MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Trên thế giới người ta nói thể kỉ XX là “thế kỉ của phê bình văn học”. Nhận
định ấy cũng đúng với Việt Nam, bởi chỉ vào thế kỉ XX Việt Nam mới có phê bình
văn học theo nghĩa hiện đại. Song số phận phê bình văn học Việt Nam thì hẩm hiu
hơn nhiều. Nhận định nêu trên về phê bình văn học thế giới quả không ngoa: bởi vì
ngay từ đầu thế kỉ đã lần lượt nảy sịnh các trào lưu phê bình văn học liên tục đan
xen, thay thế nhau. Nào chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới, phân
tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, giải cấu trúc, chủ nghĩa tân lịch
sử, thi pháp học, phong cách học, diễn ngôn học, tu từ học… Các khuynh hướng
cạnh tranh nhau, bổ sung nhau làm cho các vấn đề văn học ngày càng được sáng tỏ,
khắc phục dần các nhận thức ấu trĩ siêu hình. Song ở Việt Nam thì không thế. Vừa
mới hình thành chưa lâu trước năm 1945, nhà phê bình chưa kịp tự ý thúc về mình
và nghề mình thì sau đó gần hết nửa thế kỉ còn lại phê bình văn học Việt Nam buộc
phải đi vào hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, chống ý thức hệ đối kháng. Do
hoàn cảnh lịch sử và định hướng ý thức hệ phê bình văn học của Việt Nam hầu như
trở thành một ốc đảo, chúng ta chỉ biết có chủ nghĩa Mác theo phiên bản các nước
xã hội chủ nghĩa, mà hầu như không biết gì về các trào lưu khác trên thế giới, tách
xa các trào lưu ấy như nước với lửa. Chỉ từ năm 1986, đúng hơn từ năm 1995 do
mở của hội nhập với các nước trên thế giới, ta mới có ít nhiều đổi thay trong giao
lưu văn học, phê bình, song do theo định hướng lấy chủ nghĩa Mác Lenin làm nền
tảng, các tư tưởng khác hầu như đều ở vào địa vị bất hợp pháp, bất bình đẳng,
ngoại biên, bị coi là phi chính thống. Chính vì vậy mà đã gần 40 năm lí luận phê
bình văn học chúng ta tiến bộ rất chậm chạp.
Tuy vậy, với đường lối văn nghệ ngày càng có phần cởi mở, phê bình văn
học Việt Nam cũng dần dần hình thành các khuynh hướng phê bình của mình. Các
khuynh hướng này không phải là sự sao chép trào lưu phê bình văn học nước ngoài
mà hình thành trong ngữ cảnh Việt Nam, phụ thuộc vào trình độ tự thức nhận của
nền văn học. Cùng với các khuynh hướng lí thuyết là các tiêu chuẩn giá trị khác
nhau, sự đánh giá khác nhau tạo nên một bức tranh đa sắc, nhiều chiều, nhất là đối
với tác phẩm đương đại. Trong công cuộc chuyển mình của văn học theo hướng
hiện đại đầy ý nghĩa, giá trị của văn học chưa có được tọa độ ổn định. Nhiệm vụ
của phê bình không chỉ là diễn giải ý nghĩa tác phẩm, mà còn là xếp hạng, định vị
các giá trị văn học, phân vạch các khuynh hướng hầu như chưa có điều kiện thực
2
hiện đối với văn học đương đại. Các cách xếp hạng hiện thời khó tránh khỏi tính
tạm thời. Trong bài này chúng tôi đề cập đến phê bình tiểu sử.
3
1. Phê bình tiểu sử học
a. Nguồn gốc
Thời đại Mới mở ra với sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân. Mỹ học lãng
mạn đề cao con người tác giả như là một chủ thể sáng tạo, một nguồn gốc quan
trọng của tác phẩm. Bởi vậy, việc tìm hiểu tác giả để biết tác phẩm được coi là một
cách làm khoa học. Từ đó, phương pháp tiểu sử học ra đời.
Bên cạnh những quan niệm văn học và lối phê bình truyền thống vẫn còn có
mặt trên sách báo, lúc này dưới ảnh hưởng của văn hóa, học thuật Pháp, ở ta dần
hình thành những quan niệm và phương pháp phê bình mới có đặc tính khách quan
khoa học, đối lập với chủ quan, siêu hình. Một trong số đó là lối phê bình vẫn được
gọi là “tiểu sử học”, tức là giải thích các đặc tính, phong cách văn học dựa trên sự
khảo sát tiểu sử của nhà văn.
*Ở phương Tây
Phê bình tiểu sử học hình thành ở châu Âu vào nửa đầu thế kỉ XIX cùng với
tên tuổi của Sainte - Beuve (1804-1869). Nó ra đời như là sự chống lại mĩ học của
Aristote, coi cái đẹp là sự mô phỏng: mô phỏng tự nhiên, mô phỏng hiện thực và
mô phỏng những trước tác mẫu mực. Thời Đại Mới với sự phát triển cao của ý thức
cá nhân, đặc biệt là cá nhân lãng mạn, đã hết sức quan tâm đến chủ thể sáng tạo.
