Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phân tích vai trò của pháp luật trong quản lý đất nông nghiệp ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.01 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................2
NỘI DUNG..........................................................................................................................................2

I.Khái quát pháp luật về đất nông nghiệp ở nước ta..................................................2
1.Khái niệm về đất nông nghiệp...............................................................................................2
2.Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai.................................................................................3
3.Phân loại đất nông nghiệp.....................................................................................................4

II.Vai trò của pháp luật trong quản lý đất nông nghiệp ở nước ta............................5
1.Pháp luật đã quy định hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai; thống nhất việc
quản lý đất đai ở trung ương và từng địa phương và quy định rõ vai trò của hệ thống các cơ
quan quyền lực nhà nước trong việc quyết định và giám sát tối cao đối với việc quan lý và
sử dụng đất, để tạo cơ sở cho việc tổ chức và thực hiện chế độ quản lý nhà nước về đất đai
nói chung và đất nông nghiệp nói riêng...................................................................................5
2.Pháp luật quy định về hạn mức giao đất nông nghiệp, hình thức giao đất, hình thức cho
thuê đất nông nghiệp, để cơ quan nhà nước thực hiện việc quản lý giao đất, cho thuê đất cho
hộ gia đình, cá nhân sử dụng....................................................................................................7
Thứ nhất, về hạn mức giao đất nông nghiệp:...........................................................................7
3.Pháp luật quy định về thời hạn sử dụng nhóm đất nông nghiệp, để các cơ quan nhà nước
thực hiện việc giao đất ổn định lâu dài hoặc có thời hạn, giúp cho người dân có tâm lý ổn
định, yên tâm trong quá trình sử dụng đất, giúp cho công tác quản lý nhà nước về đất đai
được thực thi tốt hơn...............................................................................................................10
4.Pháp luật quy định về việc cho phép chuyển quyền sử dụng đất và xác lập quyền tài sản
của hộ gia đình, cá nhân thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không đòi
lại đất đai đã giao cho người khác sử dụng khi thực hiện chính sách pháp luật về đất đai qua
các thời kỳ và các chính sách bảo đảm cho các hộ gia đình, cá nhân, tiếp tục sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, làm muối có đất để sản xuất, để các cơ quan nhà nước tổ chức thực thi
tốt hơn.....................................................................................................................................13
5.Pháp luật quy định về việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm về đất đai, để tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện


nhiệm vụ, nhằm bảo đảm pháp luật về đất đai được được chấp hành nghiêm chỉnh, tăng
cường kỷ cương trong công tác quản lý đất đai......................................................................15
5.1. Về thanh tra, kiểm tra......................................................................................................15
5.2. Về khiếu nại, tố cáo.........................................................................................................17
5.3. Về giải quyết tranh chấp..................................................................................................19
5.4. Về xử lý vi phạm.............................................................................................................21

III.Một số kiến nghị nâng cao vai trò của pháp luật trong quản lý đất nông nghiệp
ở nước ta...................................................................................................................... 22
KẾT LUẬN........................................................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................26

1


MỞ ĐẦU
Đất đai là tài sản của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch
sử phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai đóng vai trò
quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai
thì rõ ràng không có bất kỳ một ngànhsản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn
tại của loài người. Đất đai là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá cần được
bảo vệ và quản lý. Đặc biệt, trong ngành sản xuất nông nghiệp đất đai đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Đặc điểm đất đai ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu và phân
phố cuả ngành nông nghiệp. Ở nước ta, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế then chốt
và ảnh hưởng lớn đến khu vực kinh tế nông thôn. Hiện nay, đất nông nghiệp ngày
càng suy giảm nhanh chóng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề an ninh lương
thực quốc gia. Vì vậy, vấn đề sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp là rất cấp bách
và cần thiết.
Với mong muốn góp phần tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những
hạn chế, bất cập trong chính sách pháp luật đất đai liên quan đến đất nông nghiệp,

nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, em đã lựa chọn đề tài: “Phân
tích vai trò của pháp luật trong quản lý đất nông nghiệp ở nước ta ” làm nội dung
nghiên cứu.

NỘI DUNG
I.

Khái quát pháp luật về đất nông nghiệp ở nước ta

1. Khái niệm về đất nông nghiệp
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam thì đất nông nghiệp
thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô, khoai, sắm và
những loại cây được coi là cây lương thực. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng đất
nông nghiệp tương đối phong phú, không chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu
mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nôi trồng thủy sản hay để trồng cây
2


lâu năm.. Trước đây Luật đất đai năm 1993 quy định về đất nông nghiệp tại Điều
42 như sau:“Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản
xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp”. Với quy định của Luật đất đai năm 1993, đất đai của
Việt Nam chia làm sáu loại: Đất nông nghiệp; Đất lâm nghiệp; Đất khu dân cư
nông thôn; Đất đô thị; Đất chuyên dùng; Đất chưa sử dụng. Theo sự phân chia này,
đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được tách riêng thành hai loại riêng. Tuy nhiên, sự
phân loại này dựa theo nhiêu tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng
chủ yếu, vừa chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen,
chông chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn
cho công quản lý đất đai.
Để khắc phục những hạn chế đó, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người

sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật đất đai năm
2013 đã chia đất đai làm ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào
mục đích sử dụng chủ yếu. Trên cơ sở đó, đất đai được chia theo ba phân nhóm:
Nhóm đất nông nghiệp; Nhóm đất phi nông nghiệp; Nhóm đất chưa sử dụng. Như
vậy, Luật đất đai năm 2013 đã mở rộng khái niệm đất nông nghiệp với tên gọi
“Nhóm đất nông nghiệp” thay cho “Đất nông nghiệp” trước đây.
Theo đó, có thể hiểu, đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có đặc tính sử
dụng giống nhau, với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng
rừng, khoanh nuôi tu bổ bảo vệ rừng, nghiên cứu thí nghiệp về nông nghiệp, lâm
nghiệp.
2. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
Hoạt động quản lý đất đai của mỗi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm
phát sinh các quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước và giữa các cơ quan Nhà nước
với người sử dụng đất. Nhà nước ban hành pháp luật để hướng các quan hệ đó được
3


phát triển thống nhất và phù hợp với yêu cầu, lợi ích của Nhà nước. Từ đó, có thể
đưa ra định nghĩa về quản lý Nhà nước đối với đất đai, như sau:
Quản lý Nhà nước đối với đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu Nhà nước về đất đai;
đó là các hoạt động trong việc nắm chắc tình hình sử dụng đất; trong việc phân
phối và phân phối lại vốn đất đai theo quy hoạch; trong việc kiểm tra, giám sát quá
trình sử dụng đất1.
Tuy nhiên, ở khía cạnh pháp lý, có thể đưa ra định nghĩa về quản lý Nhà
nước về đất đai, như sau:
Quản lý nhà nước về đất đai là hoạt động có tổ chức và được điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các hành vi và các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật đất đai để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu toàn dân về đất đai nhằm duy trì

và phát triển các quanhệ đất đai theo trât tự pháp luật quy đinh2.
3. Phân loại đất nông nghiệp
Theo quy định tại Điều 10 Luật đất đai 2013, đất nông nghiệp bao gồm các
loại đất sau đây: (i) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây
hàng năm khác; (ii) Đất trồng cây lâu năm; (iii) Đất rừng sản xuất; (iv) Đất rừng
phòng hộ; (v) Đất rừng đặc dụng; (vi) Đất nuôi trồng thủy sản; (vii) Đất làm muối;
(viii) Đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà
khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp
trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác
được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục
đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng
hoa, cây cảnh.

1

Tập bài giảng của tác giả Nguyễn Hải Ninh,“Quản lý nhà nước về đất đai”
Trịnh Thành Công (2015),“Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Giang”, Luận văn Thạc sĩ Quản
lý kinh tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
2

4


II.

Vai trò của pháp luật trong quản lý đất nông nghiệp ở nước ta

1. Pháp luật đã quy định hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về đất
đai; thống nhất việc quản lý đất đai ở trung ương và từng địa phương và
quy định rõ vai trò của hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước trong

việc quyết định và giám sát tối cao đối với việc quan lý và sử dụng đất,
để tạo cơ sở cho việc tổ chức và thực hiện chế độ quản lý nhà nước về
đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng
Đất đai là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia, nó gắn liền
với chủ quyền của một nhà nước. Nhà nước là đại diện cho chủ quyền quốc gia có
quyền và trách nhiệm thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ đất đai. Đất nông
nghiệp có vị trí quan trọng và được coi là một trong những đảm bảo cho sự ổn định
an toàn cho tồn tại và phát triển của đất nước.
Theo quy định tại Điều 21 Luật đất đai năm 2013 thì Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả
nước; Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp luật
về đất đai tại địa phương và Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền
đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định tại Luật đất đai. Theo đó,
Luật đã thống nhất được vai trò của hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước trong
việc quyết định và giám sát tối cao đối với việc quan lý và sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 23, Điều 24, Điều 25 Luật đất đai năm 2013 thì trách
nhiệm quản lý nhà nước về đất đai (Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất
đai trong phạm vi cả nước; Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước
Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai; Bộ, cơ quan ngang bộ
có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giúp
Chính phủ trong quản lý nhà nước về đất đai; Ủy ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại
Luật đất đai); Cơ quan quản lý đất đai (Hệ thống tổ chức cơ quan quản lý đất đai
được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương; Cơ quan quản lý nhà nước
về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cơ quan quản lý đất đai ở
5


địa phương được thành lập ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ công về đất đai được thành lập

và hoạt động theo quy định của Chính phủ). Theo đó. Luật đã quy định hệ thống
các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai từ trung ương và từng địa phương, để tổ
chức thực hiện thống nhất việc quản lý đất đai ở trung ương và từng địa phương.
Để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nói chung cũng như
sử dụng đất nông nghiệp nói riêng, pháp luật đất đai đã cụ thể hoá bằng việc quy
định trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp và trách nhiệm của cán bộ
địa chính xã, phường, thị trấn như sau: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về quản lý
và sử dụng đất đai tại địa phương.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm chỉ đạo
thường xuyên việc kiểm tra phát hiện các hành vi lấn chiếm đất đai, sử dụng đất
không đúng mục đích, chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, người sử dụng
đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ không đúng với quy định của pháp luật. Trong
thời hạn không quá một ngày kể từ khi phát hiện vi phạm hoặc được báo cáo có vi
phạm phải tổ chức việc kiểm tra, lập biên bản, ra quyết định đình chỉ hành vi vi
phạm, xử phạt hành chính theo thẩm quyền và yêu cầu tự khôi phục lại tình trạng
sử dụng đất ban đầu; nếu người có hành vi vi phạm không chấp hành quyết định
đình chỉ thì ra quyết định cưỡng chế khôi phục lại tình trạng sử dụng đất ban đầu và
báo cáo bằng văn bản lên Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra
tình hình sử dụng đất tại địa phương để phát hiện kịp thời những trường hợp lấn,
chiếm đất đai, không sử dụng đất, sử dụng đất không đúng mục đích, chuyển mục
đích sử dụng đất trái pháp luật, người sử dụng đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ
không đúng với quy định của pháp luật và các trường hợp khác có vi phạm hành
chính trong quản lý và sử đụng đất đai; trong thời hạn không quá một ngày kể từ
6


khi phát hiện sai phạm phải báo cáo bằng văn bản lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi có đất để xử lý đồng gửi Phòng Tài nguyên và Môi trường.

