1. Phần mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài.
“Văn học là nhân học”.Văn học có vai trò quan trọng trong đời sống và
trong sự phát triển tư duy của con người.
Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng
trong việc giáo dục quan điểm tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời là
môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các
môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và
ngược lại các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đạt ra yêu
cầu tăng cường tính thực hành giảm lý thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức
với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.
Mục tiêu của môn Ngữ văn: góp phần hình thành những con người có
trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ ra đời hoặc tiếp tục cho họ
học lên bậc cao hơn. Đó là những người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương,
qúy trọng gia đình, bạn bè; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng
tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ
phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết
rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đâu có năng lực cảm thụ
các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, có năng lực thực hành và năng lực sử
dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy, giao tiếp. Đó cũng là những người
có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc
Những đổi mới đồng bộ về giáo dục THCS và việc xây dựng chương trình
biên soạn lại SGK các môn học theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết về đổi mới phương pháp dạy học.
Đặc biệt trong chương trình Ngữ văn THCS được xây dựng theo tinh
thần tích hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí kiểu văn bản và tương
ứng với kiểu văn bản là thể loại tác phẩm chứ không phải là sự lựa chọn theo
lịch sử văn học về nội dung. Ngoài yêu cầu về tính tư tưởng, phù hợp với tâm lý
lứa tuổi THCS còn có nội dung là tính cập nhật, gắn kết với đời sống, đưa học
sinh trở lại những vấn đề quen thuộc, gần gũi hàng ngày, vừa có tính lâu dài mà
mọi người đều quân tâm đến.
Văn bản Nhật dụng trong chương trình ngữ văn THCS mang nội dung
“gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng
trong xã hội hiện đại”, hướng người học tới những vấn đề thời sự hằng ngày mà
mỗi cá nhân, cộng đồng đều quan tâm như môi trường, dân số, sức khoẻ cộng
1
đồng quyền trẻ em... Do đó những văn bản này giúp cho người dạy dễ dàng đạt
được mục tiêu: tăng tính thực hành, giảm lý thuyết, gắn bài học với thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế đó tôi muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn để trang bị
cho mình PPDH có hiệu quả những văn bản Nhật dụng.
Hiện nay học sinh có xu hướng xem nhẹ những môn xã hội nói chung,
môn Ngữ văn nói riêng. Cũng chính vì thế mà chất lượng học văn có chiều
hướng giảm sút. Học sinh không say mê, yêu thích môn học mà say mê vào
những môn mang xu hướng thời cuộc như tiếng Toán, Lý, Hóa, Anh, Tin học ....
Chính vì thế lại càng đòi hỏi người giáo viên đặc biệt là giáo viên Ngữ văn phải
tạo được giờ học thu hút học sinh, làm cho học sinh mong chờ đến giờ học. Điều
này đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề nghiệp, tìm ra được
những thuận lợi - khó khăn trong giờ học để kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm
cho mình.
Chương trình SGK THCS đưa vào học một số văn bản mới, đó là văn bản
Nhật dụng. Văn bản này chiếm số luợng không nhiều (chỉ chiếm 10% trong
chương trình SGK THCS), nhưng trước đó lí luận dạy học chưa từng đặt vấn đề
PPDH văn bản nhật dụng. Cho nên giờ giảng dạy và học tập văn bản nhật dụng
gặp không ít khó khăn. Nhiều ý kiến cho rằng: “chất văn” trong văn bản nhật
dụng không nhiều, nếu không chú ý dễ biến giờ Ngữ văn thành bài thuyết minh
về một vấn đề lịch sử, sinh học hay pháp luật, dẫn đến hiệu quả các tiết dạy học
các loại văn bản này chưa cao.
Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy chương trình Ngữ văn thay sách hơn
mười năm, tôi nhận thấy mình và các đồng nghiệp còn bộc lộ rất nhiều hạn chế
cả về phương pháp và kiến thức, nhất là phương pháp dạy các văn bản Nhật
dụng.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Kinh
nghiệm dạy học văn bản Nhật dụng ở trường THCS” để góp phần nâng cao hiệu
quả giờ dạy văn bản Nhật dụng và để học sinh yêu thích giờ học văn.
1.2. Điểm mới của đề tài.
Trước đây đã có nhiều đồng nghiệp với nhiều đề tài hướng đến vấn đề dạy
văn bản Nhật dụng. Song dựa trên những đề tài, sáng kiến của đồng nghiệp, tôi
đã mạnh dạn ứng dụng “Kinh nghiệm dạy học văn bản Nhật dụng ở trường
THCS” để góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy văn bản Nhật dụng cho bộ môn
của mình và để học sinh yêu thích giờ học văn. Điểm mới của đề tài là việc đưa
ra những giải pháp cụ thể khi dạy một văn bản nhật dụng ở bậc THCS. Đó là
trong các tiết dạy giáo viên chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần
2
gũi với học sinh nhằm tác động một cách có hiệu quả. Hơn nữa giáo viên cần
gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống. Từ đó, những vấn đề thời sự cập
nhật của cá nhân và cộng đồng hiện đại được khơi dậy, sẽ đánh thức và làm giàu
tình cảm và ý thức công dân, cộng đồng trong mỗi người học giúp các em dễ
hoà nhập hơn với cuộc sống xã hội mà chúng ta đang sống, có kỹ năng thái độ
ứng xử phù hợp theo tình huống. Nghĩa là giáo viên phải phát huy được tính tích
cực và chủ động của tất cả các em, khích lệ khả năng tư duy, khả năng tự học, tự
sáng tạo của bản thân.
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng
Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp, tôi nhận thấy một
số thực trạng sau:
*. Giáo viên.