Một con người cá nhân cụ thể nào đó là kẻ sáng tạo đích thực ra văn chương. Tác
phẩm, xét cho cùng, là một thứ con đẻ của nhà văn thì nó phải in dấu những đặc
điểm của người làm ra nó, như khí chất, tính tình, thiên hướng, tư tưởng, giáo
dục… Sainte - Beuve đã tìm hiểu tác phẩm qua việc nghiên cứu tác giả, đúng hơn
là chân dung tâm lí tác giả.
Theo Sainte - Beuve, để hiểu tác phẩm, trước hết cần hiểu về nhân cách của
nhà văn: “Tôi có thể thưởng thức một tác phẩm, ông khẳng định, nhưng tôi khó mà
phán xét một cách độc lập sự nhận biết về chính con người anh ta [nhà văn]; và tôi
sẽ sẵn sàng nói rằng: cây nào quả nấy. Nghiên cứu văn học đương nhiên sẽ dẫn đến
nghiên cứu về đạo đức”. Ông quan niệm phê bình phải đồng nhất với tác giả: “Phê
bình đối với tôi là hóa thân: tôi cố gắng biến vào nhân vật mà tôi tái hiện” theo lối
quyết định luận cá nhân (Những ngày Thứ hai Mới, 1863-1870) [1,6]. Như vậy
theo quan niệm của Sainte Beuve - cha đẻ của phương pháp phê bình tiểu sử học,
tìm hiểu tác phẩm là sự giải thích các đặc tính, phong cách văn học dựa trên sự
khảo sát tiểu sử nhà văn, cụ thể là tìm hiểu con người nhà văn: dòng dõi, thân hữu,
môi trường sống và sáng tác, quan điểm tư tưởng và nghệ thuật…
4
*Ở Việt Nam
Phương pháp phê bình tiểu sử có ảnh hưởng lớn đến phê bình văn học ở Việt
Nam. Phê bình tiểu sử đến Việt Nam vào đầu TK XX có ảnh hưởng từ phê bình tiểu
sử xuất hiện ở Pháp, khi gặp truyền thống thưởng thức nghệ thuật bản địa và truyền
thống thưởng thức nghệ thuật phương Đông đã trở thành hậu thuẫn cho Phê bình
tiểu sử. Từ lâu trong hệ thống văn học, chúng ta đã chú ý đến mối quan hệ tác giả tác phẩm, trong đó tác giả là yếu tố chủ đạo, bởi thi dĩ ngôn chí. Người đầu tiên áp
dụng phương pháp phê bình tiểu sử ở Việt Nam là Trần Thanh Mại với tác phẩm
“Trông dòng sông Vị” (1936) và “Hàn Mặc Tử” (1941). Sau 1945, tuy vẫn giữ vai
trò hết sức quan trọng, nhưng phương pháp này không còn được sử dụng một cách
thuần nhất nữa mà thường hoà lẫn với một cách tiếp cận khác đã trở thành chủ đạo
là phương pháp xã hội học.
b. Đặc điểm
Mục đích của phê bình tiểu sử học là nhằm cắt nghĩa sáng tác văn học bằng
các chứng liệu là những sự kiện trong đời sống và tinh thần của thi nhân mà nhà
phê bìnhTrần Thanh Mại đã khẳng định rằng: “không rõ thấu hết những cái vặt
vãnh thắc mắc trong đời một nhà thi sĩ thì không sao hiểu hết được thơ của người
ấy”.
Các nhà Phê bình tiểu sử trong quá trình cắt nghĩa tác phẩm văn học thường
chú ý đến ba vấn đề chính: hoàn cảnh gia đình – cá nhân – quan hệ của nhà văn
trong quá trình trở thành nhân cách độc lập (bạn bè, vợ con, người tình), bởi đây là
lựa chọn bộc lộ bản ngã của họ, những nhân tố ảnh hưởng như tiền bạc, tôn giáo,
bệnh tật, những bước ngoặt trong cuộc sống riêng tư, với nhà phê bình tiểu sử đây
là những dữ liệu hết sức quan trọng để tìm ra được sự tương đồng giữa tiểu sử và
tác phẩm, coi tiểu sử là một động cơ tạo nên tác phẩm. Trong ba mối quan hệ: tác
giả - tác phẩm - người đọc, phê bình tiểu sử chú trọng đến mối quan hệ tác giả - tác
phẩm, coi tác giả là yếu tố quy định tác phẩm theo nguyên lý nhân quả. Bởi thế,
biết được tác giả là ai thì có thể biết được tác phẩm thế nào bằng con đường loại
suy. Phê bình tiểu sử, vì thế, lấy tác giả làm tính thứ nhất.