Như vậy, việc quản lý và giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất đã được quy định chặt chẽ và đầy đủ trong pháp luật đất đai. Nhà
nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và sử dụng đất đai. Hoạt
động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan nhà nước và do người sử dụng cụ
thể thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng được phù hợp với yêu cầu và lợi ích
của Nhà nước, Nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát quá trình phân phối và sử
dụng đất. Trong khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện các vi phạm và bất cập trong
phân phối và sử dụng, Nhà nước sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm, bất cập đó.
2. Pháp luật quy định về hạn mức giao đất nông nghiệp, hình thức giao
đất, hình thức cho thuê đất nông nghiệp, để cơ quan nhà nước thực hiện
việc quản lý giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
Thứ nhất, về hạn mức giao đất nông nghiệp:
Theo quy định tại Điều 129 Luật đất đai 2013 thì đất nông nghiệp là đất được
xác định chủ yếu để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm
nghiệp. Nhóm đất nông nghiệp gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu
năm, đất sản xuất, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất
nuôi trồng thủy sản, đất muối, đất trồng có phục vụ chăn nuôi, đất mặn nước để
nuôi trồng thủy sản, đất hợp tác xã giao cho hộ gia đình làm kinh tế gia đình, đất
nông nghiệp khác.
Hạn mức sử dụng nông nghiệp là khoảng thời gian tối đa mà một hộ gia
đình, cá nhân, tổ chức được phép sử dụng một diện tích đất nông nghiệp nhất định
vào mục đích nông nghiệp mà nhà nước giao.
Hạn mức giao đất được quy định nhằm mục đích khống chế diện tịch mà cơ
quan nhà nước có thẩm quyền được phép giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
7


tránh hiện tượng tránh hiện tượng giao đất một cách tuỳ tiện với diện tích lớn, đồng
thời đây cũng là cơ sở pháp lý giới hạn diện tích đất được pháp sử dụng.

Việc quy định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp có tác động tích cực đến đời
sống kinh tế ở nông thôn, nó bảo đảm cho người nông dân có đất đai để sản xuất,
thực hiện được chính sách của Đảng và nhà nước ta là người cày có ruộng; quy
định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã
hội, thậm chí còn mang một số chính trị to lớn: Giải quyết hợp lý chính sách hạn
mức, chúng ta vừa thúc đẩy được kinh tế nông thôn phát triển vừa bảo đảm được ổn
định xã hội; việc quy định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm bảo sử
dụng đất đai có hiệu quả, phục vụ tốt các mục tiêu, kinh tế, xã hội do nhà nước đề
ra; quy định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo cho người làm nông
nghiệp có đất để sản xuất và nhằm khắc phục tình trạng chuyển đổi đất nông
nghiệp, sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp; việc quy định hạn mức sử
dụng đất nông nghiệp còn xuất phát từ những nguyên nhân như tình trạng dư thừa
lao động trong nông nghiệp ở nông thôn, môi trường quan giữa ruộng đất - dân số lao động trở nên hết sức căng thẳng. Đa số nông dân, thu nhập của họ chỉ đủ trang
trải cho những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, không có khả năng đầu tư thêm cho
sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn và cũng không có khả năng đầu tư vào các
lĩnh vực khác, bởi vậy việc áp dụng chính sách này là cần thiết.
Bên cạnh đó là việc quy định hạn mức sử dụng đất và việc phát triển kinh tế
trang trại thì hiện nay nhà nước ta khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Việc
quy định hạn mức sử dụng đất không có hạn chế đối với chủ trương khuyến khích
phát triển kinh tế trang trại vì việc quy định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp là rất
cần thiết nhằm mục khai thác có hiệu quả đất đai để phát triển, sản xuất, mở rộng
quy mô và nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, làm muối gắn với dịch vụ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp. Việc quy định hạn mức sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo cho việc sử dụng
8


đất tiết kiệm, hợp lý theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp do
nhà nước đề ra.
Thứ hai, về hình thức giao đất nông nghiệp:

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 Luật đất đai năm 2013 thì
Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp: (i) hộ gia đình,
cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối
được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định tại Điều 129 của Luật này; (ii)
người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự
nhiên, đất xây dựng trụ sở cơ quan, đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
đất sử dụng vào mục đích công cộng không nhằm mục đích kinh doanh; đất làm
nghĩa trang, nghĩa địa không thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 55 của
Luật này. Theo đó, đối với đất nông nghiệp nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, làm muối; người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất
là rừng tự nhiên.
Thứ ba, về hình thức cho thuê đất:
Theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 56 Luật đất đai năm 2013 thì Nhà
nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê trong các trường hợp: (i) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; (ii) Hộ gia đình, cá
nhân có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức được giao quy
định tại Điều 129 của Luật này. Theo đó, đối với đất nông nghiệp nhà nước cho
thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tiếp
tục sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức được giao.

