , cán bộ công chức
trong ngành với giáo viên.
2.

Về lợi nhuận ở nước ta.

Nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến quang trọng trong qúa trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Nhà nước đã đưa nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước
tạo lập môi trường kinh doanh và buộc mọi doanh nghiệp phải hoạt động
trong mối quan hệ trực tiếp với thị trường, chuyển sang hạch toán kinh
doanh thực sự. Để thực hiện điều đó, nhà nước đã thực hiện xoá bỏ cơ chế :
“Lỗ nhà nước bù, lãi nhà nước thu” nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các DN
trong sản xuất kinh doanh , xoá bỏ mọi trở ngại và ách tắc trong sản xuất và
lưu thông, từng bước tạo ra thị trường thống nhất hoàn chỉnh trong cả nước ,
xoá bỏ moị bao cấp ngang giá , thực hiện chính sách một giá trong kinh
doanh vật tư, hàng hoá và đưa dần nhiều mức giá trong nước lên sát với giá
thị trường thế giới, điều chỉnh lãi xuất một cách hợp lý qua từng thời kỳ,

4


khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong môi
trường cạnh tranh lành mạnh va bình đẳng với nhau trước pháp luật.
Do đa số các DN không chuyển kịp và thích nghi với cơ chế thị trường
nên khi nhà nước thực hiện xoá bỏ bao cấp qua vốn, tín dụng , qua giá và thị
trường đầu ra ... thì phần lớn các DN bị đình đốn, thu hẹp sản xuất , tạm
ngừng sản xuất bộ phận hay toàn bộ.
Mặc dù có sự sắp xếp bố trí lại các DN nhưng đa số các DN làm ăn thua

lỗ vẫn còn nhiều, đặc biệt là các DN địa phương. Điều này buộc nhà nước
phải thực hiện hỗ trợ , tạo điều kiện cùng DN khắc phục tình trạng trên. Nhà
nước đã áp dụng một số chủ trương, biện pháp tình thế như sau:
+ Tập trung chỉ đạo thanh toán nợ dây truyền và chiếm dụng vốn lẫn
nhau của các đơn vị kinh tế nhà nước.
+ Cho DN vay vốn tín dụng với lãi xuất ưu đãi và hoàn thu hồi các
khoản nợ vay trước.
+ Trợ giá cho một số ngành công nghiệp nặng .
+ Phát hành thêm tiền để mua lương thực dự trữ, mua sản phẩm ứ
đọng và tiếp tục cấp phát vốn xây dựng cơ bản cho các DN nhằm tạo sức
mua va tăng cầu.
+ Tính toán lại mức thu quốc doanh,tạm giảm hoặc miễn giảm thu
quốc doanh đối với các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn.

5


chuyển sang cơ chế thị trường , việc nhà nước quy định và cho phép
các doanh nghiệp tính lợi nhuận theo cơ cấu giá thành và lợi nhuận. Đó là lãi
bình quân. Theo quy định này , khi hạch toán các doanh nghiệp được tính
6% lãi (lợi nhuận) định mức, 5% thuế vào giá thành. Tổng lợi nhuận định
mức nhà nước thu 40% , tổng số lợi nhuận vượt định mức nhà nước chỉ thu
20%. Tình hình này đã dẫn tới một nghịch lý sau: các doanh nghiệp có xu
hướng không để lợi nhuận (ở bảng tính toán), trái lại họ tìm cách biến tướng
nó để phải nộp ít nhất và phải nộp nhiều nhất. Trong trường hợp nếu thiếu
tiền công trả cho công nhân viên thì họ sẵn sàng giảm khoán lợi nhuận và do
đó giảm phần nộp cho nhà nước để tăng nguồn thu cho doanh nghiệp. Trong
trường hợp này luôn nhỏ hơn mức lợi nhuận phải nộp. Cụ thể là tỉ lệ nộp
BHXH là 17% quỹ lương nhưng thực ra trong đó có 5% trả lại cho doanh
nghiệp và công nhân viên chức. Nhà nước thực tế chỉ thu 12% trong khi đó