+ Giáo viên coi các văn bản này là một thể loại cụ thể giống như truyện,
kí ...
+ Giáo viên thuờng chú ý khai thác và bình giảng trên nhiều phương diện
của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng
đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh.
+ Quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà
giáo viên chú ý nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản
chưa đầy đủ.
+ Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự mở rộng .
+ Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như
các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho HS.
+ Về phương tiện dạy học mới chỉ dừng lại ở việc dùng bảng phụ, tranh
ảnh minh hoạ trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem những
đoạn băng ghi hình sẽ sinh động hơn rất nhiều. Ví dụ như văn bản “Động Phong
Nha”, “ca Huế trên sông Hương”... Nhưng hầu hết giáo viên không chú ý đến
vấn đề này.
+ Giáo viên còn có tâm lý phân vân không biết có nên sử dụng phương
pháp giảng bình khi dạy những văn bản này không và nếu có thì nên sử dụng ở
mức độ như thế nào?
+ Giờ dạy tẻ nhạt, không thực sự thu hút sự chú ý của học sinh.
*. Học sinh: Chưa chú ý đến việc học, các em còn chủ quan, lơ là.
3
Các em không mấy hứng thú với văn bản Nhật dụng, đặc biệt là vấn đề nóng
bỏng bức thiết gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. Một số em hiểu cảm
nhận được vấn đề song kỹ năng vận dụng vấn đề trong cuộc sống còn yếu.
Khả năng tư duy sáng tạo của các em còn hạn chế.
Khảo sát chất lượng bộ môn đầu năm 2016 - 2017 của ba lớp khối 7 ở
trường tôi đang dạy cho thấy chất lượng còn thấp.
Lớp
7a/39
7b/39
7c/36
4
4
2
Giỏi Khá
20
23
16
TB
11
10
10
Yếu
4
1
6
Kém
0
1
2
2.2. Giải pháp đã thực hiện.
2.2.1. Nắm vững sơ lược về văn bản nhật dụng.
Văn bản nhật dụng là gì? Văn bản Nhật dụng không phải là một khái niệm
chỉ thể loại hay kiểu văn bản. Nói đến văn bản Nhật dụng trước hết là nói đến
tính chất nội dung của văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi, bức
thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng xã hội hiện đại
như: thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý... Văn
bản Nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản.
2.2.2. Hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn THCS.
Hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK ngữ văn THCS tồn tại dưới nhiều
kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể là văn bản thuyết minh (Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử, Ca Huế trên sông Hương, Động Phong Nha), văn bản biểu
cảm (Bức thư của thủ lĩnh da đỏ, Mẹ tôi, Cổng trường mở ra), văn bản nghị luận
(Đấu tranh cho một thế giới hoà bình; Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền
được bảo vệ và phát triển của trẻ em). Đó có thể là một bài báo thuyết minh
khoa học (Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch, thuốc lá), nhưng cũng
có thể là một văn bản văn học thuộc loại tự sự (Cuộc chia tay của những con búp
bê)... Từ các hình thức đó, những vấn đề thời sự cập nhật của cá nhân và cộng
đồng hiện đại được khơi dậy, sẽ đánh thức và làm giàu tình cảm và ý thức công
dân, cộng đồng trong mỗi người học giúp các em dễ hoà nhập hơn với cuộc sống
xã hội mà chúng ta đang sống.
Hệ thống các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS:
4
Đề tài nhật dụng của
văn bản
- Cầu Long Biên-chứng nhân - Di tích lịch sử
lịch sử
6
- Bức thư của thủ lĩnh da đỏ
- Quan hệ giữa thiên
Ngữ văn 6
nhiên và con người
- Động Phong Nha
- Danh lam thắng cảnh
Lớp
Tên văn bản
- Cổng trường mở ra
- Mẹ tôi
7
- Cuộc chia tay của những con
Ngữ văn 7
búp bê
- Ca Huế trên sông Hương
- Thông tin về ngày trái đất năm
2000
8
- Ôn dịch, thuốc lá
Ngữ văn 8
- Nhà trường
- Người mẹ
- Quyền trẻ em
- Văn hoá dân tộc
- Môi trường
-Tệ nạn xã hội
- Bài toán dân số
- Đấu tranh cho một thế giới hoà
bình
- Phong cách Hồ Chí Minh
- Dân số
- Bảo vệ hoà bình, chống
chiến tranh
- Hội nhập với thế giới
9
và bảo vệ bản sắc văn
Ngữ văn 9
hoá dân tộc
- Tuyên bố thế gíơi về sự sống - Quyền sống của con
còn, quyền được bảo vệ và phát người
triển của trẻ em.
Bảng thống kê trên cho thấy các văn bản nhật dụng được phân phối dạy
học đều khắp ở các khối lớp, bình quân mỗi khối lớp được học đọc – hiểu 3 văn
bản. Ý nghĩa nội dung các văn bản này đều là những vấn đề gần gũi, quen thuộc,
bức thiết đối với con người và cộng đồng xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển
về tâm lý và nhận thức của học sinh, các vấn đề đựơc đề cập trong các văn bản
Nhật dụng ngày một phức tạp hơn.
2.2.3. Nắm vững đặc điểm nội dung và hình thức của văn bản nhật
dụng.
Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 6.