9


3. Pháp luật quy định về thời hạn sử dụng nhóm đất nông nghiệp, để các
cơ quan nhà nước thực hiện việc giao đất ổn định lâu dài hoặc có thời
hạn, giúp cho người dân có tâm lý ổn định, yên tâm trong quá trình sử
dụng đất, giúp cho công tác quản lý nhà nước về đất đai được thực thi

tốt hơn
Việc quy định thời hạn sử dụng đất nói chung, đặc biệt là thời hạn sử dụng
đối với nhóm đất nông nghiệp nói riêng là việc làm cần thiết bởi những lý do sau:
Thứ nhất, việc quy định này nhằm khẳng định rõ ranh giới giữa Nhà nước
(với tư cách là chủ sở hữu đại diện đối với đất đai) và người sử dụng đất (với tư
cách là người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất). Nhà nước giao đất ổn định
lâu dài hoặc có thời hạn chứ không giao vĩnh viễn. Việc giao đất có thời hạn sẽ giúp
cho công tác quản lý nhà nước về đất đai được thực thi tốt hơn.
Thứ hai, việc quy định rõ thời hạn khi giao đất,cho thuê đất giúp cho người
dân có tâm lý ổn định,yên tâm trong quá trình sử dụng đất tạo điều kiện cho họ có
thể lập kế hoạch đầu tư đúng đắn,thâm canh tăng vụ,khái thác đất hợp lý,nâng cao
hiệu quả sử dụng đất.
Thứ ba, với thời hạn đủ dài cho việc sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được cấp hộ nhân dân sẽ có cơ hội vay vốn trung hạn,dài hạn của tổ
chức tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, người sử đụng dất, dù có là tổ chức kinh tế ở trong nước, nhà
đầu tư nước ngoài hay hộ gia đình,cá nhân,người Việt Nam định cư ở nước ngoài
đều được Nhà nước bảo hộ quyền được gia hạn sử dụng đất hoặc tiếp tục được giao
đất,cho thuê đất nếu chấp hành đầy đủ trách nhiệm của người sử dụng đất có năng
lực và nhu cầu sử dụng đất đai.
Điều đó có nghĩa là Nhà nước không chỉ bảo đảm quyền lợi cho người sử
dụng đất trong thời hạn sử dụng đất mà còn bảo hộ quyền lợi cho họ sau khi thời
hạn kết thúc để người sử dụng đất càng yên tâm sản xuất.
“Điều 126. Đất sử dụng có thời hạn
10


1. Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1, khoản
2, điểm b khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 129 của Luật này là 50 năm. Khi hết

thời hạn, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nếu có nhu cầu thì
được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản này.
2. Thời hạn cho thuê đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân không
quá 50 năm. Khi hết thời hạn thuê đất, hộ gia đình, cá nhân nếu có nhu cầu thì
được Nhà nước xem xét tiếp tục cho thuê đất.
3. Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức để sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ, làm cơ sở sản xuất phi
nông nghiệp; tổ chức để thực hiện các dự án đầu tư; người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các dự án đầu tư
tại Việt Nam được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu tư hoặc đơn xin giao
đất, thuê đất nhưng không quá 50 năm.
Đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất
không quá 70 năm.
Đối với dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê
hoặc để cho thuê mua thì thời hạn giao đất cho chủ đầu tư được xác định theo thời
hạn của dự án; người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất được sử dụng đất
ổn định lâu dài.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được
Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn quy định tại
khoản này…
11


5. Thời hạn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích của xã, phường, thị trấn là không quá 05 năm.”
“Điều 127. Thời hạn sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất
1. Thời hạn sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân khi chuyển mục đích sử

dụng đất được quy định như sau:
a) Trường hợp chuyển đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng sang sử dụng
vào mục đích khác thì thời hạn được xác định theo thời hạn của loại đất sau khi
được chuyển mục đích sử dụng. Thời hạn sử dụng đất được tính từ thời điểm có
quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
b) Trường hợp chuyển đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm khác, đất trồng
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối sang trồng
rừng phòng hộ, trồng rừng đặc dụng thì hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất ổn
định lâu dài;
c) Trường hợp chuyển mục đích sử dụng giữa các loại đất bao gồm đất trồng
cây hàng năm khác, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy
sản, đất làm muối thì hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất
đó theo thời hạn đã được giao, cho thuê.
Khi hết thời hạn, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được Nhà nước xem xét
gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 126 của
Luật này nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng”.

12


4. Pháp luật quy định về việc cho phép chuyển quyền sử dụng đất và xác
lập quyền tài sản của hộ gia đình, cá nhân thông qua việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, không đòi lại đất đai đã giao cho người
khác sử dụng khi thực hiện chính sách pháp luật về đất đai qua các thời
kỳ và các chính sách bảo đảm cho các hộ gia đình, cá nhân, tiếp tục sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối có đất để sản xuất, để các cơ
quan nhà nước tổ chức thực thi tốt hơn
Pháp luật đất đai hiện hành thể hiện xu hướng ngày càng mở rộng về quyền
của người sử dụng đất; trình tự, thủ tục thực hiện quyền của người sử dụng đất
được quy định chuyển dần từ cơ chế hành chính sang cơ chế dân sự. Pháp luật cũng

xác lập quyền tài sản của hộ gia đình, cá nhân thông qua việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bao gồm cả đất nông nghiệp. Tại Điều 166, Điều 108 Luật Đất
đai năm 2013 quy định người sử dụng đất có các quyền sau: được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng
các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được
Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; được
Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của
mình; được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật; khiếu
nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của
mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.
Pháp luật đất đai cũng đã tạo hành lang pháp lý cho việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nông nghiệp, góp phần chuyển quỹ đất nông nghiệp cho người
thực sự có nhu cầu sử dụng, hình thành thị trường quyền sử đất nông nghiệp. Các
quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp giúp bảo đảm
cho người nông dân có đất sản xuất, tuy nhiên nó có mặt hạn chế là ngăn cản quá
trình tích tụ ruộng đất để sản xuất tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá.
Tại khoản 5 Điều 26 Luật đất đai 2013 có quy định:“Nhà nước không thừa
nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của nhà nước cho người khác sử
dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ
13


cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Nhìn lại lịch sử từ tháng Tám năm 1945 đến năm 1993 đất đai nước ta đã qua
nhiều lần biến động; trong đó có những lần thay đổi gắn liền với biến động lịch sử.
Đơn cử như đất nông nghiệp sau cách mạnh tháng Tám giai đoạn từ 1953 đến 1955
ở miền Bắc thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức chia lại ruộng đất cho nông dân
nghèo không có đất sản xuất, đất ở. Theo đó nhà nước đã thu một phần đất sản
xuất, đất ở của đối tượng địa chủ, phú hào, tư sản để chia lại cho nông dân. Tiếp đó

