Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chính sách của anh đối với EU từ 1992 đến 2016 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.94 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------------

CHU THANH VÂN

CHÍNH SÁCH CỦA ANH ĐỐI VỚI EU
TỪ 1992 ĐẾN 2016

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số:

62 31 02 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Khoa Quốc tế học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy & PGS.TS. Bùi Hồng Hạnh

Phản biện:.............................................................................................
................................................................................................
Phản biện:.............................................................................................
................................................................................................
Phản biện:.............................................................................................
..............................................................................................



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng
cấp Đại học Quốc gia chấm luận án tiến sĩ họp tại
.........................................................................................................................
Vào hồi................giờ...............ngày...............tháng..............năm ….

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm thông tin- Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trong xu hướng ngoại giao mở và quốc tế hóa – toàn c ầu hóa, nghiên
cứu chính sách đối ngoại càng ngày càng chiếm vị trí quan trọng và cần thiết đ ặc
biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh ở khắp nơi, và tính ph ụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Trong số này, quan hệ của Anh
với Liên minh Châu Âu (EU) là một ví dụ khá tiêu bi ểu. Nhìn l ại l ịch s ử g ắn bó
giữa Anh và EU, mối quan ngại của lãnh đạo nh ững nước l ớn và các t ổ ch ức khu
vực cùng học giả thế giới và nhân dân Anh về tương lai lâu dài của m ối quan h ệ
giữa hai đối tác này ngày càng tăng, nhất là trong bối cảnh cu ộc tr ưng c ầu dân ý
ngày 23/6/2016 ở Anh đã diễn ra với kết quả nghiêng về phía đòi rút Anh ra kh ỏi
khối EU.
Thực tế là vị trí của Anh trong EU luôn bị giới chính trị và học gi ả th ế gi ới và
Việt Nam nghi ngờ. Nhiều người băn khoăn tại sao nước Anh ngày ấy, một c ường
quốc đứng nhất nhì thế giới, lại phải trải qua nhiều lần xin gia nh ập C ộng đồng
Châu Âu (EC) mới được chấp nhận, trong khi một số n ước khác, y ếu và kém th ế
hơn nhiều, dễ dàng có được lời mời tham gia liên minh này. T ừ ngày chính th ức
tham gia vào EC (năm 1973) và sau này là EU (năm 1992), Anh g ần nh ư ch ưa bao
giờ dốc sức vào việc xây dựng một châu Âu thống nhất, toàn v ẹn. Trên trang web

chính thức giới thiệu các quốc gia, khu vực Đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone),
và Khu vực Không Biên giới Schengen của EU tính đến 1-1-2017, n ước Anh ch ỉ có
tên trong mục “quốc gia thành viên” và hoàn toàn không có tên trong hai danh
sách quan trọng là “Quốc gia sử dụng đồng Euro” và “Thành viên tham gia Khu
vực Không Biên giới Schengen” [50]. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ti ền t ệ
năm 2008-2009, cùng với khủng hoảng người di c ư đến EU nh ững năm g ần đây
đã gây ra sự rạn nứt khó hàn gắn trong nội bộ EU, làm trầm trọng h ơn tính v ị k ỷ
của chủ nghĩa dân tộc của người Anh. Dân tộc này, v ới đ ặc tr ưng là s ự xoay s ở
thông minh đến lạnh lùng trong các vấn đề kinh tế và th ực s ự đang n ắm trong tay
nguồn tài chính khổng lồ đã phải đối mặt với một bài toán khó về l ợi ích qu ốc gia
và dân tộc khi đối diện vấn đề đi hay ở lại EU.
Mặt khác, thắng lợi của phong trào Brexit và tác động của nó đối v ới quan h ệ
của Anh với EU nói riêng, quan hệ của các nước thành viên trong các t ổ ch ức khu
vực lớn như EU, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ ch ức Th ương
mại Thế giới (WTO)… nói chung, đang đặt ra những vấn đề bức thiết về lý lu ận
của chủ nghĩa khu vực, địa chính trị, toàn cầu hóa v.v… và đòi h ỏi ph ải có nghiên
cứu sâu về chính sách ly khai này. Trong bối cảnh các nghiên c ứu v ề chính sách
của Anh với EU chưa có nhiều ở Việt Nam, trong khi cả Anh lẫn EU đều là các đ ối
tác quan trọng của Việt Nam, nghiên cứu chính sách của Anh v ới EU sẽ góp ph ần
làm sáng tỏ những động thái chính sách cũng nh ư xu h ướng v ận đ ộng c ủa m ối
quan hệ giữa hai đối tác này. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra khuy ến nghị chính
sách cho Việt Nam trong mối quan hệ với Anh và EU.
1


Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chính sách của Anh đ ối v ới EU
từ 1992 đến 2016” làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án “Chính sách của Anh đối với EU từ 1992 đến 2016” nhằm mục đích nghiên

cứu đặc điểm và tác động của chính sách đối ngoại của Anh với EU trong thời gian này.
Đồng thời, luận án nghiên cứu triển vọng chính sách của Anh với EU trong thời gian
tới, và đưa ra các khuyến nghị chính sách cho Việt nam trong quan hệ với hai đối tác
này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
1. Nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định chính sách đối ngoại
của Anh đối với EU giai đoạn 1992-2016.
2. Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm của chính sách đối ngoại của Anh đối với EU trong
giai đoạn này.
3. Đánh giá kết quả và tác động của các chính sách đối ngoại Anh đối với EU và đối
với Anh giai đoạn 1992-2016.
4. Nghiên cứu triển vọng chính sách của Anh với EU và tác động của những chính sách
này tới mối quan hệ Anh-EU trong thời gian tới.
5. Đưa ra khuyến nghị chính sách cho Việt Nam trong quan hệ với hai đối tác quan
trọng là Anh và EU thời kỳ hậu Brexit
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là chính sách đối ngoại c ủa Anh đ ối v ới
EU giai đoạn 1992-2016.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Luận án tập trung vào khoảng th ời gian t ừ năm 1992, khi
EU chính thức được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ Cộng đồng Châu Âu (EC)
giai đoạn trước. Năm 2016 là thời điểm phong trào Brexit phát tri ển m ạnh mẽ v ới
đỉnh điểm là chiến thắng của những người ủng hộ tách Anh ra kh ỏi EU trong
cuộc trưng cầu dâu ý ngày 23-6-2016. Để thuận tiện cho việc trình bày trong
luận án, những nội dung liên quan đến Liên minh châu Âu tr ước năm 1992 sẽ
được gọi là EC, và sau năm 1992 sẽ được gọi là EU.
Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu chủ yếu bao trùm hai đ ối tượng: Anh và
EU.

Phạm vi nội dung: Luận án lựa chọn những chính sách tiêu bi ểu, đặc tr ưng
trong số các chính sách đối ngoại của Anh đối với EU để nghiên cứu, nh ư đã đ ược
liệt kê và trình bày ở chương 3 của luận án này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng hướng tiếp cận và những phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện
đề tài:
Về hướng tiếp cận và khung lý thuyết: Luận án sử dụng hướng tiếp cận ba cấp độ
trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, bao gồm cấp độ cá nhân, cấp độ quốc gia và cấp độ
quốc tế. Ở cấp độ cá nhân, luận án phân tích yếu tố quyền lực/lợi ích/bản sắc từ góc độ
cá nhân chịu trách nhiệm chính về chính sách (nguyên thủ quốc gia). Ở cấp độ quốc
gia, luận án tập trung vào các yếu tố chính trị nội bộ ảnh hưởng đến chính sách đối
ngoại của đất nước. Ở cấp độ quốc tế, luận án phân tích sự ảnh hưởng của bối cảnh
quốc tế và khu vực trong hoạch định chính sách của Anh đối với EU trong giai đoạn
1992-2016.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng gồm: Phương pháp đa ngànhliên ngành (ứng dụng của Kinh tế học, Chính trị học, Kinh tế Chính trị quốc tế);
phương pháp phân tích văn bản (để xử lý thông tin từ các tài liệu về chính sách đối
2


ngoại của Anh giai đoạn 1992-2016). Ngoài những phương pháp nghiên cứu khoa học
xã hội chung kể trên, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách đối ngoại để
nghiên cứu chính sách của Anh đối với EU trong giai đoạn này. Ngoài ra, các phương
pháp nghiên cứu trong quan hệ quốc tế phù hợp với đề tài cũng sẽ được áp dụng, bao
gồm: phương pháp phân tích lợi ích/quyền lực/xung đột và hợp tác quốc tế, phương
pháp nghiên cứu khu vực, phương pháp phân tích chính sách.
5. Đóng góp của đề tài
Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu chính sách của Anh đ ối
với EU suốt hơn 20 (từ 1992 đến 2016). Không giống với phần l ớn các nghiên
cứu cùng chủ đề chính sách, luận án sẽ không dừng ở việc nghiên c ứu các
chính sách đối ngoại mà Anh đã sử dụng trong các v ấn đ ề liên quan đ ến EU

giai đoạn này, mà còn nghiên cứu các quy trình, các mô th ức xây d ựng và ho ạch
định chính sách đối ngoại cụ thể của Anh. Luận án có giá trị khoa h ọc lẫn th ực
tiễn. Về khoa học, luận án bổ sung nguồn tài liệu tham khảo về quy trình xây
dựng chính sách đối ngoại nói chung, chính sách đ ối ngo ại c ủa Anh v ới châu
Âu nói riêng. Về thực tiễn, luận án góp phần nâng cao hiểu biết về chính sách
đối ngoại của Anh đối với EU trong một giai đoạn nhiều biến đ ộng t ừ năm
1992 đến năm 2016.
.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án được chia làm 04
chương với bố cục như sau:Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu; Chương 2: : Cơ sở
của việc hoạch định chính sách của Anh với Liên minh châu Âu; Chương 3: Nội dung và
việc triển khai chính sách của Anh đối với EU trong giai đoạn 1992 – 2016; Chương 4:
Đánh giá và triển vọng chính sách của Anh đối với EU