lợi nhuận định mức phải nộp là 40%.
Với cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận như vậy tất yếu dẫn tới
tình trạng các doanh nghiệp có những sản phẩm độc quyền như bia, rượu ,
thuốc lá.. luôn có nhiều lợi nhuận và do đó ở đây cán bộ công nhân viên có
thu nhập rất cao, ngược lại có một số doanh nghiệp sản xuất cơ khí thường
xuyên thua lỗ thậm chí phá sản.
Công bằng mà nói trong số các doanh nghiệp đang tồn tại và có nhiều
thế mạnh như hiện nay thực tế hạch toán sòng phẳng,lãi không như công
bố ,thậm trí lỗ. Nhưng do chính sách, cơ chế hình thành và phân phối thu
nhập và lợi nhuận nước ta còn hạn chế, bất hợp lý nên tạo ra sự phân hoá và
tình trạng bất bình đẳng trong XH. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất tạo

6


ra tình trạng “lãi giả lỗ thật, lỗ giả lãi thật” ở Việt Nam trong những năm vừa
qua.
Trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang chuyển mình mạnh sau cơ
chế thị trường, có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện và đang
góp phần làm sôi động nền kinh tế nước ta. Nhìn bề ngoài, hầu hết các
doanh nghiệp này hoạt động rất hiệu quả và thu nhập của những người làm
công ăn lương ở đây rất cao ,thậm trí cao hơn rất nhiều lần thu nhập của
người lao động trong doanh nghiệp quốc doanh. Không thể không thừa nhận
điều đó , nhưng chúng ta phải chỉ ra một tình hình khác thuộc về góc độ
quản lý. Thực ra nhà nước chưa quản lý được thu nhập của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, vì vậy chưa có căn cứ để tính thuế. Tình trạng trốn lâu
thuế, buôn bán lậu qua biên giới và trong nước, làm hàng giả, núp bóng dưới
doanh nghiệp quốc doanh để trốn thuế…khá phổ biến với doanh nghiệp
quốc doanh và tư nhân. Điều này nảy sinh sự bất bình đẳng lớn trong xã hội.
Nếu nhà nước không có những chính sách quản lý phù hợp thì khó có thể

thực hiện tốt mục tiêu xã hội đặt ra.
Như vậy ở nước ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận chưa phát huy sức
mạnh vốn có của nó. Sỏ dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận không
hợp lý. Đồng thời cơ chế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực khích
thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển của đất nước. Chính vì vậy để thúc đẩy và tăng trưởng phát
triển kinh tế tất yếu phải tiến hành đổi mới cơ chế hình thành và phân phối
lợi nhuận ở nước ta. Việc đổi mới đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ với
việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nói chung.

7


II. THỰC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.
1. Một số quan điểm cơ bản về phân phối tiền lương.
cơ chế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu, do các thành phần
kinh tế được nới lỏng, tạo ra cơ hội phát triển sống động nền kinh tế , năng
lực sản xuất tăng đáng kể. Tính chủ động năng động được phát huy ở mọi
người và trên mọi lĩnh vực. Cơ may về sản xuất và việc làm ngày càng nhiều
, người lao động dễ dàng lựa chọn nơi làm việc theo tài năng và sở trường và
đồng lương hợp lý. Điều cần nêu là cơ chế thị trường đã tạo ra thị trường lao
động, vừa tạo bước phát triển về phân công, đa dạng hoá lao động xã hội.
Vừa tạo được môi trường khách quan thông qua trả công lao động, mà lao
động xã hội được chuẩn hoá qua giá, nhà nước mới có cơ sở điều tiết vĩ mô
trên nguyên tắc phân phối theo lao động. Nhưng cơ chế thị trường cũng phát
sinh mối quan hệ, những xung đột mới gay gắt giữa các thành phần kinh tế
quốc doanh- tập thể, với các đối thủ cạnh tranh với nó là các thành phần kinh
tế cá thể tư nhân tư bản, tư bản nước ngoài. Trong mối quan hệ này nhà nước
không thể tập trung bao cấp, ưu đãi cho kinh tế quốc doanh tập thể như