đến giai đoạn 1959-1961 tiếp tục thực hiện xây dựng hợp tác xã (HTX) sản xuất tập
trung . Giai đoạn này toàn bộ đất sản xuất nông nghiệp được nhập vào HTX thành
tài sản sử dụng chung của tập thể là các HTX nhỏ theo thôn, xóm đất đai là của các
hộ đã có do ông cha để lại, tự mua bán, sang nhượng, đất do nhà nước chia cho
trong thời kỳ giảm tô... Đến năm 1977 lại hợp nhất nhiều HTX nhỏ thành HTX lớn.
Trải qua suốt thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc, chống Mỹ cứu nước đến năm
1981, 1988 đất nông nghiệp bắt đầu được xé nhỏ giao cho hộ, nhóm hộ sản xuất tập
thể quản lý sử dụng; đến năm 1993 chính thức giao ổn định thời hạn 20 năm đến hộ
(Nghị định 64 của Chính phủ) .Theo đó tất cả những khẩu đang sinh sống, có mặt
tại xã từ tháng 10-1994 về trước đều được giao một suất đất cơ bản phục vụ sản
xuất nông nghiệp lấy từ 80% đất nông nghiệp của địa phương; còn lại 20% (qũy đất
2) do chính quyền cấp xã quản lý giao thầu, khoán, bổ sung đất sản xuất cho khẩu
mới phát sinh sau tháng 10-1993… Như vậy, đến nay đất nông nghiệp ở địa
phương có hai loại là: Giao khoán đến hộ và do UBND xã quản lý. Như vậy trong
quá trình sử dụng đất nông nghiệp ở địa phương đã qua nhiều chính sách quản lý,
không kể biến động do thu hồi phục vụ yêu cầu xây dựng hạ tầng, chuyển sang mục
đích khác, điều chuyển sang địa phương khác do điều chỉnh địa giới hành chính…
Trong bối cảnh như vậy nếu không khẳng định “Không thừa nhận việc đòi lại đất
đã giao” thì rất phức tạp vì một số người vẫn còn tư tưởng “đất ông cha”, “đất
14


của địa phương tôi”. Ngay giai đoạn 2000-2004 khi thành lập lại các HTX nông
nghiệp theo Luật đã xuất hiện một số ít cá nhân kiến nghị chia tách HTX nông
nghiệp phải chia lại đất theo ranh giới, diện tích như trước năm 1977. Đặc biệt thời
gian qua nhiều diện tích đất sau khi thu hồi để xây dựng hạ tầng, chuyển mục đích
sử dụng do tác động địa thế, chênh lệch địa tô hiện nay mang lại so với thời điểm
khi thu hồi giao đất là rất lớn, có nơi lên tới hàng trăm, hàng nghìn lần. Một m2 đất
nông nghiệp khi thu hồi có thể chỉ từ vài chục đến vài trăm ngàn đồng, nhưng nay
tại vị trí đó có thể lên tới hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu đồng, như vậy nếu

không ổn định, sẽ có nhiều người, nhiều nơi sẽ đặt vấn đề đòi lại rất phức tạp.
5. Pháp luật quy định về việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về đất đai, để tạo cơ sở pháp lý cho
các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện nhiệm vụ, nhằm bảo đảm pháp
luật về đất đai được được chấp hành nghiêm chỉnh, tăng cường kỷ
cương trong công tác quản lý đất đai
5.1. Về thanh tra, kiểm tra
Theo Đại từ điển tiếng Việt:“Thanh tra là việc điều tra,xem xét để làm rõ sự
việc; Kiểm tra là việc xem xét tình trình thực tế để đánh giá,nhận xét".
Từ khái niệm chung về thanh tra và kiểm tra trong từ điển, chúng ta có thể
suy ra: “Thanh tra đất đai và kiến nghị biện pháp xử lý; Kiểm tra đất đai là việc
xem xét tình hình thực tế về quản lý,sử dụng đất đai để đánh giá,nhận xét”.
Theo quy định tại Điều 201 Luật đất đai năm 2013 thì thanh tra đất đai là
thanh tra nhà nước theo chuyên ngành về đất đai. Bộ Tài nguyên và Môi trường
chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thanh tra đất đai trong cả nước. Cơ
quan quản lý đất đai ở địa phương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện thanh tra đất
đai tại địa phương.
Như vậy, ngoài hệ thống thanh tra nhà nước theo cấp hành chính từ Chính
phủ xuống đến cấp tỉnh, cấp huyện để thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy
định của pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng còn có hệ thống
15


thanh tra chuyên ngành về đất đai là Vụ Thanh tra thuộc Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Phòng Thanh tra thuộc các Sở Tài nguyên và Môi trường chuyên làm
nhiệm vụ thanh tra về lĩnh vực tài nguyên môi trường mà một phần chính là thanh
tra về đất đai.
Đồng thời, Luật Đất đai 2013 cũng quy định rõ trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức
thực hiện thanh tra đất đai trong cả nước là thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường;
trách nhiệm tổ chức, thực hiện thanh tra đất đai ở địa phương là cơ quan quản lý đất