3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Mặc dù cả Anh và EU đều là những đối tác chiến l ược của Vi ệt Nam trong
nhiều năm nay, các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Anh đ ối v ới EU cũng
như ảnh hưởng của những chính sách này đến Việt Nam chưa nhiều. Phần lớn
các nghiên cứu do các tác giả người Việt thực hiện cũng ch ỉ tập trung vào nghiên
cứu mối quan hệ giữa Anh với EU. Các nghiên cứu sâu về chính sách đ ối ngo ại c ủa
hai bên và sự tác động của chúng tới hoạch định chính sách của Việt Nam v ới Anh,
EU, khu vực và thế giới còn thiếu.
Một mặt, nhóm nghiên cứu về chính sách của EU khá phát tri ển và đã có
những thành tựu đáng kể, phần lớn các nghiên cứu này tập trung vào chính sách
của EU cho các nước trong Liên minh nói chung, hoặc giữa EU v ới các n ước khác

ngoài Liên minh, ít thấy các nghiên cứu chuyên sâu về chính sách của EU đ ối v ới
Anh. Mặt khác, các nghiên cứu về mối quan hệ Anh – EU cũng ch ưa th ực s ự n ổi
bật cho đến trước và sau thời điểm Brexit. Tuy nhiên, một số bài báo đã ch ỉ ra s ự
phức tạp trong nền chính trị Anh đương đại – một nhân tố quan trọng có ảnh
hưởng rất lớn đến chính sách đối ngoại của nước này, và là tham s ố có giá tr ị l ớn
đối với đề tài nghiên cứu của luận án này..
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.
Nghiên cứu về hoạch định chính sách đối ngoại: Nhìn chung, các học giả nước
ngoài đã có nhiều công trình quy mô nghiên cứu về các nhân tố khác nhau ảnh hưởng
đến hoạch định chính sách đối ngoại, các mô hình và tiếp cận trong xây dựng chính
sách đối ngoại, và cách phân tích, đánh giá, điều chỉnh các chính sách này. Tuy nhiên,
những nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào xây dựng mô hình chung, phổ quát cho
một nước cụ thể với các nước còn lại, hoặc với một nhóm nước đặc thù. Các nghiên
cứu sâu về cách xây dựng phản ứng chính sách cụ thể trong ngoại giao song phương
như của Anh với EU không nhiều. Vì thế, ngoại trừ một số ít tác giả như Christopher
Hill hoặc John T.Rourke, phần lớn các nghiên cứu khác về chính sách đối ngoại mới chỉ
dừng ở mức nêu hoặc liệt kê và đánh giá các chính sách của một quốc gia cụ thể với
một nước khác hoặc nhóm nước. Các nghiên cứu mang tính chuyên sâu về phương
thức, quy trình và các bước hoạch định chính sách đối ngoại của Anh với EU còn thiếu.
Một đặc điểm đáng chú ý nữa là phần lớn các sách hoặc tài liệu chuyên khảo về hoạch
định chính sách đối ngoại mới chỉ được phát triển bởi các học giả phương tây, từ các
nền kinh tế và chính trị trong hệ thống Tư bản chủ nghĩa như Anh, Pháp, Mỹ, v.v…
Nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Anh với EU: Các học giả quốc tế đã có
một lượng lớn các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Anh đối với EU,
nhưng vẫn chưa tạo dựng được bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ này trong suốt 43
năm Anh gia nhập Liên minh này. Lý do là các học giả thường chỉ nghiên cứu sâu về
một khía cạnh, một lĩnh vực thuộc chính sách đối ngoại (ví dụ kinh tế, an ninh, hợp tác
trong các vấn đề toàn cầu…). Mặt khác, một công trình nghiên cứu toàn diện về chính
sách của Anh với EU trong những năm gần đây (từ 2007-2016) hoàn toàn chưa có.
Thông thường, giới học thuật có xu hướng chọn nghiên cứu những sự kiện hoặc giai

4


đoạn cũ hơn, khi các tài liệu liên quan, dù là tài liệu mật, đã được công bố hết hoặc
phần lớn, tạo điều kiện cho nhà nghiên cứu có cái nhìn khách quan, toàn diện hơn với
vấn đề nghiên cứu.
.
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu bao gồm:

- Nghiên cứu khung lý thuyết và các cơ sở thực tiễn (giá trị cốt lõi) trong hoạch định chính
sách của Anh đối với EU
- Nghiên cứu các chính sách nổi bật của Anh đối với EU trên lĩnh vực chính trị-ngoại giao,
kinh tế và an ninh-xã hội.
- Nghiên cứu tác động của các chính sách lớn của Anh đối với EU trong giai đoạn 19922016
- Nghien cứu triển vọng chính sách của Anh đối với EU sau 2016.
- Phân tích về mối quan hệ giữa ICRC và Việt Nam, từ đó có khuyến nghị cho Việt Nam.

Tiểu kết chương 1
Cho đến hiện nay, chưa có tổ chức hay cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu về
“Hoạt động nhân đạo của Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế và tác động chính trị của nó từ
1991 đến nay”.

5


CHƯƠNG 2. CƠ SỞ CỦA HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CỦA ANH VỚI LIÊN
MINH CHÂU ÂU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Chính sách đối ngoại của Anh với EU nhìn từ lý thuyết về lợi ích quốc gia

Chính sách đối ngoại của một nước thường được hoạch định dựa trên nguyên tắc:
(1) đảm bảo lợi ích quốc gia cho đất nước (chủ yếu là kinh tế và an ninh chính trị); (2)
nâng cao vị thế của quốc gia trên chính trường thế giới.
Kim chỉ nam cho xây dựng chính sách đối ngoại của Anh đã được thiết lập khi Lord
Palmerston – người từng hai lần nắm giữ vị trí Thủ tướng Anh khi nước này ở đỉnh cao
quyền lực ở thế kỷ XIX – tuyên bố: “Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn và không
có kẻ thù vĩnh viễn. Lợi ích của chúng ta là vĩnh viễn và bất diệt và những lợi ích này là
nhiệm vụ chúng ta theo đuổi.” [Henry Kissinger, 2016, trang 55] và “Khi mọi người hỏi
tôi…những gì được gọi là một chính sách, câu trả lời duy nhất là chúng tôi sẽ làm
những gì có lẽ là tốt nhất dựa trên tình huống nó phát sinh, với lợi ích quốc gia là
nguyên tắc chỉ đạo.” [Henry Kissinger, 2016, trang 55].
Một trong những câu hỏi gây tranh cãi là khái niệm “lợi ích quốc gia” bắt đầu khi
nào. Khái niệm này gắn liền với một khái niệm quan trọng khác là “quốc gia dân tộc”
và đồng thời là yếu tố gây xung đột hoặc kết nối quốc gia này với quốc gia khác trong
một liên minh.
Với nhiều vai trò được xác định trong quan hệ đối ngoại với các đối tác quốc tế
nói chung, với EU nói riêng, Anh mong đợi sự hội nhập vào Liên minh một cách
“tương đối”, tức là không hòa nhập hoàn toàn vào EU. Các vai trò nêu trên chỉ ra rằng
Anh đã đặt “lợi ích quốc gia” tức quyền lực quốc gia của mình ở một vị thế khá cao.
Trong khi đó, tiến trình hội nhập sâu và mở rộng của EU lại đi theo chiều hướng ngược
lại. Nhìn từ góc độ lý thuyết này, khoảng cách giữa Anh và EU sớm muộn cũng sẽ mở
rộng và nếu không có những động thái gắn kết tích cực, hậu quả chia ly là tất yếu. Với
định hướng bảo toàn và tối đa hóa “lợi ích quốc gia”, nước Anh đã bước vào EU với
nhiều ảnh hưởng của hệ lý thuyết Hiện thực. Bị tương tác mạnh bởi lý thuyết Tự do,
nước Anh đã có những nhượng bộ nhất định trong giai đoạn đầu gia nhập EU, và kéo
dài đến đỉnh cao dưới quyền lãnh đạo của Thủ tướng Tony Blair. Tuy nhiên, từ sau
khủng hoảng kinh tế năm 2008, trước sự suy yếu của châu Âu, chủ nghĩa Hiện thực đã
trỗi dậy mạnh mẽ với trào lưu dân túy để đưa phong trào Brexit đến thắng lợi năm
2016.
2.1.2. Tiếp cận ba cấp độ trong hoạch định chính sách đối ngoại của Anh với EU

Đề tài này tiếp cận chính sách đối ngoại của nước Anh dựa trên ba cấp độ. Trong các
cấp độ này, cấp độ cá nhân có một vai trò quan trọng với phạm vi hoạt động và ảnh
hưởng đối với cả hai cấp độ còn lại là quốc gia và hệ thống quốc tế (khu vực và thế
giới). Trong nước, yếu tố cá nhân – thường là lãnh đạo đảng cầm quyền – có vai trò và
chức năng định hướng cho đảng chính trị và nhân dân của mình trong các chính sách
đối ngoại phù hợp với mục tiêu đối ngoại của đất nước nhưng vẫn dấu ấn cá nhân (tư
tưởng, tham vọng và khát vọng, nền tảng học vấn và hiểu biết, tầm nhìn chiến lược
v.v…). Ngoài nước, cá nhân nhà lãnh đạo thường đại diện cho tiếng nói của dân tộc và
6


đất nước mình đem đến các chương trình nghị sự trong khu vực và thế giới những đóng
góp, thảo luận, để tìm tiếng nói chung về các vấn đề của khu vực và thế giới, giúp giải
quyết các xung đột, tìm kiếm hợp tác, cùng tồn tại và phát triển. Vì thế, yếu tố cá nhân
giống như cầu nối giữa dân tộc và thế giới, giúp đưa hình ảnh của đất nước quảng bá ra
thế giới đồng thời đưa thế giới xích lại gần quốc gia dân tộc.
2.1.3. Các mô hình hoạch định chính sách đối ngoại phổ biến của thế giới và của nước
Anh
Các tác giả nước ngoài đã phát triển nhiều mô hình hoạch định và đánh giá, phân
tích chính sách đối ngoại chuyên biệt. Theo đó, ba mô hình phân tích chính sách đối
ngoại được đề cập đến trong Karen A.Mingst & Ivan M.Arreguin-Toft (2014) có tính
phổ quát hơn cả. Các mô hình này bao gồm: Mô hình Cấp tiến, Mô hình Tổ chức/Thể
chế/Hành chính và Mô hình Đa nguyên.
Ba mô hình ra quyết định hoặc hoạch định chính sách đối ngoại trên đây là các
mô hình phổ quát đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt ở châu Âu, nơi đi đầu
trong việc phát triển hai trường phái lý thuyết lớn là Chủ nghĩa Hiện thực và Chủ nghĩa
Tự do trong quan hệ quốc tế. Không có công thức cụ thể cho bối cảnh nào, thời gian
nào, hoặc lĩnh vực hay nội dung nào để các nhà nước phải lựa chọn mô hình nào. Nhìn
chung, các tác nhân tham gia vào quá trình hoạch định chính sách sẽ không ngừng
tương tác với nhau, tạo ảnh hưởng mạnh yếu khác nhau lên toàn bộ quá trình nhằm đem

đến lợi ích tối đa cho thực thể mà họ đại diện. Mối quan hệ giữa các nhà nước cũng
vậy: đều nhằm mục đích đảm bảo lợi ích tối đa cho mình. Vì thế, việc sử dụng mô hình
nào còn tùy thuộc vào năng lực, hiểu biết, sức mạnh và quan hệ của chủ thể tham gia
quá trình. Với nước Anh cũng vậy. Sử dụng mô hình nào trong ba mô hình trên đây phụ
thuộc vào bản chất của sự việc hoặc mối quan hệ, năng lực, ý chí và định hướng của
Nhà nước, nguyện vọng của nhân dân. Tuy nhiên, với đặc trưng là một nền dân chủ
mạnh và lâu đời, mô hình Đa nguyên sẽ có nhiều cơ hội được sử dụng ở Anh.
2.2. Cơ sở thực tiễn của hoạt động nhân đạo quốc tế
2.2.1. Quá trình hội nhập của Anh vào EC
Nước Anh, dù là một cường quốc hàng đầu Châu Âu, đã không gia nhập các tổ
chức là tiền thân của Liên minh Châu Âu hiện nay ngay từ đầu. Trong nhóm sáu nước
sáng lập Cộng đồng Than và Thép Châu Âu (ECSE) - tiền thân của EC - không có
Anh, dù Vương quốc có một vị thế rất lớn trên trường quốc tế vào cùng thời điểm. Các
nước ECSC sau đó đã thành lập Cộng đồng Phòng thủ Châu Âu (EDC) năm 1952 và
Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử Châu Âu
(EAEC) năm 1957. Cho đến thời điểm ký kết Hiệp ước Brussels ngày 8-4-1965, mở
đường cho việc chính thức hợp nhất ECSC, EEC và EAEC thành một thiết chế điều
hành chung các Cộng đồng thuộc châu Âu (EEC) hai năm sau đó, Anh vẫn chưa góp
mặt trong các cộng đồng này. Năm 1967, Anh chính thức có đơn xin gia nhập EEC
nhưng phải đến năm 1969 lá đơn thứ ba của nước này mới được xem xét và đàm phán
bắt đầu. Lý do hai lá đơn của Anh xin gia nhập tổ chức này trước đó đã bị Tổng thống
Pháp De Gaulle dùng quyền phủ quyết từ chối. Kể từ năm 1973, Anh chính thức trở
thành thành thành viên của EC. Để được chấp nhận tư cách thành viên Anh phải ký
Hiệp ước Nhượng quyền 1972, thừa nhận tất cả những yêu cầu, luật định của các Hiệp
ước được EC ký trước đó.
7