5
“Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử” là văn bản mở đầu cho cụm bài
văn bản Nhật dụng được dạy học ở lớp 6. Đây là bài viết giới thiệu cây cầu Long
Biên, một di tích lịch sử nổi tiếng và quen thuộc ở thủ đô Hà Nội với vai trò là
nhân chứng đau thương của việc thực dân Pháp xây dựng cây cầu sắt với quy
mô lớn, nhằm phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của chúng, nhất
là nhân chứng lịch sử gian lao và hào hùng của dân tộc ta trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Bằng các sự kiện, các tư liệu chính xác
về cây cầu, lồng trong các hình ảnh nhuần thấm cảm xúc suy tư của tác giả, cầu
Long Biên đã hiện lên như một hình tượng sống động và chân thực, vừa gần gũi
vừa thiêng liêng trong cảm nhận của mỗi người đọc Việt Nam thuộc nhiều thế
hệ, nhất là thế hệ trẻ, bồi đắp thêm không chỉ tình yêu đối với câu Long Biên
của thủ đô đất nước mà còn khơi dậy ở họ lòng tự hào cùng ý thức giữ gìn và
quảng bá đối với các di tích lịch sử trên đất nước yêu quý của chúng ta.
Nội dung ấy toát lên từ lối văn thuyết minh đan cài tư liệu với hình ảnh và
cảm xúc của người viết, mà nếu nhìn từ góc độ phương thức biểu đạt thì đó sẽ là
kiểu thuyết minh có kết hợp miêu tả và biểu cảm, nếu quan niệm về thể loại văn
học thì đây là bài bút kí.
“Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” là bức thư của thủ lĩnh Xi–at-tơn trả lời tổng
thống thứ 14 của nước Mĩ, đựơc xem là một trong những văn bản hay nhất về
thiên nhiên và môi trường. Nhìn dưới góc độ phương thức biểu đạt thì đây là văn
bản biểu cảm kết hợp với miêu tả và tự sự. Văn bản đã toát lên một ý nghĩa sâu
sắc: Con người phải sống hoà hợp với thiên nhiên, phải chăm lo bảo vệ môi
trường và thiên nhiên như bảo vệ chính mạng sống của mình.
“Động Phong Nha” là bài giới thiệu về “Đệ nhất kì quan” của tỉnh Quảng
Bình với bảy cái nhất : hang động dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, bãi cát
bãi đá rộng và đẹp nhất, có những hồ ngầm đẹp nhất, hang khô rộng và đẹp nhất,
thạch nhũ tráng lệ và đẹp nhất, sông ngầm dài nhất. Phương thức biểu đạt thuyết
minh kết hợp với miêu tả và biểu cảm không chỉ cung cấp cho bạn đọc những
hiểu biết tỉ mỉ về danh thắng Phong Nha mà còn gợi tưởng tượng và ham muốn
khám phá một không gian thiên tạo kì thú đang thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, nhà thám hiểm, khách du lịch trong và ngoài nước.
Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 7.
“Cổng trường mở ra”là bài văn ghi lại tâm trạng hồi hộp của một người
mẹ trong đêm chuẩn bị cho con khai trường để vào lớp Một. Phương thức biểu
đạt của văn bản này là biểu cảm.
6
Vậy ý nghĩa nhật dụng của bài văn là gì? Người mẹ đã hồi hộp trong cái
đêm trước ngày con vào lớp Một đâu chỉ vì lo lắng cho con mà còn có niềm vui
về ngôi trường thân yêu đã lưu giữ bao kỉ niệm thân thương của đời mẹ, niềm hy
vọng vào con, mái trường thân yêu sẽ mở ra ánh sáng và tương lai cho mỗi con
người. Đó là ý nghĩa cập nhật của văn bản nhật dụng này.
“Mẹ tôi”được trình bày dưới dạng một bức thư. Từ việc phạm lỗi của đứa
con đối với mẹ mà người cha bộc lộ cảm xúc và suy tư về tình sâu nghĩa nặng
của người mẹ . Xét về thể loại thì đây là bài tuỳ bút, còn xét về phương thức
biểu đạt thì đây là văn bản biểu cảm.
Từ những lời tâm tình, khuyên nhủ của người cha đã hiện lên hình ảnh
một người mẹ cao cả và lớn lao. Người mẹ ấy đã thức suốt đêm khi con bị ốm
và đau đớn quằn quại vì lo sợ mất con. Người mẹ ấy có thể làm tất cả, có thể
chịu mọi đau khổ bất hạnh để cho con đỡ đau đớn, để cho con sống hạnh phúc...
Vì thế “ ngày buồn thảm nhất tất sẽ là ngày mà con mất mẹ và tình cảm thiêng
liêng cao quý hơn cả là tình cảm yêu thương kính trọng đối với cha mẹ”. Đó
cũng là nội dung cập nhật của văn bản này.
“Cuộc chia tay của những con búp bê” là truyện ngắn. Thành công của
văn bản này là sự kết hợp nhuần nhuyễn của phương thức biểu đạt tự sự với
miêu tả và biểu cảm. Truyện viết về nỗi đau tinh thần tuổi thơ sống thiếu tình
cảm của cha mẹ. Nhưng chính từ bi kịch ấy, những đứa trẻ vẫn giữ được tâm
hồn trong sáng vị tha, tình cảm anh em càng thêm gắn bó. Đằng sau câu chuyện
về tình anh em gắn bó trong sự tan vỡ của gia đình, truyện “Cuộc chia tay của
những con búp bê” toát lên vấn đề quyền sống của trẻ em đang bị đe doạ trong
một xã hội hiện đại đang cần đến sự quan tâm của mọi người.
“Ca Huế trên sông Hương” là văn bản thuyết minh giới thiệu một nét đẹp
trong văn hoá cổ truyền xứ Huế, đó là dân ca Huế. Đặc sắc của dân ca Huế
không chỉ là sự phong phú của các điệu hò, điệu lí, không chỉ là sự hoà nhập của
hai dòng nhạc dân gian và nhạc cung đình mà còn là cách sinh hoạt độc đáo của
nó: thời gian ban đêm, không gian trên sông Hương, người đàn, người hát và
nghe cùng ngồi trên thuyền.
