Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của
cách mạng Việt Nam
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Nguồn gốc lý luận
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội trong đó có 3 yếu tố chủ yếu :
- Chủ nghĩa yêu nước , truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã
của dân tộc Việt Nam. Đây là những giá trị cao đẹp được hình thành lâu đời trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế
thừa và phát triển những giá trị cao quý đó dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội, qua
đó hình thành nên tư tưởng của mình về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
- Trước khi tiếp cận với chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, Hồ Chí Minh
đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương Đông, qua “thuyết
đại đồng” của Nho giáo với các mệnh đề “thiên hạ vi công”, “dân vi quý”, “các
tận sở năng, các thú sở nhu”, v.v… Về tổ chức kinh tế, ở phương Đông đã từng
tồn tại hàng nghìn năm chế độ công điền, chế độ “tỉnh điền”. Chính chế độ ruộng
công là cơ sở kinh tế tạo nên sự cố kết cộng đồng bền chặt của người Việt Nam
- Sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới Hồ Chí Minh
đã tìm thấy trong học thuyết của Mác lý luận về một xã hội nhân đạo, trong đó “sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”; đã tìm thấy
trong học thuyết về chủ nghĩa xã hội của Mác con đường để thực hiện ước mơ giải
phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, nô lệ, đem lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho đông đảo nhân dân.
b. Nguồn gốc thực tiễn
Giữa năm 1923, Người đến Liên Xô, lần đầu tiên được biết đến hiệu quả tích
cực của “chính sách kinh tế mới” của Lênin, được chứng kiến con đường xây dựng
chế độ xã hội mới.
- Sau khi hệ thống độ xã hội chủ nghĩa hình thành và không ngừng phát
triển, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tham khảo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các
nước đó để làm phong phú thêm tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kết luận: Trên đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
2. Chủ nghĩa xã hội sự lựa chọn duy nhất của cách mạng Việt Nam
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Từ năm 1858 đến cối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến chống
pháp của nhân dân ta rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ
Trương Định, Nguyễn Trung Trực,…ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,…ở miền Trung, đến Nguyễn Thiện Thuật,
Nguyễn Quang Bích ở miền Bắc các cuộc nổi dậy đều được thiúc đẩy bởi tinh thần
yêu nước nhiệt thành và chí căm thù sôi sục, song trước sau đều lần lượt thất bại vì
chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo họ là các sỹ phu Văn thân,
mang ý thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân, chưa thật tin vào lực
lượng của nhân dân nên cũng chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng của kháng
chiến. Phần đông họ hành động vì “nghĩ mình là bậc thế thần” nên phải phụng
chiếu Cần vương, coi “ giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào ngại” họ chiến đấu
với cái tinh thần thung dung tựu nghĩa, ngay ở những phút hào sảng nhất cũng đã
thấy bộc lộ ít nhiều mùi vị thất bại chủ nghĩa.
- Bước sang đàu thế kỉ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc đấu tranh
vũ trang của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác lần thứ nhất. Xã
hội Việt Nam có sự chuyển biến phân hoá, giai cấp công nhân, các tầng lớp tiểu tư
sản và giai cấp tư sản dân tộc bắt đầu manh nha. Cùng lúc đó, các “tân thư” và
cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu tràn vào Việt Nam.
Phong trào yêu nước chống Phápcủa nhân dân ta chuyển dần sang hướng dân chủ
tư sản, với sự xuất hiện của các phong trào như Đông Du, Đông Kinh nghĩa
thục,Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội, v.v… Người thì chủ trương trước hết
phải dựa vào Pháp để “khai dân trí, chấn dân khí , hậu dân sinh” của Phan Chu
Trinh; người thì hi vọng dựa vào sự giúp đỡ của Nhật Bản để đánh đuổi Pháp như
Phan Bội Châu. Cả hai cách đều không thực tế và sai lầm, nên đã sớm thất bại.
Ở thập kỷ đầu XX, phong trào cứu nước của nhân dân ta lâm vào thời kỳ
khó khăn nhất. Trường Đông Kinh nghĩa thục bị đóng của (12-1907), vụ Hà thành
đầu độc bị thất bại và tàn sát (6-1908), cuộc biểu tình chông thuế ở miền Trung bị
đàn áp (4-1908), căn cư nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (1-1909)
phong trào Đông Du tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất
khỏi nước Nhật (2-1909), các lãnh tụ của phong trào Duy Tân Trung Kỳ, người bị
lên máy chém (Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi…), người bị đày ra Côn Đảo
(Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn,…).
Đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản Việt Nam đã xuất hiện, bộ phận giai cấp tư
sản dân tộc cũng có tinh thần yêu nước, chống đế quốc, nhưng do địa vị của một
giai cấp tư sản ở thuộc địa, họ tỏ ra yêu đuối, không đủ sức lãnh đạo, đưa cuộc đấu
tranh chống Pháp đến thắng lợi, xây dựng một xã hội theo lý tưởng (tự do, bình
đẳng, bác ái” của cách mạng Tư sản Pháp. Từ sau năm 1925, giai cấp tư sản đã lập
ra một số đảng chính trị, đã có một số hoạt động, kể cả phát động khởi nghĩa,
nhưng đều thất bại; một là vì không tập hợp được đông đảo quần chúng , hai là vì
yêu cầu cách mạng của nhân dân lại vượt quá giới hạn giai cấp tư sản đặt ra. Từ
năm 1930 trở về sau, không còn một số đảng tư sản nào ra đời nữa. Vai trò lịch sử
của họ đã hết. Khả năng đóng góp của hoi vào cách mạng giải phóng dân tộc thì
được phát huy khi có sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản.
Nhìn ra thế giới, từ năm 1911, Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc do Tôn Dật
Tiên lãnh đạo đã lật đổ được triều đình Mãn Thanh, nhưng chưa giải thích được
mâu thuẫn cơ bản của xã hội Trung Quốc. Nước Trung Hoa vẫn là một nước nửa
thuộc địa, nửa phong kiến. Nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản,
cũng nổi lên chống đế quốc Anh, nhưng đều bị chính quyền thực dân đàn áp đẫm
máu.
Sau Cánh mạng Tháng Mười Nga 1917, chỉ có cách mạng tư sản Thỗ Nhĩ
Kỳ đã thành công vào mùa thu năm 1923 với sự ủng hộ của Liên Xô. Sau khi dành
được chính quyền, giai cấp tư sản Thổ tiến hành bắt bớ những ngườ cộng sản, giết
hại đồng chí Tổng bí thư Đảng, vứt xác xuống khe núi. “Giai cấp vô sản Thổ Nhĩ
Kỳ, người đã đóng góp rất nhiều vào cuộc đấu tranh giành độc lập thì từ nay đã bắt
buộc phải tiến hành một cuốc đấu tranh khác”.
Thất bại của các cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp của nhân dân ta đầu
thế kỷ XX đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết: đi theo con đường nào, do lực lượng
nào lãnh đạo để đưa cuộc cách mạng dân tộc giải phóng dân tộc đưa đến thắng
lợi?.
Lịch sử đặt ra nhu cầu bức thiết phải có một hệ tư tưởng mới, một đường lối
mới đủ sức soi sáng, dẫn dắt con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc đi
đến thắng lợi.
b. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và con đường cách mạng
Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời trên cơ sở hiện thực trong xã hội tư bản
chủ nghĩa; mặt khác là kết tinh toàn bộ trí tuệ nhân loại những thành tựu khoa học
giữa thế kỉ XIX. Trong khoa học tự nhiên, các lý thuyết về tiến hoá, bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng, học thuyết tế bào, toán học, thiên văn, hàng hải…đã tác
động mạnh vào quá trình chinh phục thiên nhiên và đã thúc đẩy xã hội phát triển.
Những thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng khoa học tự nhiên đã đem
lại giá trị to lớn về phương pháp luận cho việc nghiên cứu các lĩnh vực khoa học và
xã hội.
Vận dụng những quan điểm duy vật của lịch sử CácMác đã nghiên cứu
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phê phán
những di sản của các nhà kinh tế học cổ điển Anh để tìm ra quy luật nội tại của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, khám phá ra bí mật của nền sản xuất đó và hình thành lý
luận về giá trị thặng dư.