2.2.2. Quan điểm của Anh về việc thành lập khối EU
Quan điểm ban đầu của Chính quyền Thatcher là ủng hộ sự hợp nhất và hội nhập

châu Âu, nhưng có vẻ Thủ tướng Thatcher tìm kiếm sự thừa nhận của các đồng cấp
trong EC về khả năng lãnh đạo của bà và vị trí quan trọng của Anh trong EC. Không
đạt được sự “tôn trọng” này, đến cuối nhiệm kỳ, bà tỏ ra phẫn nộ và ngày càng thể hiện
thái độ nghi ngờ châu Âu. Với đỉnh cao thách thức là bài diễn văn Bruges, bà bộc lộ tất
cả sự chán ghét của mình với hội nhập sâu vào châu Âu, cho rằng những quyền lợi và
tôn trọng ít ỏi mà EC mang đến chưa “xứng tầm” với nước Anh.
Tại thời điểm chuẩn bị chuyển giao quyền lực giữa Thủ tướng Thatcher và Thủ
tướng Major, với tư cách là người thân cận được tin cậy nhất của Thủ tướng Thatcher,
John Major ban đầu tỏ ra ủng hộ quan điểm của Thatcher để giành lấy sự tín nhiệm từ
nữ Thủ tướng. Tuy nhiên, sau khi nắm quyền thay bà, ông lập tức lèo lái con thuyền về
phía châu Âu, vì thực tế nền kinh tế EC lúc bấy giờ đang duy trì sự phát triển, tạo cơ
hội tốt cho nước Anh. Mặt khác, sự ủng hộ châu Âu trong chính phủ Anh lúc này vẫn
nhiều hơn sự phản đối, và Thủ tướng John Major không muốn chọc giận các nghị sĩ
Anh. Lý do thứ ba của chính sách tiệm tiến châu Âu này là việc tân Thủ tướng John
Major cũng muốn thử sức và tranh thủ tín nhiệm của chính giới trong khu vực. Như
vậy, về cơ bản, chính quyền Anh đã miễn cưỡng ủng hộ sự hội nhập sâu của châu Âu,
tức là chấp nhận việc EC đang từng bước trở thành EU. Tuy nhiên, sự ủng hộ này xuất
phát từ những tính toán phục vụ lợi ích của nước Anh cũng như giới chính trị Anh.
2.2.3. Lợi ích và nghĩa vụ của Anh trong Liên minh Châu Âu
Với dân số trên 510 triệu người và là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ),
với những quan hệ truyền thống và các tương đồng về ý thức hệ, tư tưởng, văn hóa, EU
xứng đáng là “bạn hàng” và đối tác kinh tế sát sườn quan trọng nhất của nước Anh. Lợi
ích quốc phòng của Anh ở Châu Âu là hiển nhiên xét từ góc độ địa chính trị. Lịch sử đã
nhiều lần chứng minh châu Âu giống như tấm lá chắn từ xa của Anh. Cuộc Chiến tranh
Thế giới lần thứ hai là một ví dụ điển hình. Từ góc độ văn hóa, Samuel P.Huntington
(2016) [15], tác giả cuốn Sự va chạm giữa các nền văn minh cho rằng Anh thuộc nền
văn minh phương tây với đặc thù là một nền văn minh phổ quát nhất tính đến thời điểm
này và sẽ còn gia tăng ảnh hưởng sâu rộng nữa.
Với vai trò là thành viên của EC và sau này là EU, nước Anh phải thực hiện một
số nghĩa vụ sau: Thứ nhất, hàng năm nước Anh phải thực hiện đóng góp cho ngân sách

hoạt động của châu Âu. Thứ hai, về chính trị quốc tế, là một thành viên của EC và EU,
Anh có cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ tham gia các vấn đề về lập pháp, hành pháp, đối nội
và đối ngoại trong liên minh này. Thứ ba, về trách nhiệm an ninh phòng vệ với châu
Âu, khi có xung đột hoặc phát sinh nhu cầu phòng vệ cho châu Âu, Anh có trách nhiệm
hội quân và cùng các nước khác tiến hành các chiến dịch quân sự cần thiết để đảm bảo
hòa bình cho châu lục này.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định chính sách đối ngoại của
Anh đối với EU có thể tóm tắt như sau:
- Cơ sở lý luận: bao gồm các phạm trù chính sách công, chính sách đối ngoại, lợi
ích quốc gia và quốc gia dân tộc; mối liên hệ giữa sự cần thiết phải hoạch định chính
sách đối ngoại với việc phân tích chính sách để điều chỉnh, tạo kết quả tối ưu cho chính
sách; ba mô hình hoạch định chính sách đối ngoại phổ biến trên thế giới và châu Âu,
8


bao gồm cả nước Anh, và các đặc điểm của từng mô hình. Nghiên cứu cũng cho thấy sự
ảnh hưởng của tiếp cận ba cấp độ đến hoạch định chính sách của nước Anh đối với EU
và sự cần thiết phải phân tích chính sách dựa trên những cấp độ này để có được bản
đánh giá chính sách khoa học, chính xác nhất.
- Về cơ sở thực tiễn: Nghiên cứu đã chỉ ra ba lợi ích cốt lõi của Anh ở Châu Âu
(gồm kinh tế, an ninh quốc phòng và tăng cường vị thế quốc gia cho Anh trên trường
quốc tế) và các định hướng chính trong vấn đề đối ngoại của Anh với thế giới và châu
Âu kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Việc Anh mong muốn tham gia vào Liên minh
Châu Âu (trước đây là Cộng đồng Kinh tế Châu Âu) xuất phát từ những lợi ích thiết
thực trên các lĩnh vực khác nhau, đồng thời phù hợp với xu hướng hội nhập ở châu Âu.

9



CHƯƠNG 3. NỘI DUNG VÀ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH CỦA ANH ĐỐI VỚI EU
TRONG GIAI ĐOẠN 1992-2016
3.1. Chính sách của Anh đối với EU về chính trị ngoại giao
3.1.1. Đối với vấn đề lá phiếu phủ quyết trong EU
Trong lịch sử hoạt động của EU có hai nước nổi tiếng vì việc th ường xuyên
sử dụng lá phiếu phủ quyết để đảo đảm quyền lực và vị thế quốc gia. Đó là Pháp
và Anh. Những năm 1960 của thế kỷ trước, nước Pháp liên tục dùng lá phi ếu ph ủ
quyết để ngăn không cho Anh tham gia vào EC. Sau này, khi đã là m ột thành viên
của EU, nước Anh trong giai đoạn Thủ tướng John Major c ầm quy ền cũng nhi ều
lần sử dụng lá phiếu này.
Nhìn chung, chính sách sử dụng lá phiếu phủ quyết
liên tục trong giai đoạn 1992-1996 đã gây bất lợi và phản tác d ụng đ ối v ới n ước
Anh. Các vấn đề của Anh với EU đã không đ ược gi ải quy ết mà còn gây b ế t ắc và
sự không hài lòng giữa các bên, khiến Anh bị hạ uy tín trong EU. T ừ năm 1997 tr ở
đi, nước Anh cố gắng kiềm chế sử dụng quyền phủ quy ết đ ể dung hòa gi ữa l ợi
ích quốc gia và lợi ích của EU.
3.1.2. Đối với vấn đề mở rộng EU
Trong giai đoạn 1992-2016, EU đã mở rộng thêm ba lần n ữa v ới l ần th ứ
nhất (năm 1995) tăng lên đến 15 thành viên và đến lần th ứ hai (năm 2004), tăng
lên 25 thành viên và lần thứ ba (năm 2007) chính thức có 28 thành viên nh ư hi ện
nay. Về cơ bản, nước Anh nhất quán ủng hộ chính sách m ở r ộng châu Âu ngay t ừ
đầu.
3.1.3. Đối với vấn đề phê chuẩn các hiệp định và văn kiện quan tr ọng của EU
Trong giai đoạn 1992-2016, EU đã ban hành các hiệp định quan tr ọng nh ư
Hiệp ước Maastricht (1992), Hiệp ước Amsterdam (vốn là sửa đổi của Hiệp ước
Maastricht (1997), và Hiệp ước Lisbon (2007).
Mặc dù chấp nhận thông qua Hiệp ước Maatricht, chính sách c ủa Anh đ ối
với sự hội nhập sâu vào châu Âu trong các năm 1992-1995 th ể hi ện thái độ cầm
chừng, không dứt khoát. Nước Anh đã đàm phán để bảo l ưu nhiều điều kho ản mà
sự ngờ vực châu Âu chưa cho phép Anh thực hiện các tiếp cận gần gũi, thân thi ện

hơn. Từ chối ký kết Hiến chương xã hội, không tham gia vào liên minh kinh t ế và
tiền tệ của châu Âu, không tái tham gia cơ chế Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu dù
lúc này nước Anh đã có thừa điều kiện cần thiết là các bằng ch ứng cho th ấy chính
sách đối ngoại của Anh với EU giai đoạn này là h ội nh ập có ch ừng m ực.
Mở đầu quá trình đàm phán Hiệp ước Amsterdam là quyết định ký kết
Hiến chương Xã hội còn bỏ ngỏ từ Hiệp ước Maastricht của nước Anh. S ự thay
đổi thái độ rất tích cực và việc nhanh chóng, chủ động tham gia đàm phán trên
tinh thần xây dựng của nước Anh trong Hiệp ước Amsterdam đã nâng cao uy tín
và vị thế của Anh trong EU. Thủ tướng Tony Blair, mặc dù m ới nắm quy ền đi ều
hành đất nước chưa lâu, đã mang đến sự thay đổi tích c ực cho ngo ại giao chính tr ị
của Anh. Chính sách của Anh đối với EU lúc này là ch ủ đ ộng h ội nh ập.
10