Nhìn chung, phương pháp phê bình tiểu sử học có một số đặc điểm như sau:
- Xét tác phẩm qua thân thế nhà văn
Theo Lê Thanh, “giáo dục học vấn và thiên hướng văn học” là một trong
những khía cạnh đáng quan tâm trong đời sống nhà văn. Học vấn và năng khiếu của
5
nhà văn được Lê Thanh coi là những yếu tố rất quan trọng làm nên sự nghiệp văn
học của một người. Tác phẩm văn học được ông hiểu như một sáng tạo phẩm duy
nhất của một nhà văn cụ thể, một hoàn cảnh cụ thể khách quan. Bộ sưu tập tiểu sử
(đời sống và tâm sự) của nhà văn càng đầy đủ thì càng cho phép hiểu rõ hơn tác
phẩm.
Đối với Trần Thanh Mại thơ là tiểu sử của nhà thơ và phê bình chính là sự
phóng chiếu cuộc đời nhà thơ vào sáng tác thơ ca của nhà thơ ấy. Thơ ca vì đó mà
được lí giải bởi những tình huống cuộc đời nhà văn và rộng hơn trong một không thời gian cụ thể của lịch sử.
- Tôn chỉ và lí thuyết sáng tác của nhà văn
Văn chương là đời sống tinh thần của con người. Đằng sau mỗi tác phẩm là
một thế giới tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ rất riêng của tác giả. Chú ý đến mối quan
hệ giữa tác phẩm và tôn chỉ sáng tác của người nghệ sĩ, nhà phê bình Lê Thanh đã
tiến hành “cuộc phỏng vấn các nhà văn” để đi sâu vào việc tìm hiểu “những mơ
tưởng thầm kín” của họ. Và với ông đó dường như “là điều khó nhất, cũng là quan
trọng nhất trong việc phê bình”.
- Căn cứ vào thân thế và điều kiện xã hội
Đào Duy Anh đã giải thích những chuyển biến của tư tưởng của Nguyễn Du
hay là giải thích bút pháp tượng trưng ước lệ mà Nguyễn Du sử dụng trong truyện
Kiều bằng việc căn cứ vào thân thế, điều kiện xã hội để giải thích chứng minh.
Theo cách lí giải bút pháp nghệ thuật mà Nguyễn Du sử dụng trong truyện Kiều
của Đào Duy Anh, ông cho rằng Nguyễn Du không tả thực, bởi vì Nguyễn Du sống
vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, ở giữa hoàn cảnh quý tộc, ở giữa hoàn cảnh
phong kiến về vật chất lẫn tinh thần, đã sống trong một thế giới ước lệ, thì nghệ
thuật của Nguyễn Du không thoát khỏi vi phạm ước lệ. Có nghĩa là môt trường
sống, hoàn cảnh qúy tộc phong kiến quy định bút pháp của nhà thơ
- Mối liên hệ với “lịch sử ngoài nhà văn”
“Lịch sử ngoài nhà văn” là lịch sử của tác phẩm (lai lịch), lịch sử văn hóa, xã
hội liên quan trực tiếp tới tác giả và tác phẩm. Tìm hiểu tác phẩm văn học không
chỉ dừng lại ở việc khảo cứu lịch sử cá nhân mà còn phải chú ý điều kiện xã hội,
mối liên hệ giữa các nhà văn,... Môi trường sống, hoàn cảnh xã hội chi phối chặt
chẽ đến nghệ thuật viết cũng như tư tưởng của nhà văn.
6
2. Tiếp cận văn học Việt Nam theo lối phê bình tiểu sử học
Trong hệ thống văn học tác giả - tác phẩm - người đọc, phê bình tiểu sử chú
trọng đến mối quan hệ tác giả - tác phẩm, coi tác giả là yếu tố quy định tác phẩm
theo nguyên lý nhân quả. Bởi thế, biết được tác giả là ai thì có thể biết được tác
phẩm thế nào bằng con đường loại suy. Hoặc, nói theo Trần Thanh Mại, nhà phê
bình tiểu sử đầu tiên và tiêu biểu của văn học Việt Nam, là lấy cuộc đời cắt nghĩa
tác phẩm.
Nhà phê bình Trần Thanh Mại đã chọn ra chính xác ba trong vô vàn những
sự kiện tiểu sử được coi là động lực khởi nguyên của thơ Hàn: tôn giáo (ở đây là
Thiên Chúa giáo), bệnh tật (ở đây là bệnh phong) và những người đàn bà.