Đọc bài văn này, học sinh hiểu thêm rằng cố đô Huế không chỉ có các
danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng mà còn nổi tiếng bởi các làn
điệu dân ca và âm nhạc cung đình. Ca Huế là một sản phẩm tinh thần đáng trân
trọng cần được bảo tồn và phát triển. Từ đó HS có nhu cầu mở rộng hiểu biết
dân ca các vùng miền đất nước và củng cô thêm tình yêu đối với truyền thống
văn hoá dân tộc.
7
Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 8.
“Thông tin về ngày trái đất năm 2000” là văn bản thuyết minh trình bày
về tác hại của bao bì ni lông đối với môi trường và sức khoẻ con người. Đã đến
lúc chúng ta phải nhìn nhận lại thói quen dùng bao bì ni lông để có hành động
thiết thực bảo vệ môi trường sống của chúng ta bằng cách hưởng ứng lời kêu
gọi: “Một ngày không dùng bao bì ni lông”. Thông điệp này chính là nội dung
nhật dụng của văn bản “Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000”.
“Ôn dịch ,thuốc lá” là một bài thuyết minh cung cấp cho bạn đọc những
tri thức khách quan về tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ và có thể làm suy
thoái đạo đức con người. Không dừng ở đó văn bản này còn thể hiện tinh thần
trách nhiệm của người viết đối với sức khoẻ cộng đồng khi ông trực tiếp bày tỏ
thái độ đối với thuốc lá mà ông gọi là một thứ “ôn dịch”, và kiến nghị “Đã đến
lúc mọi người phải đứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này”.
Tác giả đã sử dụng thủ pháp thuyết minh quen thuộc như: liệt kê, so sánh,
lời văn vẫn sử dụng các thuật ngữ khoa học nhưng dễ hiểu do được giải thích cụ
thể, kết hợp trong đó là lời bình luận mang sắc thái biểu cảm rõ rệt. Tất cả được
viết bằng tri thức và tâm huyết của của một nhà y học nổi tiếng, và điều đó làm
nên sức thuyết phục của bài văn này.
Ý nghĩa nhật dụng của văn bản này không chỉ là cảnh báo cho mỗi người
về một nạn dịch có sức tàn phá sức khoẻ cộng đồng, gây thành tệ nạn xã hội mà
còn góp phần cổ động cho chiến dịch truyền thông chống hút thuốc lá đang diễn
ra rộng khắp hiện nay.
“Bài toán dân số” từ câu chuyện vui về một bài toán cổ liên hệ sang
chuyện không vui về việc gia tăng dân số trên trái đất bằng một tính toán lô gic
sau: Một bàn cờ có 64 ô, nếu số thóc trong mỗi ô tăng theo cấp số nhân công bội
là 2 thì tổng số thóc nhiều tới mức có thể phủ kín bề mặt trái đất => trái đất lúc
đầu chỉ có 2 người, nếu loài người cũng tăng theo cấp số nhân ấy thì tổng dân số
sẽ đạt ô thứ 30 (năm1995) và ô thứ 31 (năm 2015) => nếu cứ để dân số tăng như
thế thì đến một ngày 64 ô của bàn cờ sẽ bị lấp kín và khi đó mỗi người chỉ còn
một chỗ ở với diện tích như một hạt thóc trên trái đất.
Mục đích của sự tính toán này là báo động về nguy cơ bùng nổ và gia tăng
dân số của thế giới. Vì thế “Bài toán dân số” được xem là một văn bản nhật
dụng phục vụ cho chủ đề “dân số và tương lai của nhân loại”. Bài toán này càng
có ý nghĩa thời sự đối với các nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam.
8
Về hình thức, “Bài toán dân số” là một văn bản nghị luận sử dụng phương
thức lập luận. Nhưng bài nghị luận xã hội này dễ hiểu bởi sự đan cài rất tự nhiên
của phương thức tự sự.
Các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn 9:
“Phong cách Hồ Chí Minh” là bài viết nhằm trình bày cho bạn đọc hiểu
và quý trọng vẻ đẹp của phong cách Bác Hồ. Bài văn có hai phần nội dung.
Phần thứ nhất nói về vẻ đẹp trong phong cách văn hoá của Bác, đó là sự kết hợp
hài hoà giữa phẩm chất dân tộc và tính nhân loại trong tiếp nhận văn hoá. Phần
thứ hai nói về vẻ đẹp trong phong cách sinh hoạt của Bác, đó là sự kết hợp hài
hoà giữa bình dị và hiện đại trong nếp sống.
Nội dung trên được thể hiện trong hình thức thuyết minh kết hợp nghị
luận khiến cho sự trình bày các biểu hiện vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh trở
nên sáng rõ cùng tình cảm kính trọng, ngưỡng mộ không che giấu của tác giả.
Từ nội dung trên, chủ đề nhật dụng cần được khai thác đó là: vấn đề quan
hệ giữa hội nhập thế giới và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, một vấn đề không
chỉ có ý nghĩa cập nhật mà còn có ý nghĩa lâu dài thường xuyên của các thế hệ,
nhất là lớp trẻ nước ta trong học tập rèn luyện theo phong cách Bác Hồ.
“Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” là bài viết của nhà văn đã từng
đoạt giải Nô-ben văn học (G.Mác-két).Ở đây, phương thức lập luận với cách lập
luận sắc sảo, chứng cớ xác thực, cách so sánh tương phản đã giúp tác giả luận
giải một cách thuyết phục và rõ ràng về hiểm hoạ hạt nhân đối với nhân loại. Sự
tốn kém và tính phi lý của cuộc chạy đua chiến tranh hạt nhân, từ đó kêu gọi
hành động để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới hoà bình.