Cùng với phát kiến về duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, CácMác
đã phát hiện giai cấp công nhân hiện đại và vai trò của nó trong lịch sử và xây
dựng lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội, học thuyết cách mạng của giai cấp
công nhân. Chủ nghĩa xã hội không còn là một sự phát hiện ngẫu nhiên của một trí
tuệ thiên tài nào mà là một kết quả tất nhiên của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản. Nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học không phải là nghiên
cứu quá trình lịch sử kinh tế đã làm xuất hiện các giai cấp nói trên và cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp ấy là một kết quả tất nhiên của quá trình đó, và trong tình
hình kinh tế do quá trình đó tạo ra, tìm cho được những phương pháp, cách thức,
con đường để giải quyết những xung đột giai cấp đó trong điều kiện kinh tế - xã
hội của xã hội tư sản. Chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học cách mạng của giai cấp
công nhân trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới.
Chiến tranh thế giới thứ nhất, cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga
(1917), thành lập quốc tế III (quốc tế cộng sản) năm 1919,thành lập liên bang Xô
Viết(1920), kết thúc nội chiến và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội Nga. Lênin đã
đấu trnh chống chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản để
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm cuộc đấu tranh
của phong trào công nhân trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị - xã hội. Lênin đã xây
dựng tương đối hoàn chỉnh lý luận về xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân; về quan hệ giữa cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với cách mạng xã
hội chủ nghĩa; về liên minh giai cấp công nhân và nông dân; về ciến lược và sách
lược cách mạng trong tiến trình cách xã hội chủ nghĩa; về xây dựng nhà nước vô
sản. Lênin không chỉ bảo vệ phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn
biến lý luận từng bước trở thành hiện thực.
Từ thực tiễn đất nước Việt Nam đầu thế kỉ XX, là một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, có nền sản xuất kém phát triển. Con đường phát triển của xã hội Việt
Nam là bài toán lịch sử mà nhân dân và lực lượng cách mạng sẻ luận giải. Hồ Chí
Minh , với tinh thần yêu nước thương dân của tuổi thanh niên, đã quyết chí ra đi
tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã hoạt động trong phong trào công nhân các
nước thuộc địa, phong trào công nhân Pháp. Trong quá trình đó, chủ nghĩa yêu
nước đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. tiếp thu học thuyết cách mạng
và khoa học, soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh dần hình
thành luận điểm về cách mạng ở các nước thuộc địa, con đường cứu nước của các
dân tộc thuộc địa. Theo người, việc cứu nước phải gắn liền với giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Do đó, “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem
lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hoà bình và hạnh phúc…”
Vận dụng lý luận về cách mạng vô sản, về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Mác –Lênin, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ đặc điểm của tình hình thực tiễn
Việt Nam đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là: tiến hành giải phóng
dân tộc, hoàn thành dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội (quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ), chứ không thể làm ngay cuộc cách mạng vô sản, thiết lập chuyên
chính vô sản và bước ngay vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội như ở các nước
tư bản phát triển
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội tính tất yếu của con đường
cách mạng Việt Nam
1. Tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành dân chủ nhân dân (1930-1954)
Từ thực tế của nước ta những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Hồ Chí
Minh nhận rõ sự bất lực của đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư
sản trước yêu cầu lịch sử. Do đó Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản; cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới
giành được thắng lợi hoàn toàn.
Như vậy, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử,
là tính tất yếu của con đường cách mạng Việt Nam. Người nêu một dự báo đầy tin
tưởng: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công việc giải phóng nữa thôi”.
a. Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hồ Chí Minh luôn thể hiện một quan điểm nhất quán cho rằng xây dựng chủ
nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội
tiền phong của giai cấp công nhân. Người viết: “chỉ có sự lãnh đạo của một đảng
biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách
mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”. Bởi vậy, khi tình hình diễn biến bất lợi
cho phong trào cách mạng Việt Nam, cuối năm 1929, Hồ Chí Minh đã triệu tập các
tổ chức cộng sản: An Nam Cộng sản đảng; Đông Dương Cộng sản đảng; Đông
Dương Cộng sản liên đoàn, để xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, tại Hương Cảng, Trung Quốc, thay mặt Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc tuyên bố lý do triệu tập Hội nghị và nêu chương trình nghị sự của
Hội nghị:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm 9 người…”
Sau mấy ngày làm việc khẩn trương. Hội nghị đã thông qua chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn
Ái Quốc dự thảo.
Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam vạch rõ tính chất, nhiệm
vụ, đối tượng của cách mạng Việt Nam, trong đó xác định chủ trương của những
người cộng sản là làm “Tư sản dân quyền cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn phong kiến
phản động, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do; tịch thu
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, quốc
hữu hoá tất cả xí nghiệp của tư bản đế quốc, lập chính phủ công nông binh, tổ chức
quân đội công nông, v.v…
Sách lược vắn tắt của Đảng nêu rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình , phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục được đại đa số dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo, làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến”
“ Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông …để kéo họ
đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
an nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng… thì phải đánh đổ. Đồng
thời Sách lược vắn tắt nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của đảng là “trong
khi liên lạc các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi
ích gì của công nông mà đi vào đường lối thoả hiệp”. Sách lược vắn tắt cũng chỉ
rõ: Đảng “phải đồng thời tuyên truyền và thực hiện liên lạc với bị áp bức dân tộc
và vô sản giai cấp thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp”.
Sách lược vắn tắt của Đảng cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược,
chỉ đạo mọi phương hướng hành động cách mạng của Đảng ta.
Điều lệ vắn tắt của Đảng ta nêu rõ tôn chỉ, mục đích của Đảng là lãnh đạo
quần chúng đấu tranh để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa thực hiện xã hội cộng
sản; quy định thể thức gia nhập Đảng; vạch rõ nhiệm vụ, quyền lợi đảng viên và kỉ
luật của Đảng , v.v…
Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 đánh dấu một bước
ngoặt vĩ đại trong phong trào công nhân và phong trào cách mạng nước ta. Sự kiện
đó chấm dứt nguy cơ chia rẽ trong phong trào công nhân và phong trào giải phóng
dân tộc, chấm dứt thời kì bế tắc, khủng hoảng đường lối đã kéo dài trong nhiều
thập kỉ. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt trong tiến trình phát
triển của cách mạng Việt Nam. Nó là nhân tố đầu tiên, quyết định đưa cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội- sự ra đời tất yếu của Nhà
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Hồ Chí Minh không có định nghĩa về chủ nghĩa xã hội với những tiêu chí
đầy đủ, toàn diện, hoàn chỉnh của một mô hình lý tưởng được xây dựng sẵn trong
tư tưởng, nhận thức để từ đó “bắt thực tiễn phải khuôn vào” như Mác-Ăngghen đã
từng phê phán. Đề cập những nội dung cơ bản, những mục tiêu lâu dài của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người viết: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã
hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không
còn đói rét, mọi người đều được ấm no hạnh phúc”. Chủ nghĩa xã hội là “không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động”, và “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn
nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay
chưa từng có trong dân tộc ta”.
Người nhận rõ đặc điểm của nước ta là kinh tế còn lạc hậu, sản xuất nhỏ là
chủ yếu nên theo Người xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “không thể làm
mau được mà phải làm dần dần”.
Để thực hiện được mong muốn đó thì vấn đề đầu tiên phải cần được giải
quyết là đất nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập, dân tộc Việt Nam hoàn toàn
được tự do. Bởi vậy, Người đã chọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Sau khi thay mặt Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, soạn thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Tuy nhiên do không đồng
nhất với quan điểm của Quốc tế Cộng sản cho nên Cương lĩnh không được Quốc tế
Cộng sản chấp nhận. Nguyễn Ái quốc đã nghiêm chỉnh chấp hành bản chỉ thị ngày
27-10-1929 thảo ra Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, và bản
Luận cương này đã được đồng chí Trần Phú thông qua ở Hội nghị trung ương
Tháng 10-1930, vẫn khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng
Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cả nước đã tiến hành đấu tranh
chống thực dân phong kiến, tạo những bước chuyển cho cách mạng Việt Nam chờ
đợi thời cơ, tiến hành nổi dậy giành chính quyền trên cả nước.
Năm 1939, tình hình thế giới diễn ra phức tạp, chiến tranh thế giới lần thứ II
nổ ra giữa hai trục Phát xít và Đồng minh. Trước sự chuyển biến mau lẹ của thế
giới Đảng ta nhận định đây là thời cơ thuận lợi nhất để toàn thể dân tộc Việt Nam
đứng lên giành lại độc lập cho đất nước. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực
tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Người đã triệu tập và chủ trì Hội
nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng (5-1941), từ phân tích tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội …trong nước. Hội nghị đi đến quyết định: cần phải thay đổi chiến
lược cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương.
Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “ Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Từ
nhiệm vụ thực tiễn của dân tộc Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt
minh, đoàn kết thống nhất mọi tổ chức, lực lượng, cá nhân yêu nước vào trong mặt
trận chống kẻ thù chung của dân tộc và giai cấp.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và của Hồ Chí Minh, toàn dân nhất
tề “đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” đưa cuộc tổng khởi nghĩa Tháng
Tám đến thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á.
c. Bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa
xã hội
- Hoàn cảnh quốc tế và trong nước những năm sau cách mạng Tháng Tám
+ Về quốc tế:
Nước Việt Nam tuyên bố độc lập và thiết lập chế độ nhân chủ nhân dân giữa
lúc chiến tranh thế giới chống phát xít sắp kết thúc.
Liên bang Xô Viết sau khi đánh thắng phát xít Đức, đang lo củng cố mặt trận
phía Tây, giúp đỡcác nước Đông Âu sau khi thoát khỏi ách phát xít.
Nước Trung Hoa láng giềng đã được giải phóng khỏi ách phát xít Nhật
nhưng còn dưới sự thống trị của tập đoàn tư bản Tưởng Giới Thạch. Cách mạng
Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đến năm 1949 mới giành được thắng lợi
trên lục địa.
Trong hoàn cảnh Quốc tế ấy, cách mạng Việt Nam không được sự ủng hộ từ
bên ngoài, Từ ngày 2-9-1945 mà đến năm 1950 chưa một nước nào công nhận nên
độc lập của Việt Nam.
+ Trong nước:
Vừa mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã bị các nước đế quốc
trong đồng minh bao vây, chống phá quyết liệt. Ở Nam Bộ, quân đội đế quốc Anh
lợi dụng danh nghĩa quân đồng minh giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở
vào. Núp sau lưng quân Anh, bọn thực dân phản động Pháp đã nổ súng ở Nam Bộ
ngày 23- 9-1945, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Ở Miền Bắc, gần 20 vạn quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa đã ồ ạt kéo
sang, cũng mượn tiếng giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, lập nên Chính
phủ phản động làm tay sai cho chúng với khẩu hiệu “Diệt Hồ,cầm Cộng”.
Chưa bao giờ trên đấ nước ta lại có nhiều quân nước ngoài và nhiều kẻ thù
như vậy.
Trong lúc đó , lực lượng mọi mặt nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ
còn rất yếu. Nền kinh tế do thực dân Pháp để lại vô cùng nghèo nàn. Lại thêm nạn
đói năm 1945 đã gây nên hai triệu người chết đói. Đời sống nhân dân chưa được
hồi phục, đất nước xác xơ, tiêu điều. Các di sản văn hoá nô dịch, cờ bạc, rượi chè,
mê tín dị đoan còn quá nặng nề. Giặc ngoài, thù trong, đất nước bị bao vây bốn
phía. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoầch được các nước trên thế giới công nhận,
chưa có quan hệ ngoại giao quốc tế. Chính quyền cách mạng ở vào một tình thế
như “ngàn cân treo sợi tóc”. Song nhân dân ta tuyệt đối tin tưởng và trông cậy vào
tay lái lão luyện của cha già dân tộc- Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nội dung chủ yếu của chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc
Trên nguyên tắc thì một chế độ chính trị cùng với những mục tiêu của nó
được xây dựng khi nó đã hoàn thành cơ bản bộ máy công quyền hợp pháp, vậy giai
đoạn trước năm 1945, chủ nghĩa xã hội chỉ có ý nghĩa như là phương hướng đi tới
của đất nước.
Vậy sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời 2-9-1945, tư tưởng về
chủ nghĩa xã hội đang chỉ đạo cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực thi nhiệm
vụ giữ vững và củng cố chính quyền Nhà nước mới và từng bước xây dựng đất
nước theo chế độ mới.
Có nước mới bàn đến kế dựng nước. lý luận cũng như thực tiễn đều chứng
minh rằng, đất nước chưa thoát khỏi ách đế quốc, phong kiến thì chưa có điều kiện
để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song, khi đất nước đã về tay nhân dân mà không
xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội thì độc lập sẽ không tồn tại, trước sau đều rơi
vào tay chủ nghĩa tư bản và dân tộc trở lại kiếp tôi đòi cho kẻ thống trị mới –chủ
nghĩa tư bản. Vì vậy, khẩu hiệu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta mà chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là: “Dân tộc là trên
hết”, “tổ quốc là trên hết” “thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu
làm nô lệ”.