Hiệp ước Lisbon được 27 thành viên EU tham gia ký kết ngày 13-12-2007
nhằm mục đích thay thế cho Hiệp ước về Hiến pháp Châu Âu đã t ừng b ị Pháp và
Hà Lan phủ quyết năm 2005. Chính quyền của Thủ tướng Tony Blair về c ơ b ản
đồng thuận với Hiệp ước Lisbon. Trong giai đoạn chuẩn bị cho Hiệp ước này,
nước Anh đã thực hiện nhiều động thái ủng hộ sự ra đời của Hiệp ước. T ừ tháng
7 đến tháng 12 năm 2005, trong nửa sau của nhiệm kỳ Ch ủ tịch EU, chính quy ền
Tony Blair đã biên soạn sách trắng ngoại giao với 04 mục tiêu c ủa Anh trong EU.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của những thành tựu này đã bị ch ặn lại khi Gordon Brown
– một thành viên Đảng Lao động nhưng mang tư tưởng nghi ngờ châu Âu – lên k ế
nhiệm Tony Blair năm 2007.
3.2. Chính sách của Anh đối với EU trên lĩnh vực kinh tế
3.2.1. Chính sách đóng góp cho ngân sách EU của Anh
Tính đến năm 1992, về cơ bản, nước Anh đã đạt được thỏa thuận về đóng
góp ngân sách cho nước Anh nhờ những nỗ lực của Thủ tướng Margaret Thatcher
trong thập kỷ trước. Trong suốt giai đoạn từ 1992 đến 2016, ph ần đóng góp cho
ngân sách EU của Anh gần như không thay đổi so v ới th ỏa thu ận đ ạt đ ược trong

Hội nghị cấp cao Fontainebleau tháng 6-1984, theo đó nước Anh ph ải đóng 20%
tổng ngân sách của EU, nhưng sẽ nhận được một khoản trả l ại bằng 66% giá tr ị
khác biệt giữa khoản nước Anh trả cho EU và khoản n ước Anh nh ận l ại t ừ Liên
minh [Colin Pilkington, 2001].
Tuy nhiên, đến năm 2008, khủng hoảng tài chính n ổ ra trên ph ạm vi toàn
cầu. EU bị thiệt hại nặng nề do các tác động của cuộc khủng ho ảng và v ấn đ ề
đóng góp cho ngân sách EU một lần nữa lại gây bất đồng gi ữa Anh và EU. Anh đ ề
xuất chính sách “thắt lưng buộc bụng” về ngân sách và cố gắng thuy ết ph ục EU
theo hướng này. Năm 2010, Anh và Đức đã đạt được thỏa thu ận h ạn ch ế ngân
sách của EU có tính đến sự tăng lạm phát. Tuy nhiên, năm 2012, khi th ảo lu ận
ngân sách giai đoạn 2014-2020, Hội đồng châu Âu lại đòi tăng chi tiêu thêm 5%.
Nếu mức tăng này được chấp nhận, mức đóng góp của Anh cho ngân sách EU giai
đoạn này sẽ tăng lên con số lớn chưa từng có là 10 tỷ Bảng. Th ủ tướng David
Cameron tuyên bố “sẽ không đặt nước Anh vào những dàn xếp khó khăn”.
Tóm lại, nước Anh trong giai đoạn 1992-2016 chấp nh ận m ức đóng góp vào
ngân sách EU như kết quả của các đàm phán năm 1984. Anh c ương quy ết không
nhượng bộ EU trong chính sách này ngay cả khi EU lâm vào kh ủng ho ảng và g ặp
khó khăn về tài chính. Có thể nói, chính sách của Anh v ề ngân sách cho EU khá
cứng rắn và quyết liệt
3.2.2. Đối với Cơ chế Hối đoái Châu Âu và đồng Euro
Một trong những chính sách đối ngoại về kinh tế quan trọng của n ước Anh
đối với EU giai đoạn này là sự ra khỏi Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu c ủa đ ồng
Bảng Anh. Chính sách của Anh đối với tham gia vào Cơ chế T ỷ giá H ối đoái Châu
Âu sau năm 1992 là chính sách ly khai. Việc ở trong cơ chế này ch ỉ hai năm (19901992) đã mang lại thiệt hại lớn về tài chính cho nước Anh, khiến mọi n ỗ l ực đ ưa
nước Anh trở lại Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu sau đó đều trở nên vô v ọng. Tuy
11


nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với khả năng Anh tham gia vào Khu v ực đ ồng
Euro trở nên mong manh, vì Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu là m ột trong nh ững

nền tảng chính của Khu vực đồng Euro, bên cạnh Th ị trường chung Châu Âu. Việc
này, cùng với thực tế sau năm 1992 đồng Bảng d ần l ấy l ại đ ược giá tr ị th ực và
nền kinh tế nước Anh tăng trưởng ổn định, đã khiến chính ph ủ Anh chính th ức
xác lập chính sách ly khai hoàn toàn khỏi cả cơ chế Cơ chế T ỷ giá Hối đoái Châu
Âu và Khu vực đồng tiền chung châu Âu. Việc đồng Euro liên tục m ất giá trong
thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2008 đã ch ứng tỏ chính sách tiền tệ c ủa Anh
trong giai đoạn này hợp lý và phù hợp với các lợi ích kinh tế c ủa n ước Anh.
3.2.3. Đối với cuộc khủng hoảng cấm vận thịt bò
Những quy định của EU về an toàn đối với thực phẩm bán tại thị trường
nội khối đã từng gây tranh cãi giữa Anh và EU trong v ấn đề bệnh bò điên (g ọi t ắt
là bệnh BSE). Một làn sóng tẩy chay thịt bò Anh bắt đầu năm 1989. Năm 1989 c ả
Đức và Mỹ đều ban hành lệnh cấm thịt bò Anh. Năm 1996, EU ban hành lệnh cấm
thịt bò Anh trên phạm vi toàn liên minh và đồng ý bồi th ường 25% giá tr ị bò m ắc
bệnh đã xẻ thịt. Chính sách của Anh để giải quyết cuộc kh ủng hoảng th ịt bò c ủa
nước này có thể được chia thành hai giai đoạn với các đặc tr ưng khác nhau. Giai
đoạn đầu thuộc thời kỳ Thủ tướng John Major nắm quy ền. Chính sách của n ước
Anh là phản ứng mạnh, bảo thủ và gây hấn. Tuy nhiên, chính sách này không phát
huy hiệu quả. EU vẫn cương quyết với lệnh cấm thịt bò Anh trên toàn lãnh th ổ
còn nước Anh bị mất uy tín trầm trọng trong các đàm phán và h ội ngh ị th ượng
đỉnh của EU. Giai đoạn thứ hai diễn ra trong nhiệm kỳ đầu c ủa Th ủ t ướng Tony
Blair (từ 1997-2000). Nước Anh chuyển từ thái độ đối đầu sang h ợp tác m ềm
mỏng để tháo gỡ vấn đề bệnh BSE. Năm 1997 bắt đầu bằng nh ững đề ngh ị n ới
lỏng lệnh cấm thịt bò Anh. Đến tháng 3-2000, vấn đề thịt bò Anh đã đ ược gi ải
quyết triệt để, hiệu quả và nhận được sự đồng thuận của các n ước thành viên.
3.2.4. Đối với Chính sách nông nghiệp chung châu Âu (CAP)
Chính sách nông nghiệp chung (CAP) được xây dựng từ năm 1957 trong
Hiệp định Rome. Năm 1973, việc Anh tham gia vào EC cũng có nghĩa là tham gia
vào CAP. Vấn đề giữa nước Anh và CAP là ở chỗ nước Anh có nền nông nghi ệp
nhỏ hơn nhưng lại hiệu quả hơn rất nhiều so với các n ước khác trong EC. Tuy
nhiên, việc CAP được hình thành từ trước khi Anh gia nhập EC khi ến cho Anh

không có tiếng nói có trọng lượng về vấn đề này. Việc phần lớn ngân sách c ủa EC
trước 1992 được dùng chi trả cho CAP khiến người Anh, đối t ượng đóng ngân
sách EC cao hơn các nước thành viên khác, có c ảm giác ti ền và công s ức c ủa h ọ
được sử dụng để bù đắp cho sự hoạt động và làm việc thi ếu hiệu qu ả ở n ơi khác,
ví dụ như Pháp. Vì vậy, người Anh đã tiến hành vận đ ộng đ ể c ải t ổ CAP t ừ r ất
sớm, dẫn đến những cải cách mạnh trong chính sách này suốt th ập k ỷ 1980. Nhìn
chung, chính sách của Anh đối với CAP là hòa h ợp, tuân th ủ và điều ch ỉnh ch ậm
chạp.
3.2.5. Chính sách Hòa hợp với Thị trường chung Châu Âu
12


Từ năm 1993, các điều khoản quy định chất lượng, thành ph ần, kích
thước… của các mặt hàng được bán tại Thị trường chung Châu Âu bắt đ ầu có
hiệu lực đầy đủ, như quy định trong Định chế Hợp nhất châu Âu. Suốt nhiệm kỳ
của Thủ tướng John Major, không có sản phẩm sô-cô-la nào c ủa Anh có m ặt ở các
nước thành viên khác thuộc EU. Đến thời kỳ Thủ tướng Tony Blair n ắm quy ền,
nước Anh bắt đầu cuộc vận động để các sản phẩm của Anh đ ược xuất sang th ị
trường lớn này. Tháng 10-1999, dưới tác động của chính sách đàm phán kiên trì,
mềm mỏng của chính phủ Anh, Hội đồng Châu Âu đã chấp nhận cho phép s ản
phẩm sô-cô-la sữa của nước này được bán tại Thị trường chung Châu Âu nh ưng
phải dán nhãn hàng hóa là “sô-cô-la sữa gia đình”. Nhiều m ặt hàng của n ước Anh
đã xâm nhập thị trường chung châu Âu theo cách tương tự. Có thể nói đến th ời kỳ
Thủ tướng Tony Blair nắm quyền, nhiều bế tắc trong các thương thuyết về chính
sách kinh tế của hai bên đã được khai thông. Chính sách hòa h ợp c ủa Anh v ới các
đòi hỏi của Thị trường chung Châu Âu về cơ bản đã thành công.
3.2.6. Chính sách của Anh về vấn đề giải cứu đồng Euro trong khủng hoảng tài
chính 2008
Khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra từ năm 2008 nh ưng ph ải đ ến giai
đoạn 2010-2012 mới bộc lộ hết ảnh hưởng sâu rộng và tính chất trầm tr ọng c ủa

nó. Châu Âu bước vào thời kỳ suy thoái kéo dài d ẫn đ ến m ột lo ạt nh ững kh ủng
hoảng phát sinh, gồm khủng hoảng nợ công với nguy cơ v ỡ n ợ tại Hy L ạp, suy
yếu kinh tế khu vực đồng Euro, khủng hoảng người tị nạn và di c ư, v.v… Về
khủng hoảng khu vực đồng Euro và các giải pháp ph ục hồi, thái độ c ủa n ước Anh
tỏ ra không rõ ràng. Một mặt, nước này quan tâm đến s ự ổn định của đ ồng ti ền
chung châu Âu và sự bình thường hóa trở lại của các thành viên đang b ị ảnh
hưởng nặng nề trong khu vực vì 50% th ương mại của Anh liên quan đ ến các
nước thuộc EU. Mặt khác, do không phải là thành viên c ủa Khu v ực đ ồng Euro và
cũng không có ý định ra nhập khu vực này, n ước Anh rất cảnh giác tr ước vi ễn
cảnh thay đổi mạnh của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ. Anh tiếp tục yêu cầu bảo
vệ các hoạt động của công ty và ngân hàng Anh chống lại nh ững kiểm soát tài
chính từ phía các thể chế châu Âu, nhằm mục đích không h ạ th ấp vai trò c ủa
London với tư cách trung tâm tài chính thế giới. Vì vậy, tại h ội ngh ị th ượng đ ỉnh
EU tháng 12-2012 Thủ tướng David Cameron đã nêu ý đ ịnh để Anh cùng Th ụy
Điển và Cộng hòa Séc bên ngoài Hiệp hội Ngân hàng (Banking Union). Nh ững
phức tạp trong mối quan hệ Anh-EU đã làm gia tăng chủ nghĩa hoài nghi châu Âu
thời kỳ này. Công chúng Anh càng ngày càng nghi ngờ sự h ội nh ập sâu c ủa EU.
Nước Anh cũng dần bị đẩy ra lề của châu lục, không còn là một trong nh ững n ước
giữ vai trò thủ lĩnh của EU như thời Thủ tướng Tony Blair n ữa.
Tóm lại, chính sách hội nhập kinh tế của Anh vào EU th ời kỳ này g ặp nhi ều
khó khăn dẫn đến sa lầu trong ngắn hạn. Anh quay về v ới t ư t ưởng v ị k ỷ truy ền
thống và muốn đặt lợi ích của mình lên trên hết. Chính sách của Anh v ới EU v ề
giải cứu đồng Euro là chính sách tách biệt, không gắn kết.
3.3. Chính sách của Anh đối với EU trên các lĩnh vực khác
13