Chủ đề nhật dụng của văn bản này chính là đấu tranh cho hoà bình, chống
chiến tranh để bảo vệ hoà bình. Ngăn chặn và xoá bỏ nguy cơ chiến tranh hạt
nhân. Đó là những vấn đề cấp thiết và nóng hổi trong đời sống chính trị của
nhân loại và của mỗi dân tộc, mỗi con người.
“Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của
trẻ em” được trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em của tổ
chức Liên hợp quốc ngày 30/9/1990, chứng tỏ sự quan tâm toàn diện, sâu sắc
của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em trên toàn thế giới.
Bản tuyên bố đã đề cập đến thực trạng bất hạnh của cuộc sống trẻ em trên
thế giới, về khả năng có thể cải thiện được cuộc sống của chúng, cùng các giải
pháp cụ thể. Những nội dung này đã được luận giải một cách hợp lý hợp tình
theo yêu cầu nghị luận xã hội nhằm làm rõ quan điểm vì trẻ em của cộng đồng
9
thế giới, nhưng để dễ hiểu, dễ truyền bá đến đại chúng, bản tuyên bố đã trình
bày các quan điểm dưới dạng mục và số.
Các nội dung được thảo trong bản tuyên bố đã toát lên điểm tích cực và
nhân đạo của cộng đồng quốc tế (trong đó có Việt Nam) về sự sống còn, quyền
được bảo vệ và phát triển của trẻ em. Đó là ý nghĩa cập nhật cũng như ý nghĩa
lâu dài của văn bản này.
2.2.4 Các giải pháp cụ thể:
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: Hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ
đồng nghiệp từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu nhược điểm trong bài
dạy của các đồng nghiệp .
- Phương pháp so sánh: với phương pháp này tôi có thể phân loại, đối chiếu
kết quả nghiên cứu.
- Ngoài ra tôi còn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài
liệu, thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng
đồng nghiệp.
*/ Xác định mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng
Nhấn mạnh vào hai khía cạnh chính: Trang bị kiến thức và trau dồi tư
tưởng , tình cảm thái độ cho học sinh. Nghĩa là qua văn bản, cung cấp và mở
rộng hiểu biết cho học sinh về những vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra
trong đời sống xã hội hiện đại, từ đó tăng cường ý thức công dân đối với cộng
đồng.
VD: Với văn bản “Ca Huế trên sông Hương”, mục tiêu bài học được xác
định như sau:
HS hiểu từ văn bản “Ca Huế trên sông Hương”:
- Ca Huế với sự phong phú về nội dung, giàu có về làn điệu, tinh tế trong
biểu diễn và thưởng thức là một nét đẹp của văn hoá cố đô Huế, cần được giữ
gìn và phát triển.
- Từ đó mở rộng vốn hiểu biết về văn hoá Huế và âm nhạc dân gian các
vùng miền, bồi đắp tình yêu đối với xứ Huế và các giá trị văn hoá dân tộc.
-Văn bản nhật dụng có thể được viết ở dạng thuyết minh kết hợp với nghị
luận ,miêu tả, bộc lộ cảm xúc.
*/ Chuẩn bị
Về kiến thức:
10
Giáo viên không chỉ xác dịnh đúng mục tiêu kiến thức của văn bản mà
còn phải trang bị thêm cho mình những kiến thức mở rộng, hỗ trợ cho bài giảng
như thu thập các tư liệu có liên quan đến bài giảng trên các nguồn thông tin đại
chúng (phát thanh, truyền hình, mạng Internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm
nhạc...)
VD: Khi dạy bài “Ca Huế trên sông Hương”, giáo viên còn phải tạo thêm
nguồn tư liệu bổ sung cho bài học trên các kênh âm nhạc dân gian các vùng
miền, các bài hát về Huế, các bài báo và tranh ảnh về Huế. Đồng thời giao cho
học sinh sưu tầm tư liệu có liên quan đến nội dung văn bản .
Về phương tiện dạy học:
Các phương tiện dạy học truyền thống như: SGK, bảng đen, phấn trắng
chưa thể đáp ứng đựơc hết yêu cầu dạy học văn bản nhật dụng. Giáo viên có thể
chuẩn bị thêm các tư liệu khác như: đĩa nhạc CD, phim ảnh và thu thập, thiết
kế, trình chiếu trên các phương tiện dạy học điện tử sẽ khiến các em hào hứng
hơn trong giờ học.
VD: Khi thiết kế bài học “Động Phong Nha” được cài đặt thêm các hình ảnh
hoặc các đoạn phim ghi hình những đặc sắc của hang động này trên nền nhạc
êm ả, mở rộng thêm hình ảnh hang động nổi tiếng của Quảng Ninh (như động
Thiên Cung - Hạ Long) thì sẽ thu hút sự chú ý của học sinh.
- Khi thiết kế bài “Ca Huế trên sông Hương” giáo viên cần chuẩn bị đĩa nhạc
CD về tiếng hát của các làn điệu dân ca Huế và các làn điệu dân ca đặc sắc trên
các miền đất nước( như chèo, dân ca Nam Bộ, dân ca quan họ).
=> Có thể nói khi dạy học văn bản nhật dụng, giáo viên có nhiều cơ hội hơn cho
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, nhờ đó mà các bài học văn
bản Nhật dụng sẽ khắc phục được tính thông tin tẻ nhạt đơn điệu. Từ đó, hiệu
quả dạy học văn bản nhật dụng sẽ tăng lên.