Tôn giáo (ở đây là Thiên Chúa giáo), Trần Thanh Mại, trong công trình
nghiên cứu của mình, tuy không để tôn giáo là một tiểu mục riêng nhưng ông phân
tích tác động của Kitô giáo đến Hàn Mặc Tử ở nhiều nơi, nhiều chỗ. Trí là người rất
ngoan đạo, nên thơ Tử không thể không có tôn giáo: Thánh nữ đồng trinh Maria,
một phần thơ trong Thượng Thanh khí…
Nhân bình luận bài “Xuân đầu tiên”, Trần Thanh Mại viết: “Những tư tưởng
cao siêu thanh khiết đã tạo ra những lời thơ cao siêu thanh khiết ấy phần nhiều là
ảnh hưởng ở nguồn tư tưởng vô cùng nơi đạo Thiên Chúa. Hàn Mặc Tử bảo Bích
Khê rằng: “Sáng tạo là điều kiện cần nhất, tối yếu của thơ, mà muốn tìm nguồn
cảm xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều. Như thế văn thơ
mới trở nên trọng vọng, cao quý, có một ý nghĩa thần bí”. Chính trong cơn hoạn
nạn, Hàn Mặc Tử “mỗi lần chết đi sống lại, chàng đều cảm thấy bà Thánh nữ đồng
trinh Maria đến cứu chàng: cho nên hơn hết cả muôn vị thần thánh, Thánh mẫu
Maria là đấng cho chàng ca tụng, việc ấy chàng đã làm trong một bài thơ tuyệt
diệu, mà tôi muốn làm sao cho thấu đến tòa Khâm mạng toàn cõi Đông Dương, đến
cả Tòa thánh đức Giáo hoàng La Mã. Những lời thơ của Hàn Mặc Tử về loại đạo
hạnh như bài này có thể đặt chàng ngay hàng với nhà đại thi hào Pháp Paul
Claudel”.
Trong “Hàn Mặc Tử”, Trần Thanh Mại cắt nghĩa sự ám ảnh của trăng trong
thơ của thi sĩ họ Hàn bằng việc đi tìm mối liên hệ ảnh hưởng của trăng với bệnh
phong. Trần Thanh Mại đã trình bày kĩ về nguyên nhân mắc bệnh của Hàn Mặc Tử,
quá trình chữa chạy và trạng thái bệnh lí của nhà thơ. Nhưng điều đáng lưu ý hơn là
ông đã chỉ ra những mối quan hệ nhân quả giữa bệnh tật và thơ ca. Theo ông, mỗi
kì trăng sáng có thể có những tác động huyền bí nào đó đến bệnh phong. Vi trùng
7
hoạt động mạnh hơn, nên bệnh nhân đau đớn hơn. Trăng, vì thế, đã trở thành một
ám ảnh lớn trong thơ Hàn. Biểu tượng trăng trở thành một biểu tượng ám ảnh trong
thơ của ông:
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
(Say trăng)
Tình đã húp, sao ý vẫn còn sưng
Sao giấy lại tháo mồ hôi ra thế?
(Bức thư xanh)
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
(Hồn là ai)
Và những người đàn bà (dĩ nhiên, những người đàn bà đặc biệt), Trần Thanh
Mại cũng rất chú ý: Tài tử với giai nhân nợ sẵn! Họ là nguyên nhân trực tiếp của
những bài thơ tình của Tử, gây những đột biến trong thế giới tâm tư ông. Hoàng
Cúc, mối tình đầu, là “đồng tác giả” của những bài thơ về hoa cúc, Tình quê, Âm
thầm. Đặc biệt sau này là Đây thôn Vĩ Dạ. Những bài thơ tình “muôn năm sầu
thảm” như Lang thang, Say chết đêm nay, Phan Thiết! Phan Thiết!, Thân tàn ma
dại... thuộc về mối tình của thi sĩ với Mộng Cầm. Đây là một “mối tình lớn” của
Hàn không phải chỉ bởi một cảm quan lãng mạn nào đó: “Tình chỉ đẹp khi còn
dang dở”..., mà nó xảy ra vào lúc nhân cách và thi tài của nhà thơ đã trưởng thành.
Nó là tiếng nói của Đau thương. Một người đàn bà khác cũng in đậm dấu lên thơ
Hàn Mặc Tử là Mai Đình nữ sĩ. Nàng yêu Hàn Mặc Tử qua thơ (tập Gái quê), rồi
đến với chàng trong đời thực, mặc dù lúc ấy thi sĩ đã mắc bệnh. Nữ sĩ Mai Đình đã
“cho” Hàn Mặc Tử các bài Lưu luyến, Đánh lừa, Thao thức... Rồi Hàn Mặc Tử còn
nhiều mối tình thực ít mộng nhiều khác như với Lê Thị Ngọc Sương (chị Bích
Khê): Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối, sương ở cung Thiềm rỏ chẳng thôi, như với
Thương Thương vốn là một cô bé 12 tuổi, cháu Trần Thanh Địch, nguồn cảm hứng
cuối cùng của Cẩm Châu duyên…
Yêu, có lẽ, là một thuộc tính của thi nhân. “Tim tôi lửa cháy như thiêu/ Nên
tôi không thể không yêu người nào” (Puskin). Nguyễn Bính yêu nhiều, viết nhiều;
yêu để mà viết, viết để mà yêu. Hàn Mặc Tử, tôi nghĩ, yêu ngoài cứu cánh của sáng
8
tạo còn là cứu cánh của đời sống. Bởi vậy, tư liệu về những người đàn bà trong đời
Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại chẳng những giúp cho ta biết được lí do sáng tác
của thi nhân mà còn phần nào giúp làm hiểu rõ thi phẩm. Chúng ta hãy đọc Trần
Thanh Mại: “Chàng không quên được hình ảnh người yêu (Mộng Cầm - ĐLT), và
sự đau khổ về cuộc tình duyên lỡ dở ấy lại là một nguồn cảm hứng để cho thi sĩ kéo
ra nhiều điệu nhạc trầm hùng. ấy là những tiếng kêu não nuột nhất, những giọng
gào thét đoạn trường nhất mà một người bị tình phụ đã thốt lên:
Trời hỡi! Nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn, làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng,
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?