trước. Các thành phần kinh tế phải cùng được tự do sản xuất kinh doanh
mang lại hiệu quả và cùng bình đẳng trước pháp luật. Kinh tế quốc doanh
không còn là một hệ thống độc quyền như xưa. Tuy thế mạnh nằm trong tay
lực lượng vật chất kĩ thuật quốc gia to lớn. Nhưng giá trị tài sản lớn này lại
thường gắn với tài sản cố định, cũ kĩ lạc hậu và bộ máy quản lý cồng kềnh
,kém hiệu lực. Kinh tế tập thể hầu như giải thể ở nhiều nơi hoặc chuyể cơ
chế thành hộ gia đình, tư nhân. Trong khi khu vực kinh tế cá thể , tư bản tư

8


nhân có ưu thế nhiều hơn về đầu tư trang thiết bị kỹ thuật mới, về quản lý
hữu hiệu, thích ứng nhanh nhạy với thị trường thường xuyên biến đổi. Có
thể nói đây là mâu thuẫn cơ bản đang vận động, đang chuyển hoá làm phát
sinh không ít các nghịch lý trong xã hội ta.
Giải pháp toàn bộ cho vấn đề là phải thấy rõ được mối quan hệ biện
chứng giữa ba nhan tố:
- Nhân tố thứ nhất : kinh tế định hướng XHCN chứa hai xung lực: khu
vực kinh tế quốc doanh – tập thể và khu vực tư nhân ,cá thể tư bản.
- Nhân tố thứ hai : cơ chế thị trường chứa hai xung lực : sức mạnh thị
trường và những tiêu cực của nó, lại tác động vào cả cơ sỏ hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng xã hội.
- Nhân tố thứ ba : là nhà nước được tạo dựng trên cơ sở hạ tầng và tác
động trở lại với cơ sở hạ tầng xã hội.
Hơn lúc nào hết trong cơ chế thị trường nhà nước được xem là nhân tố
hàng đầu, thông qua Đảng lãnh đạo, nhà nước cơ quan quản lý xã hội, hành
pháp và tư pháp, có nghĩa vụ tập trung mọi nguồn lực trong nước và ngoài
nước nhằm phát triển toàn diện nền kinh tế đất nước.
Phải dân chủ công tác cán bộ mới tránh được tư thù, phe cánh, họ hàng,
mới đề cao được yêu cầu tuyển chọn thận trọng công tâm.

Tất cả lại gắn với công tác đào tạo, bồi dưỡng theo nguồn chức danh,
yêu cầu sử dụng. Không đổi mới phương pháp dạy và học thì sẽ không đào
tạo được đội ngũ cán bộ có năng lực để đảm nhiệm việc đất nước.

9


Với hiện trạng chính sách tiền lương va bối cảnh hiện nay, chúng tôi
cho rằng cỉa cách tiền lương cần phải tiến hành càng sớm càng tốt. Tuy
nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả của cải cách tiền lương, cần phải quán triệt
một số nguyên tắc sau:
- Thứ nhất là cải cách tiền lương phải mang tính triệt để và căn bản, tạo
ra luồng sinh khí mới đối với các tầng lớp hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Chính sách lương mới phải thực sự là động lực để xây dựng một nền
hành chính quốc gia trong sách với bộ máy công quyền mạnh mẽ, công
minh. Phải có sự thay đổi về chất trên toàn bộ các phương diện của chính
sách tiền lương từ mức lương đến đối tượng trả lương, cơ chế quản lý lương.
Kiêm quyết không tiến hành các biện pháp cải cách nửa vời như kiểu tăng
mức lương tối thiểu 210.000 đến 250.000 đồng. Lương thực sự phải trở
thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, đặc biệt là đối với bộ
máy công quyền nhà nước.
- Thứ hai là cải cách tiền lương phải tiến hành đồng bộ với hàng loạt
các biện pháp khác, đặc biệt với cải cách hành chính và cải tiến quản lý kinh
tế. Không có được các biện pháp này đi kèm thì cải cải cách tiền lương trở
thành sự lãng phí lớn NSNN. Phải gắn được kết quả và trách nhiệm với tiền
lương và thu nhập thì tiền lương mới trở thành động lực thúc đẩy nâng cao
hiệu quả hoạt động cũng như tính trong sạch của bộ máy cầm quyền.
- Thứ ba là cải cách tiền lương có trọng điểm và chấp nhận sự phân
tầng xã hội. Theo chúng tôi cải cách tiền lương lần này tập trung vào bộ máy
công quyền nhà nước theo hướng nâng cao mức lương đảm bảo thoả mãn