3.3.1. Đối với vấn đề an ninh phòng thủ chung châu Âu
Sau Chiến tranh Lạnh, các quốc gia châu Âu bắt đầu quan tâm đến các hình
thức hợp tác an ninh quốc phòng khác ngoài phạm vi NATO. N ước Mỹ, ng ười sáng

lập NATO và cũng là đồng minh thân cận của EU bày tỏ mong muốn châu Âu chia
sẻ nhiều hơn gánh nặng từ chi phí an ninh phòng thủ nh ưng vẫn đảm bảo không
làm phương hại đến NATO. Năm 1997, khi Thủ tướng Tony Blair lên nắm quyền,
ông tuyên bố sẽ chấm dứt tình trạng “cô lập suốt hai mươi năm qua” và đ ưa n ước
Anh vào vị thế “là đối tác dẫn dắt ở châu Âu” . Tháng 12-1998 tại Saint Malo, Thủ
tướng Anh sẵn sàng hợp tác với Pháp xây dựng m ột ch ương trình ph ối h ợp phòng
thủ châu Âu. Một năm sau, Lực lượng phản ứng nhanh của châu Âu (RRF) đ ược
thành lập dựa trên kế hoạch của Anh và Pháp trước đó. Cũng trong năm 1998,
Chính sách An ninh và Phòng thủ Châu Âu (ESDP) hoàn thành nh ờ s ự đ ồng thu ận
của các nước lớn trong EU. Sách Trắng của Anh năm 2003 cũng nh ấn m ạnh quan
điểm: “một tiếp cận linh động, phối hợp và các liên kết hiệu quả v ới NATO là t ối
quan trọng cho thành công của ESDP. Chúng ta sẽ không ch ấp nh ận b ất c ứ cái gì
đối nghịch hoặc thay thế sự đảm bảo an ninh đã được thiết l ập qua NATO”. V ới
thực lực tốt hơn hẳn các đồng minh trong EU, n ước Anh ph ần nào đã làm ch ủ các
đàm phán về an ninh phòng vệ cho châu lục. Kết quả là, châu Âu có th ể hình
thành liên minh kinh tế rất mạnh nhưng các gắn kết về an ninh qu ốc phòng l ại
lỏng lẻo, và một quân đội riêng cho EU đến năm 2016 vẫn ch ưa đ ược thành l ập.
Nhìn chung, chính sách can thiệp và sự nghiêng về đồng minh v ới Mỹ trong
NATO của nước Anh đã là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến s ự phát
triển mất cân đối giữa liên minh kinh tế với liên minh an ninh qu ốc phòng c ủa
EU. Kết quả là, đến năm 2016, nhận định của Ngoại trưởng Bỉ phát bi ểu năm
1991 “Châu Âu là một người khổng lồ về kinh tế, chú lùn về chính tr ị và con sâu
về quân sự” vẫn còn nguyên giá trị.
3.3.2. Về vấn đề tị nạn và nhập cư
Ngay từ Hiệp ước Maastricht năm 1992, thái độ của Anh đối với vấn đề
nhập cư vào Anh đã được thể hiện rõ bằng việc Th ủ t ướng John Major t ừ ch ối
không ký kết Hiến chương Xã hội, một động thái th ể hiện việc muốn h ạn ch ế
lượng người nhập cư vào Anh. Đến năm 1997, khi Thủ t ướng Tony Blair ch ấp
thuận ký kết Hiến chương này, ông vẫn đòi hỏi các quy chế riêng v ề đ ường biên
giới cho nước Anh, như một nỗ lực bảo vệ nước Anh trước làn sóng nhập c ư và tị

nạn bắt đầu đổ về châu Âu. Tuy nhiên, cho đến th ời điểm Hiệp ước Lisbon có
hiệu lực những năm đầu thế kỷ XXI, làn sóng nhập cư và tị n ạn vào EU ch ưa b ị
xem là mang lại các nguy cơ về an ninh, làm mất trật tự xã h ội và mai m ột b ản
sắc văn hóa của các nước châu Âu. Sự việc chỉ trở nên trầm trọng khi Nhà n ước
Hồi giáo tự xưng trỗi dậy và xung đột Syria bắt đầu. K ể t ừ đ ầu năm 2014, châu
Âu đã phải đối mặt với những con số dân tị nạn lớn ch ưa t ừng thấy, và đ ến năm
2015, các bất đồng về chính sách phân bổ hạn ngạch người tị n ạn cho các n ước
thành viên trở nên rất gay gắt. Đối với nước Anh, do các đi ều kho ản đ ặc bi ệt có
14


từ các hiệp ước đã ký với EU giai đoạn trước, n ước Anh không ch ấp nh ận các h ạn
ngạch từ EU về người tị nạn vào Anh trong các năm 2014-2016.
Về vấn đề nhập cư vào Anh từ các nước EU, ph ải khẳng đ ịnh r ằng trong
nhiều năm kể từ 1997, nhờ sự ổn định về kinh tế, an ninh – quốc phòng và chính
trị, nước Anh duy trì được chế độ an sinh xã hội ở mức cao nên tr ở thành m ột
điểm đến hấp dẫn với đông đảo dân cư các nước EU. Để ki ểm soát tình hình, t ừ
năm 2003, chính quyền của thủ tướng Tony Blair đã cho triển khai d ự án Biên
giới điện tử trị giá 1,2 tỷ bảng Anh nhằm kiểm tra chi tiết tất cả các hành khách
ra vào Vương quốc Anh. Đến năm 2014, để hạn chế số nhập cư vào Anh, chính
phủ của thủ tướng David Cameron ban hành quy chế mới về an sinh xã h ội cho
người nhập cư. Theo đó, chỉ sau bốn năm có việc làm ổn định ở Anh, nh ững ng ười
nhập cư mới được hưởng chế độ an sinh xã hội như các công dân khác c ủa Anh.
Tuy nhiên, họ vẫn sẽ không nhận được trợ cấp tiền gửi cho b ố m ẹ và con cái ở
quê nhà. Chính sách này bị cộng đồng EU chỉ trích d ữ d ội nh ưng n ước Anh v ẫn
kiên quyết với các kế hoạch đã đề ra.
3.3.3. Đối với hợp tác trên lĩnh vực luật pháp và chống tội phạm, ch ống kh ủng b ố
Trong lĩnh vực hợp tác luật pháp và chống tội phạm, phần lớn gi ới chính tr ị
Anh tin rằng quốc gia này nên là một phần trong hệ thống qu ốc t ế v ề ch ống t ội
phạm (là một thành viên của Europol, Eurojust, và hệ thống l ưu trữ thông tin v ề

tội phạm châu Âu), tham gia vào Luật Bắt giữ Châu Âu. Theo C ương lĩnh tranh c ử
năm 2010, Đảng Bảo thủ của Anh nhấn mạnh việc cần thiết phải bãi bỏ Đ ịnh
luật Quyền Con người (Châu Âu), dựa trên Hiệp ước Châu Âu về Quy ền Con
người. Từ góc độ này, Đảng Bảo thủ dự kiến yêu cầu chỉnh sửa Luật Cộng đồng
Châu Âu 1972 để đảm bảo cho Anh có quyền lực nhiều h ơn trong l ập pháp c ủa
EU sau này. Ngoài ra, Đảng này cũng tuyên bố muốn thông qua m ột lu ật v ề ch ủ
quyền của Anh – một bộ luật được xem là sự bổ sung cho thiếu sót về Hiến pháp
của Anh, để ngăn cản sự xâm nhập của EU vào các lập pháp m ới. Th ắng l ợi trong
tổng tuyển cử năm 2015, Đảng Bảo thủ và Thủ tướng David Cameron tiếp tục các
chính sách hợp tác với EU trên các phương diện tội ph ạm quốc tế, ch ống kh ủng
bố, lập pháp v.v… trên nguyên tắc chuyển giao ngày càng nhiều quy ền ch ủ đ ộng
và lập pháp cho Anh. Đây có thể nói là chính sách hài hòa quy ền l ợi và trách
nhiệm của cả Anh lẫn EU.
Tiểu kết chương 3
Chính sách của Anh với EU trên các phương diện kinh tế, chính tr ị ngo ại
giao, và trên các lĩnh vực khác có những điểm chính sau:
1) Về chính trị ngoại giao: Giai đoạn từ 1992 đến 1997 ch ứng kiến s ự s ử
dụng quyền phủ quyết với tần suất lớn của nước Anh trong các đàm phán v ới EU
về nhiều mặt, khiến uy tín của nước Anh bị giảm sút. Tuy nhiên, th ời kỳ sau này,
đặc biệt từ năm 1997 đến năm 2007, nước Anh đã hài hòa h ơn trong các đàm
phán, và hạn chế tối đa việc sử dụng quyền phủ quyết này, góp phần làm cho
việc ký kết những hiệp định quan trọng của EU suôn sẻ và có tính đ ồng thu ận t ốt
hơn. Anh cũng ủng hộ sự mở rộng EU trong suốt giai đoạn 1992-2016, m ột ti ền
15