*/ Phương pháp dạy học
Dạy học phù hợp với phương thức biểu đạt của mỗi văn bản
Trong dạy học văn bản ,không thể hiểu nội dung tư tưởng văn bản nếu
không đọc từ các dấu hiệu hình thức của chúng. Nên dạy học văn bản nhật dụng
cũng phải theo nguyên tắc đi từ dấu hiệu hình thức tới khám phá mục đích giao
tiếp trong hình thức ấy.
- VD: Văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” được tạo theo
phương thức biểu đạt tự sự thì hoạt động dạy học sẽ được tiến hành theo các yếu
tố tự sự đặc trưng như: sự việc, nhân vật, lời văn, ngôi kể; từ đó hiểu chủ đề nhật
11
dụng đặt ra trong văn bản này là vấn đề quyền trẻ em trong cuộc sống của gia
đình thời hiện đại .
- Còn khi văn bản được tạo lập bằng phương thức thuyết minh như “Ôn
dịch, thuốc lá” thì hoạt động dạy học tương ứng sẽ là tổ chức cho học sinh tìm
hiểu nội dung văn bản từ các dấu hiệu hình thức của bài thuyết minh khoa học
như: tiêu đề bài văn (Em hiểu như thế nào về đầu đề “Ôn dịch ,thuốc lá”? Có
thể sửa nhan đề này thành “Ôn dịch thuốc lá” hoặc “Thuốc lá là một loại ôn
dịch” được không? Vì sao?); vai trò của tác giả trong văn bản thuýêt
minh( Theo em, tác giả có vai trò gì trong văn bản này?); đặc điểm của lời văn
thuyết minh (Đoạn văn nào nói về tác hại của thuốc lá đến sức khoẻ con người?
Tác hại này được phân tích trên những chứng cớ nào?Các chứng cớ được nêu
có đặc điểm gì? Từ đó cho thấy mức độ tác hại như thế nào của thuốc lá đến
sức khoẻ con người? Ở đây tri thức nào về tác hại của thuốc lá hoàn toàn mới
lạ đối với em?)...
- Mặc dù các phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản nhật dụng là
thuyết minh và nghị luận nhưng các văn bản này thường đan xen các yếu tố của
phương thức khác như: tự sự ,biểu cảm. Khi đó giáo viên cũng cần chú ý đến
yếu tố này.
- Ví dụ: Văn bản thuyết minh “Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử” có
lời văn giàu cảm xúc và hình ảnh thì người dạy sẽ nhấn vào các chi tiết miêu tả
và biểu cảm cụ thể như:
+ Những cuộc chiến tranh nào đã đi qua trên cầu Long Biên?
+ Việc nhắc lại những câu thơ của Chính Hữu gắn liền với những ngày
đầu năm 1947- Ngày trung đoàn Thủ đô vượt cầu Long Biên đi kháng chiến- đã
xác nhận ý nghĩa chứng nhân nào của cầu Long Biên?
+ Số phận của cầu Long Biên trong những năm chống Mĩ được ghi lại
như thế nào?
+ Lời văn miêu tả trong đoạn này có gì đặc biệt?
+ Từ đó cầu Long Biên đóng vai trò chứng nhân chiến tranh như thế
nào?
+ Tác giả đã chia sẻ tình cảm như thế nào đối với cây cầu chứng nhân
này?
- Văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” có kết hợp phương thức
lập luận với biểu cảm thì người dạy sẽ chú ý phân tích lí lẽ và chứng cớ, từ đó
tìm hiểu thái độ của tác giả, ví dụ khi phân tích phần cuối của văn bản:
12
- Phần cuối của văn bản có hai đoạn. Đoạn nào nói về “chúng ta” cần
chống vũ khí hạt nhân? Đoạn nào là thái độ của tác giả về việc này?
- Em hiểu thế nào về “bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới
không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình ,công bằng”?
- Ý tưởng của tác giả về việc mở “một nhà băng lưu trữ trí nhớ có thể tồn
tại được sau thảm hoạ hạt nhân” bao gồm những thông điệp gì?
- Em hiểu gì về thông điệp đó của ông?
- Giáo viên có thể giảng tóm tắt:
- Bản đồng ca ....đó là tiếng nói của công luận thế giới chống chiến tranh,
là tiếng nói yêu chuộng hoà bình của nhân dân thế giới.
- Thông điệp về một cuộc sống đã từng tồn tại trên trái đất và về những
kẻ đã xoá bỏ cuộc sống trên trái đất này bằng vũ khí hạt nhân.
- Tác giả là người yêu chuộng hoà bình, quan tâm sâu sắc đến vũ khí hạt
nhân với niềm lo lắng và công phẫn cao độ.
. Vận dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng của phân môn văn học
như: phương pháp đàm thoại, đọc diễn cảm, giảng bình. Trong đó chú trọng
nhất phương pháp đàm thoại bằng hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo mức độ từ dễ
đến khó rồi liên hệ với đời sống.
VD: trong bài “Ca Huế trên sông Hương”(có thể đặt các câu hỏi: Cách
biểu diễn thưởng thức ca Huế có gì giống và khác so với dân ca quan họ miền
Bắc? Từ tác động của ca Huế, em nghĩ gì về sức mạnh của dân ca nói chung đối
với tâm hồn con người?)