các nhu cầu của mức sống trên trung bình của xã hội. Mặc dù ở các nước
phát triển thì mức lương cao nhất thường thuộc về lao động trong các doanh

10


nghiệp nhưng trong điều kiện Việt nam hiện nay thì mức lương trung bình
của hệ thống công quyền phải cao hơn mức trung bình của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ có như vậy ,chúng ta mới thực sự thu hút
được những lao động thực sự có năng lực và đạo đức trong sạch. Việc tạo ra
một đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có mức sống cao hơn mức trung
bình của xã hội có thể tạo ra sự phan hoá sâu sắc hơn nhưng đây là một bước
quá độ cần thực hiện. Khi nền kinh tế phát triển, mức lương của các doanh
nghiệp sẽ dần được nâng cao.
- Thứ tư là cải cách tiền lương phải chý ý tới sự ổn định của thị trường
xã hội. Tăng lương phải đi đôi với ổn định giá cả và hạn chế những mâu
thuẫn trong xã hội. Chỉ có như vậy tăng lương mơí thực sự có ý nghĩa.
2. Các nội dung chủ yếu.
2.1 Xác định mức lương tối thiểu.
Tiền lương tối thiểu là mức lương trả cho lao động giản đơn nhất, trong
điều kiện lao đông bình thường, đảm bảo mức sống tối thiểu mà dưới mức
đó không đảm bảo tái sản xuất giản đơn lao động.
Có nhiều căn cứ để tiếp cận mức lương tối thiểu như : nhu cầu tối thiểu,
mức sống tối thiểu, tốc độ tăng trưởng kinh tế, giá cả tư liệu sinh hoạt, mức
lương tối thiểu hiện tạivà mối tương quan với các tầng lớp dân cư khác. Vì
vậy, tiền lương tối thiểu không cố định, thường xuyên thay đổi. Phương
pháp xác định là dựa vào tiền lương tối thiểu hiện hành nhân với tốc độ tăng
trưởng và tỉ lệ lạm pháp hàng năm.

11



Tiền lương tối thiểu cần được xác định chung cho cả nước, coi đó là
mức sản thấp nhất, không nơi nào và ngành nào được phép trả thấp mức đó.
Từ tiền lương tối thỉeu chung có thể xác định tiền lương tối thiểu cho vùng
,theo hệ số nào đó (nhu cầu sống và giá cả sinh hoạt) nếu không có phụ cấp
khu vực. Đối với các ngành khác nhau có các thang bảng lương khác nhau.
Sự phân biệt tiền lương giữa các ngành khác nhau chính là sự xuất lương bậc
của các thang bảng lương. Nếu chỉ có một thang bảng lương chung thì nên
có phụ cấp ngành.
2.2 Hệ thống thang bảng lương
Hệ thống thang bảng lương biểu thị mối quan hệ về tiền lương giữa các
ngành, các lĩnh vực và các loại lao động khác nhau.
Trong chế độ tiền lương hiện hành có rất nhiều thang bảng lương khác
nhau cho 4 khu vực: bầu cử, hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh, lực
lượng vũ trang. Khi cải cách có thể xây dựng 6 loại thang bảng lương khác
nhau. Mỗi loại không cần thiết nhiều thang bảng lương như hiện nay.
- Đối với cán bộ bầu cử là những người được tín nhiệm, giữ trọng trách
lớn, có tinh thần trách nhiệm cao, có vai trò quan trọng trong công cuộc phát
triển kinh tế xã hội. Việc mở rộng bội số lương ở khu vực này là phù hợp.
Đối với mỗi chức vụ nên có hai mức lương hoặc phụ cấp cho những người
được tái đắc cử. Mức tiền lương của họ phải cao nhưng phải đảm bảo tương
quan đối với các khu vực khác.
- Đối với khu vực hành chính sự nghiệp: có thể chia thành 2 bảng
lương: công chức hành chính và sự nghiệp. Nên thu gon bảng lương ở khu