đai. Tuy nhiên, việc xử lý các vi phạm cụ thể về đất đai thì do Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh và cấp huyện quyết định dựa trên cơ sở kết quả của thanh tra.
Luật thanh tra quy định nguyên tắc của hoạt động thanh tra nói chung và
thanh tra đất đai nói riêng là phải tuân theo pháp luật; đảm bảo chính xác, khách
quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt động bình
thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
Hoạt động thanh tra đất đai nhằm mục đích phòng ngừa, phát hiện và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật đất đai; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng đất.
Các vi phạm phát hiện khi thanh tra, kiểm tra như: Chuyển đất trồng lúa sang
đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối;
Chuyển đất trồng cây hàng năm khác sang đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, đất
làm muối, đất nuôi trồng thủy sản dưới hình thức ao, hồ, đầm; Chuyển đất rừng đặc
dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang sử dụng vào mục đích khác trong
nhóm đất nông nghiệp; Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;…

16


Luật đất đai quy định nhiệm vụ của thanh tra đất đai là thanh tra việc chấp
hành pháp luật của cơ quan Nhà nước, người sử dụng đất trong việc quản lý và sử
dụng đất đai; đồng thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai.
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ, thanh tra đất đai phải tiến hành
thanh tra việc quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân các cấp; thanh tra
việc chấp hành pháp luật về đất đai của người sử dụng đất và của tổ chức, cá nhân
khác.

5.2. Về khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận: "Công dân có quyền
khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
được quy định cụ thể hơn trong Luật Khiếu nại - tố cáo.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật quy định là cơ sở pháp
lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời cũng qua
đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước. Việc giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình chính trị xã
hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và đã ban hành
nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản pháp luật quy định về vấn đề này, trong đó có,
Luật Khiếu nại, Luật tố cáo. Như vậy, với việc ban hành các văn bản pháp luật nêu
trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực
17


hiện việc khiếu nại, tố cáo; làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc giải quyết khiếu tố.
Khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong
xã hội; đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực
hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì tranh chấp
đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất
phức tạp về mặt nội dung. Tuy nhiên, tranh chấp đất đai kéo dài với số lượng ngày
càng đông người dân tham gia thì lại là vấn đề rất đáng quan tâm tìm hiểu nguyên
nhân nảy sinh để đề ra các biện pháp giải quyết phù hợp nhằm “tháo ngòi nổ”

xung đột không để phát sinh trở thành “điểm nóng” gây mất ổn định chính trị, tình
hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp của tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài
không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế, từ hệ quả của sự
quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ của
hệ thống chính sách, pháp luật đất đai…mà còn do những nguyên nhân có tính lịch
sử trong quản lý và sử dụng đất đai qua các thời kỳ. Việc nghiên cứu, tìm hiểu tranh
chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài dưới khía cạnh những nguyên nhân có tính lịch
sử là rất cần thiết không những giúp Nhà nước trong nỗ lực xác lập cơ chế giải
quyết tranh chấp đất đai một cách có hiệu quả mà còn góp phần vào việc bổ sung,
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Một số khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
như khiếu nại về hạn mức giao đất nông nghiệp; thời hạn giao và cho thuê,…
Như vậy, pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo đã quy định rõ về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà
nhước thực hiện tốt việc quản lý về đất đai.

18


5.3. Về giải quyết tranh chấp
Trước hết, dù theo trình tự tố tụng tại Tòa án hay trình tự giải quyết tại cơ
quan hành chính thì thủ tục hòa giải tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã vẫn là bắt
buộc. Tuy nhiên, Luật đất đai 2013 còn có quy định khuyến khích các bên tranh
chấp đất đai (TCĐĐ) tự hòa giải hoặc giải quyết TCĐĐ thông qua hòa giải ở cơ sở,
nếu không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để
hòa giải.
Theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 88 của Nghị
định số 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai 2013, Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải TCĐĐ

tại địa phương mình với thành phần Hội đồng hòa giải cấp xã gồm: Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã,
phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối
với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã,
phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó;
công chức địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã), công chức Tư
pháp - Hộ tịch xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại
diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh…
Thủ tục hòa giải TCĐĐ tại UBND cấp xã được thực hiện trong thời hạn
không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết. Việc hòa giải
phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành
hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các
bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp. Trường hợp hòa giải
thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã
gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp
19


TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài
nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác để trình UBND cùng cấp quyết
định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Giải quyết TCĐĐ theo trình tự tố tụng (dân sự): việc giải quyết TCĐĐ tại
Tòa án được thực hiện theo quy định chung tại Bộ luật tố tụng dân sự. Theo đó, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp
để khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi có bất động sản đó).
Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có
thẩm quyền, thực hiện việc tạm ứng án phí và hoàn chỉnh hồ sơ, đơn khởi kiện theo

yêu cầu của Tòa án. Khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án, sẽ tiến hành hòa giải để
các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Khác với hoạt động hòa
giải trước khi khởi kiện, đây là giai đoạn bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự do chính Tòa án chủ trì và tiến hành. Nếu hòa giải thành thì Tòa án sẽ lập
biên bản hòa giải thành, hết 07 ngày mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì
tranh chấp chính thức kết thúc. Nếu hòa giải không thành thì Tòa án quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Ngay trong quá trình xét xử, các đương sự vẫn có thể thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án. Nếu không đồng ý các bên vẫn có quyền kháng
cáo theo trình tự phúc thẩm.
Giải quyết TCĐĐ theo trình tự hành chính: trình tự này sẽ được áp dụng
đối với những tranh chấp mà các đương sự không có giấy tờ chứng minh quyền sử
dụng đất theo quy định và lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND. Đối với
TCĐĐ giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì khiếu nại đến chủ
thể có thẩm quyền giải quyết là Chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu một bên hoặc các
bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có quyền khiếu
nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
20