Khi dạy văn bản nhật dụng, giáo viên không nên quá coi trọng phương
pháp giảng bình. Bởi bình văn là tỏ lời hay ý đẹp về những điểm sáng thẩm mĩ
trong văn chương, đối tượng bình phải là những tác phẩm mang vẻ đẹp văn
chương. Theo tôi, một số văn bản giàu chất văn chương (như: Mẹ tôi, Cổng
trường mở ra, Ca Huế trên sông Hương, Cuộc chia tay của những con búp bê)
giáo viên có thể sử dụng lời bình giảng nhưng không nên đi quá sâu. Còn đối
với những văn bản nhật dụng không nhằm cảm thụ văn chương thẩm mĩ (như
Bài toán dân số, Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch, thuốc lá) thì
giáo viên không thể bình phẩm đựơc những vẻ đẹp hình thức nào cũng như
những nội dung sâu kín nào trong đó. Do vậy, khi dạy giáo viên cần chú ý điều
này để tránh sa vào tình trạng khai thác kĩ lưỡng văn bản mà giảm đi tính chất
thực tiễn, gần gũi và cập nhật của văn bản Nhật dụng.
13
Mục đích của việc dạy văn bản nhật dụng là giúp học sinh hoà nhập hơn
nữa với đời sống xã hội nên giáo viên phải tạo ra không khí giờ học dân chủ, sôi
nổi, kích thích sự hào hứng của học sinh.
VD: Khi dạy bài Ca Huế trên sông Hương giáo viên có thể thể hiện hoặc cho
học sinh nghe một làn điệu dân ca Huế, cuối giờ có thể tổ chức cho học sinh thi
hát các làn điệu dân ca ba miền. Thi sưu tầm vẻ đẹp của văn hoá Huế ...
Như vậy để giờ dạy văn bản nhật dụng đạt kết quả cao, đáp ứng mục tiêu
bài học, người giáo viên cần phải đa dạng hoá các biện pháp dạy học, các cách
tổ chức dạy học, các phương tiện dạy học theo hướng hiện đại hoá: thu thập, sưu
tầm các nguồn tư liệu để minh hoạ và mở rộng kiến thức. Coi trọng đàm thoại cá
nhân và nhóm, chú ý tới câu hỏi liên hệ ý nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn
của cá nhân và cộng đồng xã hội hiện nay. Sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản,
nhanh gọn để minh hoạ cho chủ đề của văn bản. Tăng cường phương tiện dạy
học điện tử như máy chiếu để gia tăng lượng thông tin trong bài học, tạokhông
khí dân chủ, hào hứng trong giờ học.
Đây là một văn bản mà tôi đã dạy và thấy có hiệu quả cao.
Văn bản: CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG (Ngữ văn 7- tập 2)
A. Mục tiêu cần đạt:
HS hiểu từ văn bản Ca Huế trên sông Hương:
- Ca Huế với sự phong phú về nội dung, giàu có về lần điệu, tinh tế trong
biểu diễn và thưởng thức một nét đẹp của văn hoá cố đô Huế cần được giữ gìn
và phát triển.
- Từ đó mở rộng vốn hiểu biết về văn hoá Huế và âm nhạc dân gian các
vùng miền, bồi đắp tình yêu đối với xứ Huế và các giá trị văn hoá dân tộc.
- Văn bản nhật dụng có thể sử dụng phương thức thuyết minh, kết hợp với
nghị luận, miêu tả và bộc lộ cảm xúc.
B. Chuẩn bị:
1. Giáo viên:
- Nắm chắc ý nghĩa nhật dụng của văn bản để có định hướng đúng khi
khai thác nội dung bài học.
- Sưu tầm tư liệu: Đĩa CD gồm cá bài hát dân ca Huế và dân ca các vùng
miền khác, tranh ảnh về xứ Huế, về cảnh thưởng thức ca Huế (trên máy chiếu).
2. Học sinh:
- Chia đoạn và trả lời trước câu hỏi trong SGK
- Tự sưu tầm các bài hát dân ca Huế, dân ca ba miền, tập hát để tham gia
trò chơi.
14
C. Phương pháp:
- Đàm thoại, phân tích.
D. Tiến trình bài dạy:
1. Ổn định tổ chức: Sĩ số
2.Kiểm tra bài cũ:
3. Bài mới:
GV giới thiệu bài: Qua những áng văn chương, chúng ta đã được thưởng
thức biết bao vẻ đẹp của nhiều vùng đất nước. Ở miền Bắc tiêu biểu là Hà Nội,
có cốm vòng thơm dẻo, có mùa xuân dịu dàng... Ở miền Nam, tiêu biểu có Sài
Gòn- cảnh ngọc ngà, lòng người nhân hậu. Còn ở miền Trung, vùng đất ở giữa
thân hình Tổ quốc Việt Nam, cố đô Huế thì sao? Nhiều nghệ sĩ xưa nay từng gọi
Huế là vùng đất thơ mộng. Một trong những chất mộng và thơ ấy của Huế là
những bài ca dao - dân ca, là những cuộc biểu diễn và thưởng thức ca nhạc Huế
trên sông Hương vào những đêm trăng trong gió mát. Đấy là một nét đẹp văn
hoá của xứ Huế. Học bài bút kí Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh,
chúng ta sẽ được tham dự, thưởng thức một nét sinh hoạt đậm màu sắc văn hoá
độc đáo của miền đất miền Trung ruột thịt ấy.
15
?/Nêu xuất xứ của văn bản
I/Tìm hiểu chung
1.Tác giả:
2. Xuất xứ văn bản.
GV: Hướng dẫn đọc
-Chậm, truyền cảm
3. Đọc- tìm hiểu chú thích
?/Chú thích trong SGK cho em hiểu gì về
ca Huế?
? Ngoài ra, em còn biết gì về xứ Huế?
- Nổi tiếng với các lăng tẩm dưới triều
Nguyễn, các món ăn, nhiều danh lam
thắng cảnh thu hút nhiều khách du lịch
đến tham quan.
? Nhận xét về phương thức biểu đạt?