12


vực này. Không cần thiết mỗi ngành phải có một bảng lương riêng. Mỗi

ngạch công chức có một thang lương riêng. Trong từng ngạch không nên
chia quá nhiều bậc để làm tính chất bình quân của trả lương, khắc phục tình
trạng bậc treo ít người với tới.
- Đối với lực lượng vũ trang: đây là loại hình đặc biệt, có tinh thần
trách nhiệm cao, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ, thường xuyên phải sống xa
gia đình, trong những điều kiện và môi trường khó khăn ,nguy hiểm. Vì vậy
phải ưu tiên cho khu vực này , tuy nhiên phải xét mối tương quan với các
ngành khác, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động và thuận tiện trong
công việc luân chuyển cán bộ.
- Đối với khu vực sản xuất kinh doanh: mặc dù nhà nước đã giao quyền
tự chủ cho các doanh nghiệp nhưng nhà nước vẫn cần xây dựng các thang
bảng lương và coi đó là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp tham khảo để trả
lương cho người lao động. Đối với khu vực này cũng chỉ cần xây dựng 5-6
thang bảng lương. Nhưng trong mỗi thang bảng lương nên chia thành nhiều
bậc và mở rộng bội số trong các thang bảng lương.
- Đối với cán bộ chuyên trách cơ sở (xã, phường) cần thiết phải xây
dựng thang bảng lương riêng hoặc ghép vào bảng lương chức vụ bầu cử,
đồng thời có sự phân loại cơ sở để trả lương.
2.3 Các chế độ phụ cấp
Việc xác định các chế độ phụ cấp cần thiết để khắc phục những yếu
tố chưa được tính trong tiền lương và một số yếu tố đặc thù cho một số cán
bộ , công nhân viên chức. Có 2 loại phụ cấp : một loại so với mức lương tối
thiểu, một loại so với mức lương cấp bậc. Cần làm rõ những căn cứ để phân

13


loại phụ cấp này. Đối với mỗi loại phụ cấp không nên chia thành quá nhiều
mức khác nhau.
2.4 Cơ chế quản lý

Việc xếp lương cho cán bộ công nhân viên chức phải căn cứ vào tiêu
chuẩn chức danh nghiệp vụ, có chú ý tới mức lương đang hưởng, thâm niên
công tác và năng lực thực sự của người lao động. Không chỉ đơn thuần chỉ
dựa vào bằng cấp và kết quả thi nâng bậc. Việc nâng bậc lương trong cùng
ngạch không đơn thuần dựa vào thâm niên . Tất nhiên thâm niên là một căn
cứ nhưng phải chú ý tới năng lực và trình độ thực tế, hiệu quả công tác.
Hàng năm nên dành từ 5%-10% cho những người hoàn thành xuất sắc công
việc, nâng bậc trước thời hạn. Việc nâng bậc nên uỷ quyền cho thủ trưởng
đơn vị nhưng cấp trên cần quản lý chỉ tiêu nâng bậc hàng năm.
Đối với những đơn vị sự nghiệp có thu, bộ chủ quản nắm được nguồn
thu của các đơn vị mình quản lý. Những đơn vị này phải trang trải một phần
hoặc toàn bộ tiền lương của đơn vị mình, tuỳ thuộc vào nguồn thu. Đối với
mỗi doanh nghiệp thủ trưởng có quyền quyết định tiền lương chi người lao
động nhưng nhà nước phải quản lý và khống chế mức tối thiểu và tối đa.
3.