đề quan trọng cho sự gia tăng số thành viên lên con số 28 n ước và vùng lãnh th ổ
như hiện nay.
2) Về phương diện chính sách kinh tế: Anh duy trì chính sách h ội nh ập có
tính toán với EU. Anh chấp nhận đóng góp ngân sách cho EU ở m ức cao so v ới các

thành viên còn lại để đổi lấy các giá trị cốt lõi khác. Anh ch ấp nh ận tham gia kh ối
Thị trường chung châu Âu để tranh thủ thị trường lớn trên 500 triệu dân của EU,
với kim ngạch xuất khẩu chiếm 45% tổng lượng hàng hóa và d ịch v ụ xu ất kh ẩu
của Anh. Sau hai năm ở trong Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu, nhận th ấy nguy c ơ
đồng Bảng bị đầu cơ và giảm giá trị, Anh đã rút ra khỏi cơ chế này và kiên trì
chính sách không hội nhập trở lại. Anh cũng nhất quán v ới chính sách không
tham gia vào khu vực đồng tiền chung châu Âu. Giai đoạn t ừ năm 1992 đ ến năm
1997, Anh phản ứng tiêu cực với chính sách cấm vận th ịt bò Anh của EU nh ưng đã
có những tháo gỡ tích cực hơn cho vấn đề này ở giai đoạn sau (1997-2000). V ề c ơ
bản, Anh đồng thuận với Chính sách nông nghiệp chung và các đòi h ỏi c ủa th ị
trường chung châu Âu, cố gắng đảm bảo các yêu cầu của hàng hóa xu ất vào th ị
trường này. Tuy nhiên, với vấn đề cứu trợ đồng Euro trong giai đo ạn kh ủng
hoảng 2008-2012, Anh liên tiếp thực hiện chính sách né tránh, không tham gia
sâu vào cuộc cứu trợ.
3) Các lĩnh vực khác cũng chứng kiến chính sách đối ngoại không gi ống
nhau của Anh với EU. Một mặt, Anh ủng hộ thắt chặt an ninh, phòng v ệ cho châu
Âu bằng các biện pháp chia sẻ thông tin tội phạm và tình báo. M ặt khác, Anh đòi
chuyển giao quyền làm luật nhiều hơn cho các quốc gia thành viên, trong đó có
Anh, bao gồm quyền xét xử và giam giữ tội phạm c ủa nhi ều t ội danh. Anh cũng
quyết liệt trong vấn đề người tị nạn và nhập cư vào Anh. Có th ể nói, ở các lĩnh
vực này, phần lớn chính sách của Anh rất cứng rắn và không khoan nh ượng.
Nhìn chung suốt 24 năm ở trong Liên minh châu Âu (1992-2016), các chính
phủ Anh thường tiếp cận EU một cách thực dụng. Ngoài kinh tế, lợi ích chính tr ị
của Anh trong EU chủ yếu nhằm cung cấp vai trò lãnh đạo cho Anh trong kh ối
này. Vì thế, Chính sách Hội nhập của Anh vào EU dù đã đạt đ ến nh ững giai đo ạn
đỉnh cao như thời kỳ 1997-2010 cuối cùng vẫn suy yếu. Nước Anh ti ếp t ục chính
sách gắn kết nửa vời, không toàn tâm toàn ý hội nhập sâu vào Liên minh Châu Âu
và sẵn sàng các biện pháp vừa mềm mỏng vừa cứng rắn đ ể tránh chuy ển giao
thêm quyền lực cho EU, đồng thời tạo thế đứng độc lập, tách bi ệt cho n ước này
mỗi khi châu Âu lâm vào khủng hoảng. Nước Anh ủng h ộ th ị tr ường chung châu

Âu nhưng từ chối sử dụng đồng Euro, tăng cường phối hợp với châu Âu trong lĩnh
vực quân sự trong khuôn khổ NATO. Anh cũng ủng hộ sự m ở rộng c ủa EU và các
chính sách ứng dụng chung về năng lượng, giao thông và phát tri ển xóa đói gi ảm
nghèo. Tuy nhiên, Anh không tuân thủ các yêu cầu và mệnh lệnh từ EU nếu điều
đó mang đến thiệt hại hoặc bất lợi về an ninh – kinh tế, mà s ự từ chối hạn ng ạch
phân bổ người di cư cho Anh các năm 2015, 2016 là m ột minh ch ứng đi ển hình .

16


CHƯƠNG 4. ĐÁNH GIÁ VÀ TRIỂN VỌNG CHÍNH SÁCH
CỦA ANH ĐỐI VỚI EU
4.1. Đánh giá chính sách của Anh với EU từ 1992 đến 2016
4.1.1. Những kết quả đạt được
Nhìn lại 24 năm nước Anh hội nhập vào EU (từ 1992 đến 2016), các chính sách
hợp tác về an ninh giữa hai bên không nhiều. Giai đoạn 1992-1997 trôi qua trong sự tập
trung giải quyết các vấn đề về kinh tế của các bên đối tác. Mặc dù vậy thời kỳ sau đó
cũng có một giai đoạn đỉnh cao trong hợp tác an ninh chính trị khi Thủ tướng Tony
Blair nắm quyền lãnh đạo nước Anh. Thời kỳ này (1997-2007), nước Anh đã thúc đẩy
sự tự chủ về an ninh quốc phòng cho Liên minh Châu Âu, kêu gọi thành lập Lực lượng
phản ứng nhanh của riêng EU, và chủ động sử dụng cả ngoại giao lẫn tấn công quân sự
để giải quyết các xung đột ở khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, đến giai đoạn sau, khi
bối cảnh thế giới và khu vực nảy sinh nhiều khủng hoảng, xung đột và bế tắc hơn, cần
nhiều nỗ lực hợp tác an ninh chính trị hơn, thì nước Anh lại quay về với thái độ phòng
thủ, không nỗ lực hợp tác với các thành viên EU để giải quyết vấn đề người di cư, nạn
khủng bố và ổn định kinh tế. Thái độ này của nước Anh khiến các đồng minh trong EU
khó chịu. So với thời kỳ trước, uy tín trên trường quốc tế của nước Anh đã suy giảm rõ
rệt. Lãnh đạo các nước khác trong EU nhìn nước Anh bằng con mắt ngờ vực, thiếu tin
tưởng và không gắn kết. Việc hai nước Pháp và Đức bắt tay nhau giải quyết các đàm
phán với người Nga về vấn đề Crimea năm 2014 và xung đột vũ trang tại Ukraine sau

đó là một bằng chứng rõ nét của động thái gạt nước Anh ra bên lề các đàm phán về an
ninh chính trị cấp cao trong khu vực.
Tuy nhiên, nhìn chung, việc Anh luôn có mặt trong nhóm ba nước có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất đối với châu lục (Anh – Pháp – Đức), cũng là trong nhóm nước thường
trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc cho thấy Anh đã duy trì được vị trí và ảnh
hưởng của nước này trong khu vực. Mặt khác, vai trò về quốc phòng an ninh của Anh
trong EU khá quan trọng một phần vì Anh là thành viên đồng sáng lập NATO và phần
17


khác vì Anh có truyền thống là quốc gia mạnh về quân sự. Trong một châu Âu mạnh về
kinh tế nhưng yếu về quốc phòng, chắc chắn Anh sẽ có điều kiện thể hiện và giành
được vị thế tốt hơn trong bàn cờ đàm phán các vấn đề của giới chính trị toàn cầu. Thực
tế cho thấy, về an ninh quốc phòng, Anh vẫn là cường quốc quân sự với mức chi cho an
ninh quốc phòng lớn nhất. Anh cũng đóng góp nhiều nhất về quân số cho Liên minh
Châu Âu mỗi khi xảy ra xung đột hay tranh chấp cần sự răn đe và hiện diện của quân
đội. Ngoài ra, với việc Anh là thành viên sáng lập NATO, Anh được lợi từ “cái ô an
ninh” này nhiều hơn so với các thành viên EU khác trong khi chỉ phải chịu chi phí thấp
hơn.
Về kinh tế, rõ ràng khi tham gia Liên minh EU, Anh có c ơ h ội ti ếp c ận th ị
trường rộng lớn với nhu cầu tiêu dùng cao. Thực tế là sau Thế chiến hai, xuất
khẩu hàng công nghiệp của Anh sang 6 nước sáng lập EU m ới ch ỉ chiếm 10%
tổng cung hàng hóa của Anh. Sau khi gia nhập EU, đến nay, t ỷ l ệ xu ất kh ẩu c ủa
Anh vào thị trường này đã đạt 45%. Mặt khác, gia nhập EU, Anh đ ược l ợi t ừ m ối
quan hệ và hiệp định chung EU ký kết với các quốc gia khác trên th ế giới, bao
gồm từ những nước lớn như Mỹ, Nhật, … đến các nước nhỏ như Việt Nam. Do đó,
Anh không phải đầu tư công sức, thời gian, con người … cho các ho ạt đ ộng thăm
dò, soạn thảo và ký kết các hiệp định thương mại với t ừng n ước nh ỏ lẻ n ữa. Đi ều
này chắc chắn tiết kiệm cho Anh một lượng lớn nhân lực vật lực mà vẫn đảm
bảo xâm nhập thị trường toàn cầu hiệu quả. Các vấn đề về hành chính, xuất bản,

văn thư … rườm rà đã được đội ngũ cán bộ của EU xử lý.
4.1.2. Những hạn chế
Sự suy giảm chủ quyền của Anh sau khi gia nhập EU: Ở Anh, ch ủ quy ền có
hàm ý nói đến quyền lập pháp của quốc hội. Bất c ứ chính ph ủ Anh th ời kỳ nào
khi nói đến chủ quyền cũng mặc nhiên hàm ý quyền của quốc h ội, cùng v ới nó là
nỗi e sợ bị cắt giảm quyền lực khỏi nó. Tuy nhiên, các cá nhân ch ống châu Âu l ại
thường đề cập đến “chủ quyền” dưới danh nghĩa “chủ quyền quốc gia”. Vì th ế,
người ta nói có tới hai loại chủ quyền ở Anh: chủ quy ền Quốc h ội và ch ủ quy ền
Quốc gia. Trong khi đó ở tất cả các quốc gia khác, chủ quy ền ch ỉ có m ột ý nghĩa.
Ngược lại, phe ủng hộ châu Âu cho rằng trong xã hội tích c ực h ội nh ập nh ư hi ện
nay, tất cả các quốc gia trên thế giới ít nhiều đều phải nh ượng bộ một ph ần ch ủ
quyền. Bản chất đa dân tộc của lối sống thịnh hành h ồi cuối th ế k ỷ 20, đ ầu th ế
kỷ 21 đòi hỏi một số quốc gia phải tham gia vào m ột loạt các th ỏa ước qu ốc
phòng, thương mại và kinh tế, trong đó các quốc gia ph ụ thuộc lẫn nhau. K ết qu ả
của sự phụ thuộc này tất yếu dẫn đến sự suy giảm của vị thế của Nhà n ước. Khi
vai trò và quyền lực của nhà nước suy yếu, hệ quả tiếp theo chính là s ự suy gi ảm
ý nghĩa và vai trò thực sự của “chủ quy ền quốc gia”. Trường h ợp n ước Anh cũng
vậy.
Những xung đột trong hoạch định chính sách của Anh và EU: Th ứ nh ất là
xung đột về mức độ dân chủ trong hoạch định chính sách của Anh và của EU. Anh
nổi tiếng là một nền dân chủ lâu đời. Nhưng EU thì ch ưa đ ạt đ ến m ức đ ộ dân ch ủ
như cách hiểu của người Anh [McNaughton Neil (2003), Understanding British
18


and European Political Issues, Manchester University Press, trang 209, 232-236] .
Công chúng luôn có cảm giác EU chưa “chịu trách nhiệm đủ” v ới ng ười dân. Có
quá nhiều sự bất đồng, phe cánh trong thảo luận và ban hành chính sách, đ ặc bi ệt
khi Liên minh mở rộng tới 28 thành viên. Công chúng không đ ược cung c ấp đ ủ
thông tin và cả phương thức, công cụ để thẩm định, đánh giá các ho ạt đ ộng c ủa