- Kết hợp nhiều phương thức: nghị luận,
tự sự, miêu tả, biểu cảm
?/Văn bản này thuộc thể loại gì?
- Bút kí
?/Ca Huế trên sông Hương là một văn bản 4. Thể loại: Bút kí
nhật dụng.Vì sao có thể khẳng định như
vậy?
-Vì nó đề cập đến vấn đề gần gũi trong
cuộc sống hôm nay. Ca Huế là một nét
đẹp văn hoá mang bản sắc dân tộc
?/Xứ Huế vốn nổi tiếng về nhiều thứ
nhưng ở đây tác giả chú ý đến sự nổi tiếng
của dân ca Huế. Vì sao tác giả lại quan
tâm đến dân ca Huế?
?/Trong văn bản này những đặc điểm nào
về hình thức và nội dung của ca Huế được
giới thiệu?
- Dân ca mang đậm bản sắc tâm hồn và tài
hoa của con người ở mỗi vùng đất. Huế là
một trong những cái nôi dân ca nổi tiếng ở
nước ta.
- Rất nhiều điệu hò, điệu lí thể hiện lòng
khát khao, nỗi mong chờ, hoài vọng tha
thiết của tâm hồn Huế .
?/Em có nhận xét gì về lời văn trong 16
phần
văn bản này?
II/ Phân tích:
1/ Huế - cái nôi dân ca.
- Điệu hò: hò giã gạo, ru em, đưa
linh...
- Điệu lí: lí hoài nam, lí hoài
xuân...
=>Thể hiện nỗi khát khao, mong
chờ hoài vọng tha thiết của tâm
hồn Huế.
- Phép liệt kê kết hợp giải thích,
bình luận=>giới thiệu sự phong
phú về làn điệu, sâu sắc về nội
dung mang nét đặc trưng về
miền đất và tâm tâm hồn Huế.
4.Củng cố:
- Thi sưu tầm vẻ đẹp của văn hoá Huế.
- Thi giới thiệu về nhã nhạc cung đình Huế - di sản văn hoá thế giới.
- Thi hát dân ca các vùng miền.
5. HDVN
- Học bài.
Chuẩn bị giờ sau: Soạn bài “Quan âm Thị Kính”
Như vậy qua thực nghiệm giảng dạy, sau khi áp dụng các phương pháp
dạy ngữ văn trên ở lớp 7-1; 7-2; 7- 4 tại trường tôi nhận thấy rằng những giải
pháp tôi đưa ra trong đề tài hoàn toàn có thể thực hiện được đối với học sinh
trường tôi. Kết quả thực nghiệm cho thấy học sinh rất hào hứng với giờ học, gắn
bài học với thực tiễn rất nhanh và hiệu quả. Giờ học trở nên sôi nổi hơn, tạo tâm
lý nhẹ nhàng thoải mái cho học sinh ở những tiết học sau.
Kết quả điều tra cho thấy cứ 10 em học sinh thì đã có 8 em nhanh nhạy
trong vận dụng kiến thức bài học vào hiểu, xử lý tình huống thực tế. Các em
không e ngại khi tiếp xúc giờ học văn bản Nhật dụng mà chủ động học bài,
chăm chú nghe giáo viên giảng, hăng say phát biểu, hứng thú nhiều hơn với giờ
học Ngữ văn, chất lượng nâng lên rõ rệt.
Lớp
71/35
72/32
74/34
7
2
1
Giỏi Khá
25
8
8
TB
2
18
21
Yếu
0
2
4
Kém
0
0
0
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Như vậy cùng với việc đổi mới nội dung, PPDH giáo viên chúng ta càng
tích cực tìm ra những bước tiến mới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong
nhà trường. Tuy nhiên đây là một số kinh nghiệm nhỏ giúp giáo viên khi dạy
văn bản Nhật dụng mà tôi áp dụng ở trường tôi với khối 7 trong năm học qua.
Qua thời gian thực hiện chúng tôi thấy học sinh hứng thú học tập và chất lượng
giáo dục nâng lên rõ rệt.
Song khi sử dụng các biện pháp nêu trên giáo viên cần lưu ý các yêu cầu
sau:
17
- Bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, có hệ thống câu hỏi bài tập yinhf huống phù
hợp.
- Nắm vững các phương pháp dạy học, sử dụng linh hoạt, sáng tạo các hình
thức dạy học.
- Nắm vững tâm sinh lý học sinh, nhận thức của học sinh.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa văn học để các em được thể
hiện mình.
- Ngôn ngữ giảng dạy của giáo viên phải trong sáng, có sức hấp dẫn đối với
học sinh.
- Trong mỗi bài dạy cần xây dựng được hệ thống các câu hỏi chặt chẽ từ dễ
đến khó nhằm kích thích các đối tượng học sinh trong quá trình học.
- Giáo viên phải xác định được nội hàm kiến thức trong bài dạy, hướng học
sinh đến với cái chân - thiện - mĩ.
3.2. Kiến nghị
- Các cấp lãnh đạo, chuyên môn tổ chức nhiều hơn những buổi tọa đàm, hội
thảo về phương pháp dạy học để giáo viên có cơ hội bàn bạc, thảo luận tìm ra
những phương pháp dạy học hay, có cơ hội học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa văn học để các em được
thể hiện mình, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi trong việc dạy học một tiết Ngữ
văn bám sát các đối tượng học sinh trong một lớp, nhằm nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn, chắc chắn có không ít sai sót. Rất mong các đồng chí, đồng
nghiệp, hội đồng khoa học các cấp góp ý, bổ sung giúp đỡ để đề tài hoàn thiện
và áp dụng vào thực tế dạy học, giúp tôi hoàn thiện hơn về phương pháp dạy học
của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
18
19