Các giải pháp về phân phối tiền lương.
Để đáp ứng nhu cầu và những nội dung cải cách tiền lương, phải

tiến hành một số biện pháp chủ yếu sau:
- Phải tiến hành cải cách hành chính tinh, giảm biên chế và bộ máy
quản lý các cấp, các ngành, giữa đảng, chính quyền, đoàn thể, giữa cơ quan

14


lập pháp và hành pháp. Vì vậy số người hưởng lương, bảo hiểm xã hội trợ
cấp ưu đãi có công ngày càng tăng.
- Tách số người hưởng bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi ra khỏi số
người hưởng lương. Hiện nay, số người hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách

nhà nước trên 6 triệu người (không kể lực lượng vũ trang) thì số người hưu
trí và trợ cấp lên trên 4 triệu người. Số người hưu trí , mất sức ( gần 1,7 triệu
người) hưởng từ bảo hiểm xã hội. Mặc dù hiện nay nhà nước phải cấp bù
nhưng dần dần quỹ bảo hiểm xã hội phải trang trải. Gần 2,5 triệu người có
công nhà nước cần nuôi dưỡng và trợ cấp. Đó là điều đương nhiên, không
tính trong quỹ lương. Nếu trừ số đó, số người hưởng lương từ ngân sách nhà
nước chỉ gần 2 triệu người.
- Đổi với khu vực sự nghiệp có thu, phải dùng khoản thu đó trả lương
cho cán bộ công nhân viên của mình. Nếu nơi nào thiếu ngân sách nhà nước
sẽ bù. Khu vực sự nghiệp chiếm gần 1,2 triệu người. Nếu nhà nước không
phải bao cấp chi ngân sẽ giảm đi rất nhiều.
Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy sản xuất phải dựa vào tất cả các
thành phần kinh tế, không chỉ dựa vào khu vực quốc doanh. Như vậy vừa
tăng thu nhập cho xã hội vừa giảm bao cấp cho nhà nước.
Tăng cường và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, đặc biệt là các khoản
thuế, chống thất thu. Đồng thời quản lý chặt chẽ các khoản thu chi. Thực tế
là thu nhập của người lao động không thấp nhưng tiền lương lại rất thấp.
Người lao động chỉ sống dựa vào tiền lương mà còn có nhiều khoản thu
khac nhau. Cần có các biện pháp để tiền lương chiếm lại đại bộ trong cac
khoản thu.

15


KẾT LUẬN
Trong những năm qua, nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc giải
quyết các vấn đề phân phối, các vấn đề tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, bảo
hiểm trợ cấp xã hội…nhằm thào gỡ những khó khăn trong phân phối để cởi
trói cho lĩnh vực sản xuất. Mặc dù vậy chúng ta vẫn còn nhiều chỗ chưa hợp
lý trong phân phối, vấn đề đặt ra là làm sao cho phân phối phải dựa trên các

nguyên tắc của kinh tế thị trường một cách triệt để.
Phân phối đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong kinh tế thị trường. Nó
nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nỗi liền các thị trường
trong nền kinh tế. Một chế độ phân phối đúng đắn góp phần thúc đẩy tốc độ
phát triển và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đảm bảo được sự công bằng xã
hội. Trong nền kinh tế thị trường phân phối được xác định dựa trên nguyên
tắc sở hữu, năng suất giới hạn và phương tiện cung cầu. Điều đó đảm bảo trả
công và trả giá đúng đắn với sự đóng góp của các yếu tố sản xuất trong đó
có 2 yếu tố chính là sức lao động và vốn. Nếu phân phối một cách tự phát tất
yếu dẫn tới phân hoá mất bình đẳng. Do đó cần có sự can thiệp của nhà
nước. Dựa trên các lý thuyết của phân phối và kinh nghiệm thực tiễn của các
nước trên thế thới , nhất là các nước có nền kinh tế gần giống với nền kinh tế
Việt Nam để đưa ra những chính sách hợp lý trong quan hệ phân phối nhằm
đưa nền kinh tế phát triển, đưa đất nước tiến lên theo con đường đã chon.

16


Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy đã giúp em hoàn thành
bài viết này.

17



×