I. Cổ sinh học trong tiến trình phát triển của hình thái kinh tế xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
(hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau từ thấp đến cao. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên, vì vậy các hình thái kinh tế - xã hội vận động,
phát triển theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan
của con người.
Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt của hình thái
kinh tế xã hội tác động qua lại với nhau tạo nên quy luật vận động, phát triển
khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà
hình thái kinh tế xã hội tuy là một phạm trù xã hội nhưng lại có quy luật phát
triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp đến cao. Nguồn
gốc sâu xa của việc phát triển và thay thế các hình thái kinh tế xã hội nằm ở chỗ
đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất gây lên sự thay đổi về quan hệ sản
xuất và sự thay đổi về quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở hạ tầng) đến lượt
nó sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng (là hệ thống các hình thái ý thức xã hội
cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một sơ
sở hạ tầng nhất định) thay đổi.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, trong lịch sử loài người xuất hiện tuần tự 5
hình thái kinh tế - xã hội được xem xét đầy đủ theo con đường cổ sinh học đó là:
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy):
Đây là hình thái KTXH đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người
+ Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ: Khi chế độ thị tộc tồn tại
trong công xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc
cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ.
+ Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến: Giai cấp thống trị mới trong hình
thái này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô.
+ Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa: Xuất hiện đầu tiên ở châu
Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức
xác lập như một hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ
17.
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa: Là hình thái phát triển
cao nhất của xã hội, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu
sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở
hạ tầng có trình độ cao hơn cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản, có kiến trúc
thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hóa ngày
càng cao.
Có thể thấy được, con đường cổ sinh học trong tiến trình phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội là con đường tiến bộ, tiến hóa tự nhiên đó là việc vận
động phát triển tuần tự từ thấp đến cao, không bỏ qua hình thái kinh tế nào.
II. Bào thai học trong tiến trình phát triển của hình thái kinh tế xã hội
Con đường bào thai học là con đường của cá thể, là con đường rút gọn
của loài. Con đường này trong tiến trình phát triển hình thái kinh tế - xã hội giúp
cho sự phát triển được rút ngắn đi rất nhiều lần, nó đóng vai trò quan trọng trong
sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới.
Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội không chỉ tuân theo
các quy luật khách quan mà còn chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác; đó
là các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các
giai cấp, tầng lớp xã hội… Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến
trình phát triển của mỗi cộng đồng người nhất định có thể diễn ra với những con
đường, hình thức, bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự
phát triển của lịch sử nhân loại. Tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển đó
được thể hiện tiêu biểu ở các “phương thức phát triển rút gọn” hay “rút ngắn”
tiến trình lịch sử của một quốc gia, dân tộc trong các điều kiện lịch sử đặc thù
của nó.
Trong tiến trình phát triển, có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay
một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra
theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không theo ý muốn chủ quan. Quá trình
đó chính là “phát triển theo quy luật lịch sử nằm trong định hướng khoa học,
hợp lý, khách quan”. Ví dụ như “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Có
những dân tộc phát triển nhanh nên họ đã trải qua lần lượt từng hình thái kinh tế
xã hội. Họ có lợi thế về điều kiện tự nhiên, về con người, về hoàn cảnh (sớm
thoát ra khỏi chiến tranh, hoặc sớm có sự giao lưu với các nước khác...) thì họ sẽ
phát triển nhanh chóng. Còn một số dân tộc, họ không thể trải qua lần lượt từng
giai đoạn, từng hình thái xã hội đựơc, họ lựa chọn con đường phát triển rút ngắn
hoặc bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội. Một số quốc gia trên thế
giới (như Việt Nam, Trung Quốc,...) đã bỏ qua hình thái TBCN để bước ngay
sang hình thái CNXH. Đây là một yêu cầu khách quan của lịch sử, là một yêu
cầu bức thiết của tình hình kinh tế - xã hội - chính trị lúc ấy chứ không phải là
do một ý muốn chủ quan nào cả. Trong tiến trình đó, xét về mặt phương thức
sản xuất, cũng có thể là một sự phát triển tuần tự, nhưng cũng có thể có sự đan
xen nhất định giữa các yếu tố thuộc các phương khác nhau và rút gọn về mặt
thời gian các giai đoạn phát triển của một phương thức sản xuất nhất định để
nhanh chóng tiến tới một phương thức sản xuất cao hơn. Các quốc gia, dân tộc
châu Á, kể cả Trung Quốc và Ấn Độ thời cổ đại, về căn bản chưa từng trải qua
phương thức sản xuất chiếm hưu nô lệ. Hoặc trong thời kì cận – hiện đại, một số
quốc gia, dân tộc vùng châu Á, chỉ trong một lịch sử mấy chục năm đã hoàn
thành phương thức sản xuất công nghiệp và thị trường tư bản theo kiểu phương
thức sản xuất tư bản đặc thù vùng Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc…) trong khi
các nước phương Tây và Mỹ trước đây đã phải mất một thời kỳ lịch sử khoảng
một trăm năm.
