ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TIỂU THUYẾT PHỨC ĐIỆU (ĐA THANH)
QUA MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA ĐỐTXTÔIÉPXKI
- Tiểu thuyết “đa thanh” (hay còn gọi là “đa giọng”, “đa thoại”, “phức điệu”) thực chất là
một lối nói hình ảnh chỉ một quan niệm nghệ thuật mới, một cách miêu tả mới về con
người. Chữ “thanh” đây không phải là âm thanh, mà là một tiếng nói, một lập trường, một
quan điểm.
- Theo Bakhtin, trước Đốtxtôiépxki và khác với nhà văn này, tiểu thuyết chủ yếu phát
triển trong quan niệm “độc thoại”. Đó là loại tự sự trong đó chỉ có tác giả là người duy
nhất có ý thức, biết suy nghĩ và đánh giá mọi sự việc, là vị chúa tể nắm hết mọi bí mật của
cuộc đời. Còn nhân vật thì chỉ là đối tượng câm lặng cho sự phẩm bình, nhận xét ấy. Tác
giả nhận định con người cũng như nhận định cái cây, đồ vật.
- Đốtxtôiépxki không đoạn tuyệt hẳn với lối tư duy “độc thoại”, nhưng về căn bản ông
sáng tạo một thế giới nghệ thuật khác. Nhân vật của ông chủ yếu được miêu tả như một
sự tự ý thức, một dòng tư tưởng, một giọng điệu độc lập, không hòa nhập với các
giọng khác. Dĩ nhiên là nhân vật trong tiểu thuyết “độc thoại” cũng biết tự ý thức và suy
nghĩ, nhưng đằng này sự tự ý thức trở thành nét chủ đạo, nó không chỉ là đặc điểm của
tính cách mà còn là yếu tố thực hiện chức năng miêu tả : những gì thuộc về nhân vật và
thế giới xung quanh nó được đề xuất qua nhận xét của người trần thuật “độc thoại” thì
Đốtxtôiépxki đều chuyển qua phạm vi ý thức của nhân vật. Y biết được tình trạng, hoàn
cảnh và ý nghĩ mình, y cũng biết hoặc đoán ra các nhận xét của người khác đối với y
- Theo Đốtxtôiépxki, trong con người bao giờ cũng có một cái gì mà chỉ có chính nó là
có thể phát hiện trong hành vi tự ý thức, mọi xác định từ bên ngoài ráp vào đều
không phù hợp.
- Châm ngôn sáng tác của Đốtxtôiépxki là “tìm ra con người trong con người”, “phát hiện
mọi chiều sâu tâm hồn của nó”. Nhưng không thể quan sát, phân tích, xác định các ý thức
người khác như là các đồ vật vô tri. Cách duy nhất là đối thoại với chúng. Suy nghĩ về
nhân vật đối với Đốtxtôiépxki có ý nghĩa là đối thoại với chúng, gợi cho chúng tự ý thức
hết mình. Nhà văn giải phóng tối đa cho sự tự ý thức và ngôn từ nhân vật, thu hẹp sự nhận
xét, cắt nghĩa từ phía người trần thuật.
- Người trần thuật cũng tránh đưa ra những nhận định hoàn hảo có tính chất tổng kết,
xong xuôi về nhân vật.