Ngoài ra, Luật cũng có quy định nếu đương sự không đồng ý với quyết định
giải quyết tranh chấp lần đầu thì vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo
quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi
cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội trong việc lựa chọn phương thức bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm bảo tính khách quan trong quá trình
giải quyết TCĐĐ.
5.4. Về xử lý vi phạm
Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai có thể bị xử lý hành chính
theo quy định tại Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Theo quy định tại Điều 206 Luật Đất đai 2013 quy định về xử lý hành vi vi
phạm pháp luật về đất đai:
“Điều 206. Xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai
1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
2. Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà
nước, cho người khác, ngoài việc bị xử lý theo quy định của pháp luật còn phải bồi
thường theo mức thiệt hại thực tế cho Nhà nước hoặc cho người bị thiệt hại”.
Như vậy, việc áp dụng trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự được
xác định dựa trên tính chất và mức độ vi phạm.
Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà
nước, cho người khác, ngoài việc bị xử lý theo quy định của pháp luật còn phải bồi
thường theo mức thiệt hại thực tế cho Nhà nước hoặc cho người bị thiệt hại.
21


Theo đó, đối với hành vi sử dụng đất không đúng mục đích thì bạn có thể bị
xử phạt vi phạm hành chính.
III.

Một số kiến nghị nâng cao vai trò của pháp luật trong quản lý đất
nông nghiệp ở nước ta

Những phân tích trên đây đã cho thấy vai trò quan trọng của pháp luật trong
việc quản lý đất đai nói chung, ĐNN nói riêng. Các quy định pháp luật đã có sự
thay đổi theo từng giai đoạn, cơ bản đáp ứng được yêu cầu thực tế về quản lý, sử
dụng ĐNN. Tuy nhiên, quá trình thực thi pháp luật trong thời gian qua đã cho thấy
quy định pháp luật về quản lý ĐNN hiện nay còn bộc lộ một số bất cập khiến việc
khai thác, sử dụng loại đất này chưa đạt hiệu quả cao cần được sửa đổi, bổ sung cho

phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về thời hạn giao đất, cho thuê ĐNN. Luật Đất đai năm 2013 đã
mở rộng thời hạn giao, cho thuê ĐNN từ 20 năm lên 50 năm, trong một số trường
hợp đặc biệt có thể giao, cho thuê ĐNN đến 70 năm. Tuy nhiên, việc ghi nhận sử
dụng đất có thời hạn dẫn đến tâm lý người được giao, thuê hiểu rằng đất đó không
phải là của mình và hết thời hạn đó, họ có nguy cơ bị thu hồi trở lại hoặc bị giao
cho người khác. Điều này khiến người sử dụng đất có thể sẽ không dám đầu tư hết
mình để thúc đẩy kinh tế phát triển hoặc có thể có những trường hợp đầu tư hết
mình để phát triển kinh tế, nhưng lại gặp rủi ro là bị nhà nước thu hồi gây nên
những tiêu cực xã hội. Đầu tư cho nông nghiệp là một loại đầu tư có chu kỳ dài nếu
muốn đầu tư đó mang lại năng suất và sản lượng rất cao.
Thứ hai, về hạn mức giao đất, nhận chuyển nhượng ĐNN. Việc quy định
hạn mức giao ĐNN có thể ảnh hưởng đến quá trình phát triển và hội nhập bởi thực
tiễn cho thấy, không phải cá nhân, hộ gia đình nào ở nông thôn cũng trực tiếp sản
xuất nông nghiệp và không phải cá nhân, hộ gia đình nào trực tiếp sản xuất nông
nghiệp cũng mặn mà, gắn bó, mong muốn phát triển hết mình trên diện tích ĐNN
mình được giao. Bên cạnh đó, quy định về nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
22


ĐNN cũng bị hạn chế. Sở dĩ, Luật quy định về hạn mức giao, nhận chuyển nhượng
ĐNN nhằm tạo quỹ đất để đa số người dân được tham gia vào quan hệ sử dụng
ĐNN, đồng thời quy định này còn nhằm tránh tạo ra những lớp địa chủ, cường hào
mới. Tuy nhiên, bối cảnh hội nhập của thế kỷ XXI đã khác quá xa thời phong kiến,
hiện nay với các quy định pháp lý quốc tế và trong nước khá chặt chẽ, tiến bộ từ
pháp luật doanh nghiệp, pháp luật lao động cho đến pháp luật đất đai được hình
thành trên cơ sở bảo đảm quyền con người, quyền công dân thì lo ngại về lớp địa
chủ cường hào này là không có cơ sở, thậm chí việc quy định hạn mức này còn cản
trở sự phát triển đất nước cũng như không đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế.
Do vậy, không nên giao ĐNN theo kiểu bình quân chủ nghĩa mà cần dựa trên năng