Với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Mác và Ăng-ghen xem xét sự
phát triển xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Tiến trình ấy, theo
các ông, đã phát triển trải qua các chế độ: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù chỉ ra
một cách sâu sắc sự thay thế nhau liên tục của các hình thái kinh tế - xã hội như
một tiến trình lịch sử - tự nhiên, nhưng Mác và Ăng-ghen, cũng đã dự báo khả
năng bỏ qua chế độ TBCN đối với một số nước trong những điều kiện lịch sử cụ
thể. Trong Lời tựa cho Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (viết cho bản tiếng Nga
năm 1882), C. Mác nói rằng: “Bây giờ, thử hỏi công xã Nga, các hình thức thật
ra đã bị phá hoại ghê gớm ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể
chuyển thẳng sang hình thức cao, hình thức công hữu cộng sản chủ nghĩa được
không? Hay là, trái lại, trước hết nó cũng phải trải qua cái quá trình tan rã giống
như quá trình mà tiến trình lịch sử của phương Tây phải trải qua?”.
Tiếp tục tư tưởng về sự phát triển của các nước tiền TBCN lên CNXH,
Lê-nin nêu rõ: “Vấn đề đặt ra như thế này: đối với các dân tộc lạc hậu hiện nay
đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà
khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải
qua giai đoạn phát triển TBCN, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không?
Chúng tôi cho rằng không đúng... Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng
minh trên lý luận cho một nguyên tắc đó là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản
các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và qua những
giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua
giai đoạn phát triển TBCN”.
Qua các tác phẩm của Mác, Ăng-ghen và Lê-nin khi nói về “những nước
lạc hậu” tiến lên CNXH trong khi chưa phát triển TBCN, cho thấy một số tư
tưởng đáng chú ý: một là - “bỏ qua toàn bộ thời kỳ TBCN”; hai là - “không
phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”; ba là - “con đường phát triển rút
ngắn”. Ở đây tư tưởng thứ nhất và thứ hai có cùng một cách tiếp cận và mang
cùng một nội dung, còn tư tưởng thứ ba có cách tiếp cận khác và cũng mang
những nội dung khác. “Thời kỳ TBCN” hay “giai đoạn phát triển TBCN” hiện
diện với tư cách là một hình thái kinh - tế xã hội trong chuỗi vận động và phát
triển liên tục của lịch sử. Vì vậy, nói “bỏ qua” hay “không phải trải qua” nghĩa là
bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội TBCN. Còn “con đường phát triển rút ngắn”
nghĩa là sự phát triển không bỏ qua hoàn toàn hình thái kinh tế - xã hội TBCN
với tư cách là một hình thái kinh tê ́ - xã hội, mà đó là sự phát triển có chọn lọc,
kế thừa, có điều chỉnh và định hướng các thành tố phát triển, các động lực phát
triển và xu hướng phát triển theo những yếu tố của thời đại quy định và theo sự
mong muốn, theo chiến lược, mục tiêu phát triển của từng quốc gia cụ thể. Dĩ
nhiên, “con đường phát triển rút ngắn” cũng bao hàm trong nó sự phát triển bỏ
qua những nhân tố, những bộ phận, những tiến trình không còn phù hợp trong
thời đại mới.