(Lang thang)
Nhưng tiếng kêu than ảo não hơn hết là khi thi sĩ đến nơi đã vì đó mà dấy lên
cuộc ái ân, nơi đã chứng kiến mối tình đầu của chàng: Phan Thiết! Phan Thiết! Cái
tên khêu gợi làm sao! Nó dội lên như một lời trăng trối thống thiết:
Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng,
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng.
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang,
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết...
Ơi! Trời ơi! Là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi!
Ta đến nơi - Nàng ấy vắng lâu rồi!
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỉ.
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ,
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng.
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết,
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu!
9
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!
(Phan thiết! Phan Thiết!)
Trần Thanh “cắt nghĩa” tác phẩm bằng những dữ kiện cuộc đời. Bạn đọc hiểu
thêm, cảm nhận sâu sắc hơn những bài thơ của Hàn Mặc Tử một khi được biết đó
là những hạnh phúc và khổ đau của thi nhân với những Hoàng Cúc, Mộng Cầm,
Mai Đình, Thương Thương… Bạn đọc cũng hiểu thêm được tại sao thơ Hàn đầy
những biểu tượng ám ảnh của trăng, hồn, máu, nếu biết được vi trùng hủi thường
hoạt động mạnh vào mùa trăng, khiến người thơ đau đớn đến ngất đi (xuất hồn).
Không chỉ có thế, Trần Thanh Mại còn lý giải sự cảm nhận thế giới mãnh liệt, chất
nhạc, sự giàu có hình tượng…, một cái nhìn nghệ thuật đặc biệt của thơ Hàn, là do
những nhân tố tôn giáo, bệnh tật, sự cô đơn của cuộc đời thi nhân)
Hay như Lưu Quang Vũ một hiện tượng của nền văn học Việt Nam thế kỷ
XX. Lưu Quang Vũ đã để lại cho hậu thế những tác phẩm mang đậm tính thời đại
về cuộc đời và con người thời bấy giờ. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu
Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn từng giai đoạn
trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần
50 vở kịch, và hàng loạt những tác phẩm truyện ngắn, thơ gắn liền với cuộc đời của
ông. Đọc thơ Lưu Quang Vũ một điều dễ nhận thấy là hồn thơ của ông chan chứa
những tâm tư, tình cảm khắc khoải về tình yêu lứa đôi. Cuộc đời của Lưu Quang
Vũ gắn với nhiều bóng hồng, mỗi người phụ nữ khi lướt qua cuộc đời ông đều cho
ông những tâm tư nhất định. Khi tìm hiểu về cuộc đời của ông dễ nhận thấy những
mối tình công khai hoặc chưa công khai của ông đều rất đặc biệt. Mỗi bóng hồng đi
qua cuộc đời Lưu Quang Vũ đều cho thi sĩ những cảm xúc riêng, phải kể đến 3
người làm ông say đắm là Tố Uyên, Xuân Quỳnh, Nguyễn Thị Hiền. Đối với Tố
Uyên với những cảm xúc tươi mới khi thuở mới biết yêu ở “Vườn trong phố”, với
Xuân Quỳnh mãnh liệt, cháy bỏng trong tập Mây trắng của đời tôi, với Nguyễn Thị
Hiền nồng nàn, khát khao trong “Thư mùa đông”, “Em- tình yêu và những năm
tháng đau xót hy vọng”. Và Lưu Quang Vũ không tuyệt nhiên yêu ai nhàn nhạt,
nửa vời. Với ông, mối tình nào cũng chan chứa nồng nàn, cũng mãnh liệt khôn
nguôi.
Nếu ta không tìm hiểu về cuộc đời cũng như vài nét về những sự kiện trong
cuộc đời của tác giả mấy ai hiểu được hồn thơ của ông. Đọc “Em- tình yêu những
năm tháng đau xót và hy vọng”, đây là bài thơ Lưu Quang Vũ viết tặng Nguyễn Thị
Hiền “nàng thơ” giúp Lưu Quang Vũ sáng tác thật nhiều trong tâm trạng tuyệt vọng
của một mối tình không đến được với nhau:
10
Một tình yêu không biết nói cùng ai
Đến điên dại, đến nghẹn ngào đau đớn
Mặt anh vỡ trong tấm gương thất vọng
Em ơi ngày ấy em đâu?