EU. Mặt khác, chính sách bầu cử Nghị viện Châu Âu cũng gây tranh cãi vì công
chúng không cảm thấy có đủ sự đại diện cho họ, đặc biệt là nhóm đ ảng nh ỏ,
trong Liên minh Châu Âu. Thêm nữa, ngoài Quốc h ội châu Âu đ ược dân châu Âu
bầu ra, các cơ quan và thể chế khác của EU không được hình thành “dân ch ủ” nh ư
vậy, kể cả Hội đồng Bộ trưởng. Mặc dù được hình thành t ừ nhi ều năm nay và đã
có Quốc hội riêng, EU không có Hiến pháp. Điều đó cũng có nghĩa vai trò và quan
hệ giữa các thể chế bên trong EU vẫn chưa được xác định rõ.
Từ những yếu điểm trên, Anh cùng một thành viên khác là Đan M ạch t ừng
cho rằng không thể và không nên có bất cứ s ự hòa nhập chính tr ị nào n ếu v ấn đ ề
dân chủ chưa được giải quyết.
Về kinh tế, nước Anh cho đến năm 2016 mới chỉ tham gia trọn vẹn, liên t ục,
không ngắt quãng vào Định chế Thị trường Chung Châu Âu, tham gia C ơ ch ế T ỷ
giá Hối đoái Châu Âu ngay ngày đầu gia nh ập EC vào năm 1973 nh ưng đ ến năm
1992 bị loại ra khỏi cơ chế này dưới ảnh hưởng của n ạn đầu c ơ tiền t ệ của gi ới
đầu cơ tài chính khiến đồng bảng Anh mất giá trầm trọng. Tuy nhiên, sau khi
kinh tế phục hồi và đồng bảng lên giá trở lại trong giai đoạn Thủ t ướng Tony
Blair cầm quyền, tức là khi đồng tiền của Anh đã đủ mạnh để gia nhập tr ở l ại C ơ
chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu, nước Anh đã không th ực hiện vi ệc tái nh ập này. Bài
học từ nạn đầu cơ tiền tệ năm 1992 khiến nước Anh không còn tin t ưởng vi ệc
tính giá trị đồng tiền của nước mình theo giá trị một đồng tiền khác trong Liên
minh. Cụ thể trong trường hợp Cơ chế Hối đoái tiền tệ Châu Âu, các đ ồng ti ền
đều được quy đổi dựa trên giá trị của đồng Mác Đ ức. Cùng v ới n ỗ l ực duy trì đ ồng
Bảng mạnh, sau này, khi đồng tiền chung châu Âu (Euro) đã đ ược đ ưa vào s ử
dụng, nước Anh tiếp tục từ chối không tham gia khu v ực đồng ti ền chung Châu
Âu.
Như vậy, nếu xem xét chính sách gắn kết Anh vào châu Âu giai đoạn 19922016 từ góc độ hội nhập kinh tế, hai trong số ba th ể chế lớn đã không đ ược Anh
tham gia. Bằng việc chỉ tham gia Định chế Thị trường Chung Châu Âu và đ ứng
ngoài Cơ chế Hối đoái tiền tệ Châu Âu cũng nh ư Khu v ực đ ồng Euro, n ước Anh
được cho là đã tránh được một khủng hoảng kinh tế trầm tr ọng h ơn khi toàn
châu Âu lâm vào suy thoái kéo dài sau khủng hoảng tài chính toàn c ầu 2008. Vi ệc

này càng khiến người Anh tin tưởng vào t ư duy kinh tế th ực d ụng c ủa mình
nhưng cũng càng làm cho các đồng minh châu Âu cảm thấy xa cách h ọ. Có th ể nói,
các chính sách đối ngoại của Anh với EU về kinh tế trong th ời kỳ 1992-2016 cho
thấy một nước Anh khá lửng lơ, không có ý đ ịnh và kế hoạch h ội nh ập sâu vào
EU.
19


Trên góc độ xã hội, khi ký Hiệp ước Maastricht, nước Anh đã chấp nh ận
thực thi Chính sách gắn kết Anh vào EU trên bình diện văn hóa xã h ội ở m ức cao.
Vì một trong những trụ cột của Hiệp ước Maastricht chính là c ột tr ụ v ề “b ốn t ự
do” – tự do luân chuyển con người trong EU, t ự do luân chuy ển lao đ ộng, t ự do
luân chuyển hàng hóa và dịch vụ, và cuối cùng là t ự do luân chuy ển v ốn trong EU.
Tuy nhiên, cũng tại thời điểm ký kết này, nước Anh vẫn giữ cho mình th ế phòng
thủ riêng. Thủ tướng John Major chấp nhận ký Hiệp ước Maasstricht nh ưng ch ưa
đồng ý tham gia Hiến chương Xã hội của EU. Đến năm 1997, khi Th ủ t ướng Tony
Blair lên nắm quyền điều hành nước Anh, các nỗ lực hội nh ập sâu vào EU b ằng
cách chấp nhận Hiến chương Xã hội mới được xúc tiến. Ngay c ả khi đã tham gia
Hiến chương Xã hội, Anh vẫn giữ lại cho mình một sự phòng ngừa khi ban hành
chính sách visa riêng vào Anh, tức là không tham gia khối các n ước Schengen, m ột
định chế cho phép các công dân mang quốc tịch của một n ước thành viên thu ộc
EU nhưng đã ký kết Định chế Schengen được tự do di chuy ển trong kh ối này.
Bằng cách không tham gia Khu vực tự do di chuy ển Schengen, n ước Anh đã ch ặn
lại một trong “bốn tự do” kể trên – tự do di chuy ển c ủa con ng ười trong EU c ủa
Hiệp ước Maastricht. Như vậy, một lần nữa, nước Anh tham gia nh ưng ch ưa tr ọn
vẹn vào Hiệp ước Maastricht. Nước Anh vẫn giữ thái độ thăm dò và phòng ng ừa
trước nỗ lực hợp tác và hội nhập sâu của cả Liên minh Châu Âu. Chính sách g ắn
kết của Anh vào EU, nhìn từ góc độ này, là sự gắn kết h ời h ợt.
4.2. Đánh giá ảnh hưởng của chính sách Brexit đối với Anh, khu vực và thế
giới

4.2.1. Đối với nước Anh
Không phải ngẫu nhiên mà các quan chức Anh tỏ ra lúng túng trước tiến
trình ly khai, đưa nước Anh ra khỏi EU. Có thể nói, đây là m ột tr ường h ợp vô cùng
đặc biệt chưa có tiền lệ. Vì Brexit là cú sốc lớn, không ai tiên li ệu tr ước, th ậm chí
với cả những người bỏ phiếu ủng hộ Brexit, nên việc xử lý nó th ế nào hoàn toàn
không có trong tư tưởng và hoạch định chiến lược của Chính ph ủ Anh. Trong b ối
cảnh đó, tân Thủ tướng kế nhiệm David Cameron là Theresa May đã ph ản ứng
phù hợp: tạm hoãn kích hoạt điều 50 Hiệp ước Lisbon, bổ nhiệm chính th ủ lĩnh
của Brexit vốn là cựu Thị trưởng London chịu trách nhiệm cho tiến trình đàm
phán với EU hậu Brexit. Tuy nhiên, sự lúng túng trong qu ản tr ị nhà n ước, qu ản tr ị
doanh nghiệp và đời sống nhân dân hiện đã và đang gây ra nh ững b ất an không
nhỏ ở nước Anh. Nếu tình hình này không sớm được ổn định, hậu quả c ủa nó
chắc chắn không hề nhỏ.
4.2.2. Đối với EU
Điều đáng lo ngại trong trường hợp Brexit là sự thu nh ỏ, phá v ỡ kết cấu
khu vực của nó đang báo hiệu hiệu ứng domino tại chính châu Âu và các khu v ực
khác. Trong quá khứ, truyền thống của khu vực là m ở r ộng. Nh ưng nay, m ột khu
vực mẫu mực như EU lại đang mở đầu một tiền lệ tiêu cực ch ưa từng đ ược
nghiên cứu hay xét đến. Mặt khác, việc Anh, một quốc gia mạnh, m ột n ước l ớn
rút ra khỏi Liên minh Châu Âu chắc chắn đã gây ch ấn động không nh ỏ đ ến tâm lý
20


ngại việc, không còn muốn gánh vác sứ mệnh và trọng trách d ẫn dắt, phát tri ển
khu vực nữa, đặc biệt khi EU bây giờ giống như một gia đình mà ng ười lao đ ộng
tích cực thì ít, người “phụ thuộc” và người “ăn theo” thì nhiều.
Ngoài ra, bối cảnh thế giới mới với nợ công tăng cao ở mọi quốc gia trên
thế giới, gồm cả thành viên của EU và những nước giàu như Mỹ, Nh ật, sự d ư th ừa
năng lực sản xuất hàng hóa toàn cầu, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ, s ự
phức tạp của thị trường tài chính đang trong quá trình chuy ển hóa, v ấn n ạn di c ư

đang dần bị xem là một cuộc xâm lăng đầy nghịch lý khi ng ười nghèo đ ến chi ếm
chỗ của người giàu… đang đặt chủ nghĩa Khu vực vào một bối cảnh m ới ch ưa có
tiền lệ, chưa từng được biết đến trong lịch sử. Để tránh m ột cú sốc Brexit nh ưng
trên bình diện toàn cầu, các nhà tư tưởng, các nhà kỹ trị đang ph ải ngồi l ại đ ể tìm
phương cách giải quyết sớm nhất trong khả năng có thể.
Tóm lại, thời gian gần một năm kể từ sự kiện Brexit ch ưa dài, ch ưa đ ủ đ ể
các nguy cơ, thách thức của Brexit bộc lộ đầy đủ. Cũng vì thế, nh ững đánh giá
thấu đáo về nó còn ở thời tương lai. Tuy nhiên, phải kh ẳng đ ịnh ngay r ằng k ết
quả Brexit đã đặt cả Anh và châu Âu cùng lý t ưởng của ch ủ nghĩa Khu v ực vào th ế
suy yếu tạm thời.
4.3. Triển vọng chính sách của Anh đối với EU trong th ời gian t ới
Từ quan điểm cá nhân, tác giả luận án cho rằng nước Anh sẽ không nh ượng
bộ EU trong các đàm phán thương mại và kinh tế sau Brexit. Th ứ nh ất, châu Âu
ngày nay đã suy giảm sức mạnh khá nhiều sau khủng hoảng tài chính th ế gi ới
năm 2008. Thứ hai, với vấn đề nợ công và cuộc khủng hoảng ng ười di c ư hi ện
vẫn chưa được giải quyết, EU đang dần biến mình thành một thị tr ường kém hấp
dẫn, nhiều bê bối và phức tạp. Nước Anh, trong khi đó, vẫn là m ột c ường qu ốc v ề
kinh tế, vẫn duy trì được đồng Bảng mạnh và thị trường tài chính thông su ốt.
Cũng theo tác giả luận án, các phương án ly khai hay h ợp tác nh ư hi ện nay
sẽ không diễn ra. Khả năng cao là Anh và EU sẽ phối hợp một phần, ch ủ y ếu d ưới
danh nghĩa NATO và trong các hoạt động của Hội đồng bảo an Liên h ợp quốc
4.4. Gợi ý chính sách cho Việt Nam trong chính sách đ ối v ới Anh và EU
Việt Nam hoàn toàn có thể tranh thủ các thế mạnh và vị thế chính trị đáng
nể trọng của nước Anh trên chính trường thế giới để góp thêm tiếng nói cho các
chính sách đối ngoại của nước mình vận hành hiệu quả h ơn. Về các th ế m ạnh
của Anh trong lĩnh vực giáo dục, y tế, Việt Nam có th ể c ử thêm các chuyên gia và
nghiên cứu viên sang Anh học tập, nhất là các lĩnh vực Anh có uy tín nh ư đi ều
hành nhà nước và chính phủ, nghiệp vụ và quản lý ngân hàng, quản lý th ị tr ường
vốn và thị trường chứng khoán, sản xuất dược phẩm, v.v…
Với EU, Việt Nam cần đẩy mạnh các hoạt động thương mại v ới EU ngay t ừ

bây giờ, tập trung vào các mặt hàng truyền thống đã có ti ếng c ủa Vi ệt Nam t ại
châu Âu như may mặc và da giày. Tuy nhiên, việc thăm dò và t ừng b ước đ ưa các
sản phẩm khác từ nền nông nghiệp đa dạng và các sản ph ẩm th ủy h ải s ản phong
phú của Việt Nam vào thị trường có sức mua lớn này ph ải đ ược xúc ti ến và tr ở
thành hoạt động thường xuyên của Việt Nam tại EU. Quảng bá cho du l ịch Vi ệt
21