C.Mác có lần khẳng định: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong
trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy
đủ cho sự phát triển vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới,
cao hơn, không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”. Như vậy, học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ ra, để một xã
hội tiền tư bản tiến lên CNXH thì tư tưởng về “con đường phát triển rút ngắn” tỏ
ra thuyết phục hơn so với con đường “bỏ qua thời kỳ TBCN” và “không phải
trải qua giai đoạn phát triển TBCN”. Vấn đề phát triển rút ngắn có thể phù hợp
với sự đa dạng, phong phú, khác biệt về điểm xuất phát của các quốc gia khác
nhau, chính nó tạo ra sự độc đáo của các quốc gia trong quá trình lên CNXH.
Thế nhưng, rút ngắn là như thế nào, cái gì có thể rút ngắn và rút ngắn bao nhiêu
thì hợp lý là những vấn đề không hề đơn giản.
Có thể nói, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, chính trị - xã hội cũng như
đặc điểm về lịch sử, truyền thống văn hóa, các quốc gia, dân tộc không nhất thiết
phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo mô hình chung mà có thể
lựa chọn con đường phát triển bào thai học (con đường phát triển rút ngắn; bỏ
qua một hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội).
III. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia tiêu biểu cho con đường bào thai học bằng quá
trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội, Việt Nam không trải qua hình thái chiếm hữu nô lệ và tư bản chủ
nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng
ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính
chất bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam. Song, không qua tư bản chủ nghĩa
không có nghĩa là vứt bỏ, là phủ định sạch trơn mọi thành tựu của văn hóa và
văn minh, mọi tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà loài người đã đạt được trong tư
bản chủ nghĩa. Đảng và nhà nước nhận thấy chúng ta có thể kế thừa những kinh
nghiệm phát triển của những quốc gia đi trước, thực hiện chiến lược “đi tắt, đón
đầu”, chúng ta có đủ khả năng về kinh nghiệm và bản lĩnh để tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội mà không nhất thiết phải tuần tự phát triển theo các hình thái kinh
tế xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối
tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ
sung và hoàn thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất
định của thời đại.
Song điều đó khiến chúng ta gặp không ít khó khăn, vì nếu theo tuần tự
phát triển mới có thể tạo dựng được cơ sở vật chất đầy đủ nhằm tiến tới một xã
hội mới hoàn thiện hơn. Bởi vậy con đường trực tiếp lên xã hội chủ nghĩa là
không có khả năng, nhưng con đường phát triển rút ngắn theo cách gián tiếp là
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường hiện thực. Chúng ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải theo phương thức trực
tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian, phải bắc những “chiếc cầu nhỏ” đi lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Việc bỏ qua chế độ TBCN, về cơ bản, chính là:
“bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Do toàn bộ
những điều kiện khách quan và chủ quan quy định, Việt Nam thực hiện quá độ
lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Nhưng để
thực hiện thành công chúng ta cần phải chú ý những vấn đề cơ bản là: phải nhận
thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan; có quan niệm đúng đắn về
vấn đề “bỏ qua”; có chủ trương thực hiện đúng đắn, phát huy được đầy đủ các
nhân tố chủ quan. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải thấy rõ việc lựa
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta
như là một quá trình lịch sử – tự nhiên; phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội; xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đảng cộng sản Việt Nam là một
nhân tố có vai trò quyết định đối với việc thúc đẩy sự phát triển nhanh của đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng
rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
con đường hợp với quy luật và có khả năng thực hiện. Việt Nam hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó lãnh đạo nhân dân tiến hành
đổi mới.