Chuyện tình của Lưu Quang Vũ với Nguyễn Thị Hiền nhận biết bao sự phản
đối của dư luận, sự ngăn cách bởi lúc yêu Nguyễn Thị Hiền ông đã có gia đình.
Những sáng tác của ông về người phụ nữ này luôn chan chứa sự cuồng nhiệt, hy
vọng:
Tôi muốn đi tới đích cùng em
Tôi phải đi tới đích cùng em
Lòng tôi như buổi sớm vẫn nguyên lành
Em nhận lấy em đừng e ngại mãi
Tôi tan nát, tôi kinh hoàng sợ hãi
Em cô đơn rồ dại của tôi ơi...
(Gửi Hiền.)
Trước khi có những mối tình sau này Lưu Quang Vũ đã có mối tình tuyệt vời
thuở chớm yêu với nữ diễn viên Tố Uyên. Ở tình yêu của Lưu Quang Vũ và Tố
Uyên cũng có những câu chuyện lấp lánh và đầy lãng mạn. Lúc đó, Tố Uyên là một
diễn viên nổi tiếng với “Con chim Vành Khuyên”, còn Lưu Quang Vũ là một chàng
lính ở sân bay trốn về thăm người yêu và viết những bài thơ cháy gan cháy ruột vì
cô:
Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa.
(Vườn trong phố).
Cho đến cuộc hôn nhân sau này với nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng là nguồn cảm
hứng cho Lưu Quang Vũ trong những sáng tác của mình. Chuyện tình đẹp khi cả
hai đều có những tan vỡ trong hôn nhân họ đến với nhau nhờ sự đồng điệu nơi tâm
hồn:
11
Có phải vì mười lăm năm yêu anh
Trái tim em đã mệt
Cô gái bướng bỉnh
Cô gái hay cười ngày xưa
Mẹ của các con anh
Một tháng nay nằm viện.
(Thơ viết cho Quỳnh trên máy bay)
Ba người phụ nữ đi qua cuộc đời Lưu Quang Vũ đã cho ông có những rung
động nhất định. Sở dĩ chúng tôi đề cập đến những mối tình của ông để minh chứng
cho một điều rằng việc tìm hiểu về cuộc đời cũng như tiến trình sáng tác của nhà
thơ để hiểu rõ được những gì mà người nghệ sĩ thể hiện qua từng câu chữ của mình.
Cuộc đời sự trải nghiệm đều được chuyển tải đầy đủ qua từng vần thơ của Lưu
Quang Vũ. Diễn viên Tố Uyên, Họa sĩ Nguyễn Thị Hiền hay thi sĩ Xuân Quỳnh khi
được Lưu Quang Vũ chuyển tải tâm tình của mình qua những vần thơ để tặng cho
những người tình của mình đều có những dấu ấn riêng. Chỉ khi người đọc tìm hiểu
những biến chuyển về cuộc đời tác giả thì mới hiểu mới cảm nhận được hết những
điều đặc biệt mà ông dành tặng cho những người phụ nữ của mình. Nói đến kịch
người ta sẽ nhắc ngay đến Lưu Quang Vũ như một hiện tượng, với những tác phẩm
thể hiện thành công trên sân khấu từ Nam đến Bắc. Tất cả những sáng tác ấy đều
xuất phát từ những gì ông trải nghiệm và cảm nhận từ hiện thực của ông. Vậy việc
tìm hiểu tiểu sử của Lưu Quang Vũ hay bất kỳ một người nghệ sĩ nào khác góp
phần cho đọc giả có những góc nhìn đa chiều về những gì tác giả truyền tải.
Phê bình tiểu sử trước năm 1945 rất phát triển ở Việt Nam. Các nhà phê bình
hầu như ai cũng đã hơn một lần sử dụng đến nó. Nhưng đạt đến đỉnh cao thì chỉ có
Trần Thanh Mại với “Hàn Mặc Tử”. Sau 1945, phê bình tiểu sử không còn tồn tại ở
dạng nguyên vẹn nữa. Nó tự đánh vỡ mình thành những mảnh vụn để tồn tại như
một công đoạn trong lòng phê bình xã hội học lúc này đã lên ngôi độc tôn. Phê bình
xã hội học, vì thế, cũng trở nên không thuần nhất. Nó chứa đựng trong lòng nó tất
cả những gì đã tồn tại trước nó: cả phê điểm trung đại, cả phê bình cổ điển, cả phê
bình chủ quan ấn tượng, cả phê bình tiểu sử. Tùy ởmỗi nhà phê bình mà một yếu tố
nào đó kể trên trở thành yếu tố chủ đạo, thành gien trội. Nhưng nhìn chung thì yếu
tố (chứ không phải phương pháp) phê bình tiểu sử thường trội hơn cả. Chả thế mà
nhà văn học nào cũng mở đầu công trình của mình bằng tiểu sử tác giả, nhất là các
12
giáo khoa, giáo trình. Thậm chí còn hình thành hẳn một thể loại sách với nhan đề X
(tên nhà văn) + Con người và sự nghiệp, hoặc X + đời sống và tác phẩm, hoặc X +
Văn và đời…
3. Nhìn nhận về phê bình tiểu sử
a. Tích cực
Lối phê bình theo phê bình tiểu sử đối lập và khắc phục lối phê bình truyền
thống: hoặc thiên về cảm thụ chủ quan, hoặc thiên về “phê bình phù phiếm”, tức
mô tả tỉ mỉ cái khéo trong việc đặt câu dùng chữ, tả người… mang tính chủ quan.