- Để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình, Đốtxtôiépxki đã sử dụng một hệ thống tình tiết,
kết cấu và ngôn ngữ độc đáo, phù hợp, có truyền thống lâu đời. Để bộc lộ “con người
trong con người”, ông thường sử dụng tình tiết phiêu lưu, những giấc mơ, những trạng
thái tâm thần khác thường, vì trong các trường hợp ấy con người không thể sống với
những gì ổn định bề ngoài, mà là sống với bản chất bên trong. Con người với những biến
động bất ngờ thường xuất hiện nơi không gian “ngưỡng cửa”, nằm trên ranh giới giữa bên
trong và bên ngoài như cửa ra vào, hành lang, cầu thang, phòng ngoài,… Phòng của
Raxkônnikốp cửa không bao giờ đóng, thông ra quảng trường, đường phố. Thời gian tình
tiết thường là thời gian khủng hoảng trong cơn bế tắc như trước khi chết, trước và sau vụ
sát nhân hay một lựa chọn rung động toàn nhân cách. Đó là thời điểm con người không
thể sống yên ổn. Thêm vào đó không khí đầy những nghi kỵ, khiêu khích, kích động, cãi
vã, lăng nhục,… càng thúc đẩy thêm quá trình tự ý thức, khêu gợi nhu cầu suy nghĩ, thổ
lộ, biện bạch, đối thoại.
- Tiểu thuyết “đa thanh” mở ra một khả năng mới để thể hiện tư tưởng.
- Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Đốtxtôiépxki không thể được hiểu đúng theo tiêu chuẩn
cá thể hoá thông thường. Tính biểu hiện của nó gắn liền với cấu trúc “đa thanh” của nhân
vật. Nhân vật ở đây luôn cảm thấy áp lực của ý thức và lời nói người khác hướng vào
mình. Y phải né tránh, phân trần, biện bạch, đánh trống lảng. Đối đáp bên ngoài thường là
kích thích cho đối thoại thầm kín với người khác. Đặc điểm này làm cho ngôn ngữ nhân
vật như xoắn lấy người nghe, người đọc, bám riết lấy họ không chịu buông tha với những
lời sống động đầy xót xa, phẫn uất, băn khoăn, lo lắng. Ngôn ngữ “đa thanh” đòi hỏi sử
dụng các phương tiện biểu hiện khác so với ngôn ngữ “đơn thanh”.
Nguồn: Trần Đình Sử: m. bakhtin và những vấn đề thi pháp dostoievski của ông. Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, số 10, 1985, chỉnh lại đôi chỗ năm 2014.
1. Đêvuskin trong tiểu thuyết Những người nghèo soi vào gương và đau khổ nhận
thấy vẻ tiều tụy trên khuôn mặt và quần áo, y biện bạch với sự chế nhạo có thể có
của người khác đối với nghề viên chức nhỏ mọn của y. Vấn đề không chỉ ở chỗ nhà
văn tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật như một tiểu thuyết tâm lí
thông thường, mà là xem nhân vật như một ý thức khác, có tính độc lập tương đối.
2. Trong tác phẩm Người vợ dịu dàng của ông, một người chồng ngồi bên thi hài vợ
vừa nhảy lầu chết cách đó mấy giờ, với tâm trạng rối bời đang suy ngẫm về nhiều
tình tiết, biện bạch dần dần đưa nhân vật tới sự thật của y, một sự thật mang ý
nghĩa nhân cách sâu sắc. Nếu qua ý thức người khác, lời người khác, thì ý nghĩa ấy
sẽ mất đi.
3. Nhân vật của Đốxtôiépki không chịu được sự phán xét giản đơn về tâm hồn người
khác. Trong Thằng ngốc, Aglaia nói với Mưskin khi chàng bình phẩm động cơ tự
sát của íppôlít : “Anh phán đoán tâm hồn người khác một cách thô bạo ! Chỉ có
một chân lý thôi thì sẽ là một sự bất công”. Còn Xtáprôgin thì nói như quát lên
trong tiểu thuyết Những người bị ma ám : “Nghe đây ! Tôi không thích các loại
thám tử và các nhà tâm lý lúc nào cũng chực xọc mũi vào tâm hồn tôi”.
4. Theo Đốxtôiépki, con người không bao giờ trùng khít với chính nó và sự sống thực
sự lại thường diễn ra ở chỗ con người vượt ra ngoài giới hạn mà nó đã có. Nếu ở L.