Bởi vậy, vấn đề đầu tiên của một nước xã hội chủ nghĩa đó là phải xây dựng
được một chính quyền thực sự của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân lao động.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời trên cơ sở của khối liên minh công nông
và tầng lớp trí thức của dân tộc Việt Nam. Được thực hiện một cách rất dân chủ là
thông qua bầu cử, lựa chọn những người tài đức để thực hiện nhiệm vụ của dân
tộc, đề ra Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đồng thời xây dựng
chiến lựơc lâu dài. Trong chỉ thị “ Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11 1945, chủ
tịch Hồ Chí Minh và Ban thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ: “Cuộc cách mạng ấy
đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa hoàn thành độc lập” . Vì vậy,
phải lập “Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mởp rộng
Việt Minh cho nó bao gồm mọi tàng lớp nhân dân( chú trọng kéo địa chủ phong
kiến và đồng bào công giáo..) thống nhất mặt trận Việt-Miên-Lào chống Pháp xâm
lược. Kiên quyết giành độc lập, tự do hạnh phúc cho dân tộc, độc lập chính trị, thực
hiện chế độ dân chủ cộng hoà, cải thiện đời sống nhân dân”.
Kháng chiến kiến quốc là tư tưởng chỉ đạo chiến lược mới của Hồ Chí Minh
và Trung ương Đảng, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam:
Dựng nước đi đôi với giữ nước. Tư tưởng chỉ đạo đó là sự thể hiện tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vào thời điểm những năm 1945-1954. Tư
tưởng chỉ đạo đó đã phát huy sức mạnh đoàn kết, quyết tâm đẩy mạnh kháng chiến
chóng thực dân phản động Pháp, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc và xây dựng chế
độ mới.
Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
của chế độ Dân chủ Cộng hoà Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng tiền đề cho chủ nghĩa xã hội thì nhiệm vụ
của nhân dân ta lúc này là phải củng cố chính quyền nhân dân, chống thực dân
Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, sau khi xúc tiến việc xây dựng Nhà nước dân chủ
hợp hiến, xử lý bọn phản động chống đối hiện hành, củng cố chính quyền nhân
dân, thực hiện khẩu hiệu: “Chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một khối”
Từng bước xây dựng nền kinh tế mới. Từ khi cách mạng Tháng Tám thắng
lợi, Đảng và Nhà nước cách mạng đã từng bước đem quyền lợi dân chủ, nhất là
quyền dân chủ về ruộng đất cho nông dân, dân chủ chính trị cho toàn dân. Tịch thu
ruộng đất của bọn địa chủ phản động chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm
tức 25%, thực hiện chia công điền cho cả nam lẫn nữ, kêu gọi các điền chủ hiến
ruộng….
Thực hiện các chính sách kinh tế mới, Chính phủ đã ban hành chính sách
thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp, thành lập Ngân hàng quốc gia và Mậu
dịch quốc doanh. Đảng lãnh đạo thực hiện từng bước từng bước cân bằng thu chi
về tài chính, đấu tranh kinh tế với địch, ra sức giúp đở và hướng dẫn nông dân xây
dựng và phát triển các hình thức làm ăn hợp tác; khuyến khích và giúp đỡ các công
thương gia bỏ vốn phát triển sản xuất phục vụ quốc kế dân sinh.
Xây dựng nền văn hoá, giáo dục toàn dân
Hồ Chí Minh cho rằng: “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao
động được thì nghĩ, những phong tục tập quán không tốt dần dần đươc xoá bỏ…
Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó
là chủ nghĩa xã hội”. Vì lẽ đó mà đồng thời với việc phát triển kinh tế thì vấn đề
xây dựng nền văn hoá mới và đời sống mới, xoá bỏ mọi tệ nạn văn hoá nô dịch của
thực dân phong kiến, thực hiện nền giáo dục mới, phát triển phong trào bình dân
học vụ, thanh toán nạn mù chữ, diệt “giặc dốt”. Thắng lợi bước đầu của cuộc đấu
tranh xây dựng nền móng của chế độ mới và cải thiện đời sống của nhân dân có ý
nghĩa chính trị hết sức to lớn. Nhân dân được hưởng mọi quyền tự do, dân chủ và
được bảo đảm đời sống dân sinh sẽ thêm gắn bó với cách mạng , quyết tâm bảo vệ
chế độ mới, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vào đầu năm 1951, tình hình phát triển cách mạng và kháng chiến của ba
dân tộc Việt-Lào-Campuchia đã có sự thay đổi và phát triển vượt bậc. Trong khi
đó, tình hình quốc tế có những thuận lợi nhất định- Nước Cộng hoà nhân dân
Trung hoa đã ra đời. Ba nước Việt Nam, Trung Hoa, Liên Xô đã thiết lập mối quan
hệ ngoại giao từ đầu năm 1950. Giữa lúc đó Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng
quyết định triệu tập Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951). Đại
Hội đại biểu đã nghiên cứu, thảo luận và thong qua bản Báo cáo chính trị của Hồ
Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Tổng bí thư Trường Chin, Báo
cáo về tổ chức Điều lệ Đảng của Trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng- Lê Văn
Lương.