lực, hiệu quả của hoạt động sản xuất nông nghiệp của các chủ thể để quyết định
giao, cho nhận chuyển nhượng ĐNN góp phần thúc đẩy hội nhập và phát triển kinh
tế bền vững.
Thứ ba, quy định về chuyển đổi quyền sử dụng ĐNN. Thực tiễn sử dụng
ĐNN cho thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ phân mảnh ĐNN
cao nhất thế giới. Sự phân mảnh dẫn đến tình trạng lãng phí đất đai được sử dụng
làm ranh giới, bờ bao. Con số này không dưới 4% diện tích canh tác 3. Hơn nữa,
phân mảnh quá nhiều dẫn tới khó khăn cho quá trình canh tác, sản xuất nông
nghiệp, không thể tiến hành sản xuất lớn theo hướng hàng hóa. Nhà nước đã đưa ra
chủ trương “dồn điền đổi thửa” và cơ sở của nó chính là quyền được chuyển đổi
ĐNN trong pháp luật đất đai. Mặc dù đây là chủ trương đúng, nhưng thực tiễn triển
khai tại các địa phương không hề dễ dàng, có những địa phương thực hiện được, có
những địa phương lại không thể thực hiện được do mâu thuẫn về lợi ích, do nghi kỵ
giữa người dân với cấp chính quyền cơ sở,… Hơn nữa, phạm vi chuyển đổi ĐNN
được giới hạn trong phạm vi cùng một xã, ảnh hưởng đến quá trình phát trền nền
nông nghiệp hàng hóa với quy mô rộng hớn hơn. Do vậy, cần mở rộng phạm vi
3

Nguồn: truy cập ngày
09/10/2017

23


chuyển đổi ĐNN ra phạm vi ngoài một xã. Đồng thời, phải có cơ chế pháp lý rõ
ràng trên cơ sở hài hòa hóa lợi ích giữa các chủ thể để việc thực hiện dồn điền đổi
thửa được hiệu quả hơn.
Thứ tư, về cho phép chuyển mục đích sử dụng ĐNN. Theo pháp luật đất đai,
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, nên Nhà nước có quyền thay
mặt nhân dân thực hiện quyền giao đất, cho thuê đất, quy định về mục đích sử dụng

đất cũng như cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy,
việc chuyển mục đích sử dụng ĐNN cũng không đơn giản vì phải phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Ví dụ: Nếu khu vực đất đã được
quy hoạch sử dụng đất cho mục đích trồng lúa mà người sử dụng đất muốn xin
chuyển sang đất ở thì rất khó khăn. Vấn đề là không phải đất nào thực hiện đúng
quy hoạch cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao, trong khi đó thực tiễn khác lại cho
thấy nhiều trường hợp sử dụng ĐNN không đúng quy hoạch lại thu được lợi ích
kinh tế, cải thiện được đời sống gia đình. Do vậy, cần phải minh định rõ giữa thay
đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp với chuyển mục đích sử dụng đất để vừa đáp ứng
được mục tiêu quản lý đất đai vừa thúc đẩy được người dân tự do sáng tạo, làm
giàu ngay trên mảnh đất của mình. Đồng thời, Chính phủ cần có hướng dẫn cụ thể
hơn về vấn đề này và tập huấn cho cán bộ quản lý đất đai ở cơ sở cũng như tuyên
truyền người dân nắm rõ được các quy định.
Ngoài ra, để bảo đảm an ninh lương thực, việc ưu tiên bảo vệ và phát triển
quỹ đất trồng lúa được quy định khá chặt chẽ về điều kiện chuyển đất trồng lúa
sang đất khác. Chính sách này đã giúp Việt Nam từ nước thiếu lương thực vươn lên
là quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai thế giới. Tuy nhiên đến nay, chúng ta
cần phải nghiêm túc xem xét lại chính sách này, bởi mặc dù xuất khẩu lúa gạo lớn,
nhưng đời sống của người nông dân còn rất nhiều khó khăn. Không chỉ vậy, vài
năm trở lại đây, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, khô hạn,
bão, lũ, nước biển dâng, xâm nhập mặn,… việc sản xuất lúa gạo ngày càng khó
24


thực hiện. Do vậy, hoàn thiện chính sách pháp luât về ĐNN cho phép chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp linh hoạt trên cơ sở ngoài yếu tố tự
nhiên, mùa vụ thì hiệu quả sản xuất đóng vai trò quan trọng.
Thứ năm, cần đổi mới chính sách tài chính về đất đai theo hướng thu hẹp
khoảng cách về giá đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp trong quá trình công
nghiệp hoá và đô thị hoá. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp của hộ nông dân để

xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu dịch vụ cao cấp, đô thị hoá, xây dựng
kết cấu hạ tầng cần thực hiện theo cách thức: Xoá bỏ cơ chế 2 giá, thực hiện 1 giá
đất khi thu hồi đền bù theo giá thị trường. Cách thức giải quyết cụ thể là: Giá cả đất
đai theo giá thị trường; nông dân có quyền tham gia thương thảo giá đất nông
nghiệp thu hồi; cho thuê đất, nông dân có quyền được hưởng tỷ lệ từ tiền thuê đất
hằng năm4.

KẾT LUẬN
Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đóng vai trò quyết định sự
tồn tại và phát triển của sinh vật và loài người trên trái đất. Đất đai tham gia vào tất
cả các hoạt động kinh tế xã hội, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay
thế trong nông nghiệp, là yếu tố quan trọng nhất cấu thành bất động sản và thị
trường bất động sản. Đất đai còn là một trong những bộ phận lãnh thổ của mỗi
quốc gia. Đất nông nghiệp là một thành phần cấu tạo nên quỹ đất nên phải có
những giải pháp hợp lý trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp
là đất để canh tác và những mảnh đất nay có điều kiện thuận lợi. Đất nông nghiệp
có rất ít nên vấn đề cần cải tạo và quản lý đất nhà nước là vấn đề cấp thiết.

4

Tham khảo: cập ngày 09/10/2017

25


×