Tônxtôi, viên quan, người sĩ quan hay một địa chủ thường làm những việc theo
loại của họ, thì ở Đốtxtôiépxki tình hình ngược lại. Nhân vật thường được miêu tả
ngoài sự xác định quá khứ của chúng. Raxkônnikốp là sinh viên nhưng không học
tập. Rôgôgin là lái buôn nhưng không buôn bán. Kirilốp là kỹ sư nhưng không
hành nghề, anh em Karamadốp hoặc là cựu sĩ quan, cựu nhân viên hay người
không có công việc xác định. Nhà văn thích quan sát những cái bất ngờ, nghịch lý,
phi thường trong tính cách nhân vật, chống lại các nhận định cứng nhắc, có sẵn.
Nhân vật Phétca Katoginưi trong Những người bị ma ám nói : “Nếu nói về một
người là thằng đểu, thì ngoài thằng đểu ra ta không biết gì thêm nữa. Còn nói nó là
thằng ngốc thì ngoài thằng ngốc ra đến cái tên của nó cũng không hay. Còn tôi thì
chỉ có thể là ngốc vào thứ ba, thứ tư, còn đến thứ năm lại minh mẫn”.
5. Đốtxtôiépxki đã thể hiện con người “đa thái” không xác định này trong truyện
ngắn Pôndunkốp. Đó là một con người “có lương tâm nhất, hào hiệp nhất trên đời,
chàng biết tự trọng và biết phẫn nộ”, nhưng đồng thời chàng là người “sợ thất bại,
hay thẹn thò, luôn mặc cảm về sự hèn kém của mình, cầu xin tha thứ”, lại là người
“liều lĩnh, dám làm mọi việc tồi tệ theo mệnh lệnh đầu tiên”.
6. Tiêu biểu về mặt này là ba cuộc gặp gỡ giữa Poócphiri Pêtrôvích và Raxkônnikốp
trong Tội ác và trừng phạt. Đối thoại đây không giản đơn là đối đáp, mà là quan hệ
tất yếu giữa các ý thức có uy tín và độc lập như nhau. Đối thoại như của Platon,
của Luận ngữ chưa tạo nên hiện tượng đa thanh vì đó là đối đáp giữa thầy và trò.
Quan hệ người trần thuật và nhân vật cũng là một quan hệ đối thoại, trong đó nhân
vật có xu hướng muốn tranh biện để nói lên lời cuối cùng về mình. “Đa thanh”
không có nghĩa là tương đối, ba phải, vì chủ nghĩa tương đối thực chất là thủ tiêu
đối thoại, không thiết tha với lời nói của mình, còn giáo điều thì không chấp nhận
đối thoại. “Đa thanh” cũng không có nghĩa là thu hẹp vai trò quyết định của thế
giới quan nhà văn đối với sự thể hiện nhân vật. Vai trò này thể hiện ở sự phát hiện,
am hiểu và tổ chức đối thoại theo một khuynh hướng nhất định. ở Đốtxtôiépxki đó
là khuynh hướng dân chủ, nhân đạo, chống tư sản và quan tâm vận mệnh nhân dân.
7. Các vấn đề của sự tự ý thức nhân vật như thiện và ác, chịu đựng hay nổi loạn, ích
kỷ hay hy sinh,… cũng là các vấn đề để suy nghĩ về thời đại. Một tư tưởng sống
bao giờ cũng mang nội dung nhân cách sâu sắc, tồn tại trong các đối thoại giữa các
chủ thể, làm thành nội dung đối thoại. Các nhân vật chính của nhà văn bao giờ
cũng có một tư tưởng chưa giải quyết. Đối với Raxkônnikốp trong Tội ác và trừng
phạt thì đó là vấn đề tương quan giữa lương tâm và tội ác. Có thể vì tương lai mình
mà hy sinh người thân không ? Có thể vì cải thiện cuộc đời mình mà sát hại kẻ
khác không, dù đó là kẻ xấu như mụ già cho vay nợ lãi ? Đối với Ivan Karamadốp
là vấn đề tương quan giữa đạo đức và niềm tin tôn giáo.