Nam cũng là một cách khác để thu hút khách du l ịch, khách ngh ỉ d ưỡng châu Âu
đến Việt Nam, vừa đem lại ngoại tệ mạnh vừa tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động trong nước, đồng thời nâng cao được hiểu biết chung của b ạn bè
quốc tế về Việt Nam.
Tiểu kết chương 4
Tính đến trước thời điểm Brexit, ngoại giao Anh hoạt đ ộng có hiệu qu ả vì
đã đạt được phần lớn các mục tiêu chiến lược đề ra, tiếp tục đ ưa n ước Anh phát
triển thịnh vượng, từng bước lấy lại vị thế đã mất của thời kỳ hoàng kim tr ước
đó. Nếu xét thêm các yếu tố chưa thuận lợi như dân số không lớn, diện tích trung
bình, số lượng đảng phái nhiều dẫn đến đấu tranh và bất ổn liên miên trên đ ấu
trường chính trị trong nước thì những thành tựu này của ngoại giao Anh càng
phải được ghi nhận. Trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội, Anh đã đ ảm b ảo
được các yêu cầu tối thiểu từ phía EU để duy trì quyền thành viên, và đ ể ti ếp c ận
và tận dụng các lợi thế của thị trường chung châu Âu. Chính sách h ội nh ập có
chừng mực của Anh cũng đã giúp nước Anh duy trì v ị th ế t ương đ ối đ ộc l ập, đ ủ
để không bị ảnh hưởng quá mạnh từ các khủng hoảng của EU như vấn đề n ợ
công, vấn đề tị nạn và sự suy yếu của khu vực đồng Euro. Mặc dù nh ững biện
pháp cách ly nước Anh với phần còn lại của châu lục này không nh ận đ ược s ự
đồng thuận trong khu vực và thế giới, nước Anh vẫn kiên quyết duy trì nh ững
chính sách tách biệt một phần đó để đảm bảo chủ quyền và an ninh t ối đa cho
dân Anh.
Mặc dù Brexit diễn ra đột ngột, biến nước Anh t ừ th ế ch ủ động thành lúng

túng và bị động trước một bối cảnh không hề được lường trước nh ưng quá trình
đàm phán vẫn còn ở phía trước, và dự kiến sẽ kéo dài trong nhi ều năm. N ước Anh
chắc chắn sẽ có đủ thời gian để cân nhắc và cùng EU xây d ựng l ịch trình và các
thỏa thuận phù hợp cho cả hai.

KẾT LUẬN
Đề tài của luận án “Chính sách của Anh đối với EU từ 1992 đến 2010” tập trung nghiên
cứu các chính sách đối ngoại của Anh đối với EU, với tư cách là những đối tác độc lập trong
quan hệ quốc tế, trong khoảng thời gian hơn hai mươi năm và đã rút ra một số kết luận như
sau:
Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Anh được phát triển dựa trên các quan điểm chính
trị lớn chi phối các hoạch định chính sách đối ngoại xuất phát từ lý thuyết và nhận thức về chủ
quyền, lợi ích quốc gia và bản sắc dân tộc, và các hệ lý thuyết lớn có ảnh hưởng liên tục, qua
lại, tương tác lẫn nhau gồm lý thuyết của Chủ nghĩa Hiện thực và Chủ nghĩa Tự do trong quan
hệ quốc tế. Hướng tiếp cận của hoạch định chính sách đối ngoại của Anh với EU trong thời kỳ
này dựa trên ba cấp độ (cá nhân – quốc gia – hệ thống (khu vực và thế giới)). Yếu tố cá nhân
(nguyên thủ quốc gia) thường đóng vai trò như cầu nối giữa hai yếu tố còn lại. Quá trình
tương tác giữa ba yếu tố nổi lên vấn đề cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng giữa chúng với
nhau: Nếu một yếu tố đủ mạnh để lấn át hai yếu tố còn lại, yếu tố ấy sẽ là nhân tố chủ đạo
quyết định chính sách. Trong trường hợp của Anh, yếu tố cá nhân đã là nhân tố chủ đạo trong
phát triển chính sách đối ngoại của Anh với EU trong thời gian Thủ tướng Tony Blair cầm
quyền (1997-2007). Yếu tố EU (tức yếu tố khu vực – hệ thống quốc tế) quyết định chính sách

22


này trong giai đoạn phát triển mạnh của Liên minh Châu Âu từ 1992 đến 1997. Tuy nhiên, đến
giai đoạn 2010-2016, yếu tố quốc gia vị kỷ ở Anh trỗi dậy, trong khi hai yếu tố còn lại suy
yếu, đã tạo thành Chính sách Ly Khai Brexit như thế giới đã chứng kiến vào tháng 6 năm
2016.

Thứ hai, chính sách hội nhập của Anh vào EU giai đoạn 1992-2016 trải qua những thời
kỳ phát triển không đều nhau, có những giai đoạn cầm chừng như trong khoảng 1992-1997
(trong nhiệm kỳ của thủ tướng John Major), giai đoạn phát triển mạnh với đặc trưng là chính
sách hội nhập tích cực, đưa nước Anh vào vị trí trung tâm châu Âu trong các năm từ 1997 đến
2007, và giai đoạn quay trở lại với hội nhập có chừng mực như thời kỳ 2008-2016 sau này.
Nửa cuối năm 2016 chứng kiến chính sách ly khai Brexit của Anh ra khỏi EU. Chính sách
diễn ra đột ngột do kết quả của cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-6-2016 trên phạm vi toàn nước
Anh. Trong khi chính sách hội nhập vào EU chủ yếu được giới lãnh đạo và tinh hoa trong
chính quyền Anh hoạch định và thực thi, chính sách Brexit lại do làn sóng dân túy và những
người dân bình thường của nước Anh kiến tạo.
Thứ ba, chính sách của Anh đối với EU trên các lĩnh vực nổi lên một số đặc điểm sau:
Các chính sách hòa nhập về kinh tế có nhiều khởi sắc hơn cả do nước Anh có lợi ích lớn tại
Thị trường Chung Châu Âu. Nước Anh đã làm tốt chính sách đóng góp cho ngân sách EU
hàng năm, và tuân thủ các quy định về chất lượng, mẫu mã hàng hóa và dịch vụ xuất vào thị
trường EU. Tuy nhiên Anh vẫn không nỗ lực hội nhập sâu với EU về kinh tế. Anh từ chối
không tham gia Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu và Khu vực đồng tiền chung châu Âu với
mục đích phòng ngừa các rủi ro và giữ cho nước Anh ở vị thế tương đối độc lập với EU về
kinh tế. Về an ninh chính trị: một mặt, Anh ủng hộ EU có khả năng phòng vệ tốt hơn. Mặt
khác, Anh tỏ ra cương quyết giữa vũng lập trường phòng thủ cho châu Âu nên dựa vào nền
tảng của NATO và từ chối hỗ trợ kế hoạch xây dựng quân đội riêng của Liên minh Châu Âu
do Pháp và Đức khởi xướng. Từ góc độ này, Anh đã khiến EU phát triển không đồng đều giữa
kinh tế và an ninh phòng thủ, đồng thời làm ảnh hưởng đến thiện cảm của các nước thành viên
khác trong EU đối với Anh. Trên các lĩnh vực khác như hợp tác tư pháp, luật, chống tội phạm
và khủng bố, v.v… Anh vẫn duy trì chính sách hợp tác có chừng mực của mình, chỉ tham gia
sâu vào những lĩnh vực hoặc hoạt động có lợi cho Anh như chia sẻ thông tin tình báo, tội
phạm. Anh tỏ ra đặc biệt cứng rắn trong các vấn đề về biên giới và tiếp nhận hạn ngạch người
tị nạn từ EU. Các công dân nhập cư từ các quốc gia khác trong EU đến làm việc ở Anh cũng
phải chịu một số quy chế và quy định khác với công dân Anh. Tóm lại, Anh duy trì vị thế
tương đối độc lập với EU trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến an ninh, xã hội.
Thứ tư, sự kiện Brexit đã đặt cả Anh và EU vào tình thế khó khăn chưa được đề phòng

trước. Có một số khả năng về hợp tác của Anh với EU trên các lĩnh vực an ninh, chính trị,
kinh tế và xã hội hậu Brexit. Về cơ bản, việc hợp tác giữa Anh và EU là đương nhiên vì nhiều
mối quan hệ và ràng buộc về lịch sử, kinh tế, xã hội, con người trong quá khứ và hiện tại. Tuy
nhiên, sẽ không có khả năng hai bên hợp tác sâu rộng và hiệu quả như trước. Nước Anh sẽ tiếp
tục nghiêng về phía ly khai khỏi châu Âu trong ngắn hạn khi những khủng hoảng ở lục địa này
vẫn còn trầm trọng. Về lâu dài, chỉ có hợp tác kinh tế giữa hai bên có khả năng vẫn như trước
trừ khi một hoàn cảnh đặc biệt nào đó khiến Anh và EU buộc phải xích lại gần nhau hơn.
Cuối cùng, ngoài việc tổng kết các chính sách đối ngoại của Anh đối với EU trong giai
đoạn 1992-2016, đề tài này đã nêu ra một số dự báo có căn cứ khoa học về quan hệ Anh – EU
trong tương lai, theo đó, hai bên sẽ cố gắng giải quyết vấn đề tách Anh ra khỏi Liên minh
trong hòa bình, hợp tác và cố gắng không làm phương hại tới cả hai về kinh tế, chính trị, an
ninh và xã hội. Mối quan hệ của hai đối tác sau khi Anh hoàn toàn rời khỏi EU được dự báo sẽ
vẫn dựa trên trào lưu chung của quan hệ quốc tế hiện nay là hợp tác, chia sẻ trách nhiệm dù
mức độ tin cậy lẫn nhau có thể không còn như trước. Nghiên cứu cũng gợi ý các phản ứng
chính sách phù hợp cho Việt Nam trong quan hệ với Anh và EU sau này để tận dụng các cơ
hội hợp tác với cả hai.

23


×