Báo cáo chính trị nêu lên hai nhiệm vụ chính tronh những nhiệm vụ mới ở
giai đoạn này là: đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, đưa Đảng ra hoạt động
công khai, lấy tên Đảng Lao động Việt Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo còn nêu rõ mục đích trước mắt, Đảng Lao động Việt
Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn; lãnh
đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến tới chủ nghĩa xã
hội.
Ngày 7-5-1954, quân ta giải phóng Điện Biên Phủ. Chiến thắn Điện Biên
Phủ là thắng lợi lớn nhất trong cuộc đọ sức toàn diện và quyết liệt nhất của quân và
dân ta với quân đội xâm lược tinh nhuệ của Pháp. Thắng lợi “Điện Biên Phủ chấn
động địa cầu” buộc Chính phủ Pháp phải kí hiệp định Giơnevơ, lập lại hoà bình ở
Đông Dương. Thực hiện Hiệp định quân đội Pháp rút khỏi toàn bộ Miền Bắc Việt
Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiếp tục thực hiện
nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai, tiến dần từng bước lên chủ nghĩa
xã hội.
Tất cả những việc làm đó đã thể hiện sự ưu điểm vượt trội của chế độ mới,
chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu của con đường cách mạng Việt Nam
(1954-nay)
a.Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết xuất phát từ
đặc điểm trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do sự đối lập về chất của
chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và chế độ sỡ hữu xã hội chủ nghĩa, nên trong lòng
xã hội cũ(tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ) không thể nảy sinh quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giai cấp công nhân phải tiến hành cách mạng
trên lĩnh vực chính trị trước, nhằm thiết lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Việc giai
cấp vô sản công nhân giành chính quyền chưa có nghĩa là đã có chủ nghĩa xã hội
hoàn chỉnh. Muốn có chủ nghĩa xã hội đầy đủ và hoàn chỉnh(cả chính trị, kinh tế,
văn hoá), giai cấp vô sản công nhân phải đi từ những tiền đề vật chất đã có và bằng
công cụ nhà nước xã hội chủ nghĩa để cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế
mới xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở cho một kiến trúc thượng tầng mới và nền văn hoá
mới xã hội chủ nghĩa. Mặt khác việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (do
tính chất toàn diện và triệt để), là một sự nghiệp cực kì khó khăn, phức tạp, đòi hỏi
phải có thời gian cần thiết. Thời gian cho công cuộc xây dựng ấy là thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳn định: “Về lý luận không thể nghi ngờ gì được
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kì quá độ nhất định. Thời
kì đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu
kinh tế -xã hội ấy. Thời kì quá độ ấy không thể nào lại là một thời kì đấu tranh giữa
chủ nghĩa tư bản đang dãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một
cách khác giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ
nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”.
b. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở
Miền Nam
+ Hoàn cảnh thế giới và trong nước
- Thế giới:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội vượt ra ngoài phạm vi
một nước và trở thành một hệ thống thế giới. Từ đó các nước xã hội chủ nghĩa
không ngừng tiến lên trên con đường xây dựng đất nước và ngày càng phát huy tác
dụng là nhân tố quyết định chiều hưóng phát triển của xã hội loài người.
Phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh phát
triển mạnh mẽ. Một số nước đã giành được độc lập. Tình hình ấy càng thúc đẩy sự
tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, hình thành nên lực lượng độc
lập dân tộc lớn mạnh.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào công nhân phong trào dân chủ phát
triển rộng khắp chưa từng thấy. “Ba lực lượng cách mạng vĩ đại trên đây cùng với
phong trào hoà bình rộng lớn trên thế giới đang tấn công dồn dập và từ nhiều phía
vào chủ nghĩa đế quốc làm thay đổi lực lượng trên thế giới