Trước khi phê bình một đối tượng, nhà phê bình phải “có sẵn một hệ thống ý
tưởng” (tức một lí thuyết) để đem lại tính khách quan cho lối phê bình của mình.
Lối phê bình này bước đầu không còn xem văn học là sự mô phỏng mà xem tác
phẩm văn học là một sáng tạo nghệ thuật của cá nhân sáng tạo, đề cao vai trò của
người sáng tác cũng như những ảnh hưởng của tác giả đối với tác phẩm của mình.
“Các nhà viết tiểu sử cho rằng không hiểu sao toàn bộ lịch sử một nhà văn thường
gắn với các tác phẩm của anh ta và còn sự phê bình hời hợt thì không biết nhìn thấy
trong nhà thơ có một con người”.
Phê bình tiểu sử giúp người đọc có sự phê bình công bằng, bình đẳng đối với
tất cả các thế giới nghệ thuật: từ tác giả vĩ đại đến tác giả bình thường, từ tác giả
của khuynh hướng này hay khuynh hướng khác. Vì phương pháp tiểu sử học là sự
tổng hợp độc đáo của tính khách quan và tính lịch sử của quá trình khám phá một
bản chất người.
b. Tiêu cực
Tác phẩm phê bình nhưng yếu tố thuật chuyện lại đậm đặc, lấn át cả yếu tố
phê bình. Có thể thấy rõ điều này ở Trần Thanh Mại. Ông đã phải vượt qua “Trông
dòng sông Vị” (Huế: Trần Thanh Địch xb.1935) viết về Tú Xương, một tác phẩm
mà dung lượng dành cho phê bình và truyện kílà ngang nhau, mới đến được với
“Hàn Mặc Tử”, một tác phẩm được xem là tiêu biểu cho phê bình tiểu sử ở Việt
Nam. Quan niệm tác phẩm văn học như là một sáng tạo phẩm duy nhất của một nhà
văn cụ thể, một hoàn cảnh cụ thể khách quan đã đơn giản hóa tác phẩm văn học.
Tác phẩm văn học không chỉ đơn giản thông qua phỏng vấn trực tiếp để nghe nhà
văn kể về cuộc đời mình mà hiểu được, đó là còn chưa kể đến việc phê bình các tác
phẩm mà tác giả đã đi xa cái thời của chúng ta rất lâu.Đào Duy Anh đã đưa phê
bình tiểu sử lên một tầm vóc mới khi quan niệm phê bình tiểu sử không chỉ dừng
13
lại ở lịch sử cá nhân nhà văn mà còn là lịch sử ngoài nhà văn: lịch sử tác phẩm, lịch
sử văn hóa,… có liên quan và ảnh hưởng đến nhà văn. Tuy nhiên với tinh thần thực
chứng dựa vào các khảo tả, phê bình tiểu sử bị giới hạn trong cái nhìn cơ giới, giản
đơn, hạn chế của một giai đoạn phê bình.
Trước hết, cá nhân nhà văn với tư cách là nhà văn, là người sáng tạo không
thể đồng nhất với con người tiểu sử. Cá nhân là một chủ thể có tính lịch sử mà tâm
lý của nó được hình thành qua những trải nghiệm xã hội, không phải là một bản
tính bẩm sinh, cho nên đối với nó hoàn cảnh lịch sử có ảnh hưởng rất lớn. Từ đó,
nhược điểm chính của phương pháp tiểu sử học là sự giản lược hoá tâm lý của cá
nhân, là xu hướng hoà tan phê bình văn học vào tâm lý học. Trong phê bình tiểu sử,
tâm lý là thứ bất biến, nằm ngoài không gian và thời gian, chi phối sát sườn tác
phẩm. Sự không phân biệt con người xã hội và con người sáng tạo đã khiến nhà
phê bình phải loay hoay với con người xã hội.
Các nhà phê bình tiểu sử quan tâm tới tiểu sử nhà văn thông qua các khảo tả
khách quan để đi đến lí giải, kết luận tác phẩm. Tuy nhiên các bằng chứng cuộc đời
nhà văn đôi khi có tính xác thực nhưng không cùng cách kiến giải, tùy vào mỗi nhà
phê bình mà cách lí giải tư liệu lại có sự khác biệt. Như vậy yếu tố chủ quan trong
đánh giá của nhà phê bình vẫn chưa khắc phục được.
Phê bình tiểu sử đã vô hình trung thu hẹp kích thước của tác phẩm văn
chương. Một tác phẩm bao giờ cũng có hai phần: phần chủ ý của tác giả và phần
không chủ ý được coi như phần chìm của tảng băng trôi. Các yếu tố trong cuộc đời
nhà văn chỉ mang tính chất chỉ dẫn đến tác phẩm, soi sáng tác phẩm ở phần nổi, nó
không thể và không có khả năng lý giải được các phần chìm, và chính phần không
chủ ý này mới thực sự tạo nên một tác phẩm lớn.Một tác phẩm muốn sống ở đời
phải vượt thoát khỏi vật liệu để chuyển sang cấp độ nghệ thuật. Phương pháp tiểu
sử học thường dừng lại ở ngưỡng cửa tác phẩm.
Phê bình tiểu sử chỉ hoạt động khá sôi nổi ở chặng đầu thời kì đổi mới,
nhưng đến những năm gần đây thì có vẻ mờ nhạt, ít nêu được những vấn đề thực sự
đáng chú ý của đời sống văn học. Một số cuộc tranh luận lại rơi vào tình trạng quy
chụp, thậm chí là bôi đen tác phẩm. Nhiều người đã nêu vấn đề đáng báo động về
văn hóa phê bình, về tầm tư tưởng và tri thức của người làm phê bình văn học. Đội
ngũ phê bình tuy không phải là quá ít ỏi, nhưng phần đông lại thiếu tính chuyên
nghiệp và những tài năng phê bình thì thực sự hiếm hoi.
14
Những nhược điểm của phương pháp tiểu sử học khiến nó chỉ tồn tại như
một phương pháp chứ không thể thành một trường phái. Tuy nhiên, từ những
nhược điểm này sẽ xuất hiện những trường phái với tư cách là sự đối lập, điều
chỉnh và bổ sung cho nó, như là trường phái văn hóa lịch sử, cách tiếp cận tâm lý
học, đặc biệt là phân tâm học Freud. Từ đó, chúng ta có thể thấy chúng ta đã sử
dụng lí thuyết phương Tây một cách khá cứng nhắc, như một bộ công cụ, bộ “đồ
nghề”. Điều này dễ dẫn đến tình trạng cực đoan, nguy hiểm trong phê bình và làm
cho phê bình trở thành bãi xử bắn tác phẩm. Vì vậy, làm việc với các hiện tượng
văn học Việt Nam nên ý thức được những giới hạn của mỗi lí thuyết phê bình để
không ngừng sáng tạo và hiện đại trong những bài nghiên cứu.
15
KẾT LUẬN
Sự hiện diện và những tác động của phê bình tiểu sử học trong đời sống văn
học mấy chục năm vừa qua, đặc biệt trong thời kì đổi mới, là điều không thể phủ
nhận. Mặc dù còn có tình trạng phân tán, mâu thuẫn, chưa đáp ứng đòi hỏi của đời
sống văn học, nhưng phê bình tiểu sử học những năm qua đã có nhiều thành tựu
đáng kể, góp phần thúc đẩy sự phát triển của phê bình văn học và tạo được sự
chuyển biến trong ý thức nghệ thuật của công chúng.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Hiệp, Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại (2008), NXB Giáo
dục.
2. />3. />4. />5. />6. />
17
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
TT
HỌ VÀ TÊN
2 Lê Hoàng Diễm
CÔNG VIỆC
- Viết mục 2
%
95%
2 Nguyễn Thị Điệp
- Viết mục 1
85%
3 Trần Thị Hạnh Đoan
- Viết mục 3
- Tổng hợp mục 3
- Viết mục 2
98%
- Viết mục 1
- Tổng hợp mục 1
- Viết mục 3
98%
- Viết mục 3
- Tổng hợp bài
- Thuyết trình
- Viết mục 2
- Tổng hợp mục 2
- Viết mục 2
- Làm powerpoint
- Viết mục 1
- Viết mục 2
- Viết mở đầu
- Viết mục 3
- Viết kết luận
100%
1
2
3
4 Ngô Thị Mỹ Duyên
95%
4
5 Phan Thị Hai
5
6 Nguyễn Thế Hiếu
95%
6
7 Hà Thị Thanh Huyền
7
8 Lê Thị Lan
8
9 Nguyễn Thị Lan
9
10
Nguyễn Thị Lập
1 Nguyễn Thị Nhật Lệ
11
1 Nguyễn Thùy Linh
12
18
98%
98%
90%
98%
98%