Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

TIỂU LUẬN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI CUỐI KÌ.HƯƠNG.DOCX.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.86 KB, 70 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Khép lại dòng văn học trung đại ắt hẳn mỗi trái tim bạn đọc tiếp nhận văn học đều
có một cảm xúc riêng biệt. Bởi văn học trung đại là một giai đoạn quan trọng trong
lịch sử văn học dân tộc và nhân loại bên cạnh văn học cổ đại và hiện đại. Văn học
trung đại có những đặc trưng tiêu biểu làm nên giá trị trong suốt giai đoạn lịch sử.
Tính quy phạm và bất quy phạm trong việc thể hiện tác phẩm văn học là đặc trưng
nghệ thuật của văn học trung đại Việt Nam. Tính quy phạm và bất quy phạm được
tuân thủ một cách chặt chẽ qua sáng tác của một số nhà thơ như: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà huyện Thanh Quan... Trong sáng tác của họ thường tuân
thủ rất chặt chẽ những quy tắc về vần, nhịp thơ, giọng điệu, đề tài, chủ đề... vì đây
là dòng văn chương chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn học Trung Quốc.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc nhưng qua thực tế cho thấy các
sáng tác của văn học trung đại đã vượt khỏi khuôn khổ quy phạm đem đến cho văn
học một nội dung mới cả về nội dung lẫn hình thức. Họ đã sáng tạo nên những tác
phẩm mang âm hưởng, tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam, vừa thể hiện bản
ngã cá nhân đầy bản lĩnh của mình – đó là đặc trưng của tính chất bất quy phạm
trong nền văn học trung đại mà Hồ Xuân Hương là một đại diện tiêu biểu. Tuy có
bước chân đến cửa Khổng Tử sân Trình nhưng ảnh hưởng của Nho học, về phương
diện nhân sinh, cũng như về phương diện văn chương đối với nữ sĩ hầu như không
có. Chính vì thế mà bà đã có những bức phá đối với bức thành đồng kiên cố của
niêm luật để tạo nên những vần thơ vừa mộc mạc, dân quê, gắn liền với cuộc sống
đời thường của người dân Việt Nam vừa thể hiện sự phóng túng, ngang tàng trong


cách thề hiện những khát vọng hạnh phúc đời thường của mình. Và bà đả được
mệnh danh là nhà thơ bất quy phạm nhất trong các nhà thơ bất quy phạm.
Không phải mỗi Hồ Xuân Hương mới có những vần thơ vượt qua khuôn khổ mà
còn có các thi nhân tiêu biểu như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, sau này có
Nguyễn Khuyến... Họ đã ý thức vượt lên trên để khẳng định giá trị của bản thân
mình. Những điều này người viết cũng đã được tìm hiểu trong quá trình học tập


những học phần có liên quan cũng như trong quá trình tự nghiên cứu nhưng sự tìm
tòi, học hỏi đó chỉ dừng lại ở mức độ nhất định và hạn hẹp. Bên cạnh đó, ở chương
trình học trong trường phổ thông giáo viên cần phải dạy một số tác giả, tác phẩm
liên quan đến đặc trưng về tính quy phạm và bất quy phạm mà thời gian học cho
một tiết rất hạn hẹp không thể truyền thụ hết những kiến thức quan trọng. Ngay cả
giáo viên và học sinh phải chạy đua với thời gian nên không thể bàn sâu hơn, đây
là một trong những lỗ hổng kiến thức cho các bạn học sinh ở trường phổ thông khi
tìm hiểu về đặc trưng này trong giai đoạn văn học trung đại. Do đó, để có cái nhìn
toàn diện hơn về đặc điểm của văn học trung đại cũng như muốn tìm hiểu về hồn
thơ không chỉ mang tính uyên bác mà nó còn chứa đựng những vần thơ gần gũi
với đời sống con người nên người viết chọn đề tài tính bất quy phạm trong thơ nôm
của Hồ Xuân Hương để khai thác. Nhìn nhận để học hỏi, để trân trọng những gì
ông cha ta đã sáng tạo nên sự phong phú trong văn học cũng như để lấp những lỗ
hổng kiến thức để đủ tự tin khi đứng lớp sau này, bên cạnh đó cũng mong muốn
trong quá trình tự nghiên cứu sẽ kiến giải được một số khúc mắc mà bấy lâu còn
dang dở.

2.Lịch sử vấn đề
Hồ Xuân Hương là một trong những tác gia lớn có sức ảnh hưởng trong dòng văn
học trung đại Việt Nam. Cả cuộc đời và sự nghiệp của bà để lại cho hậu thế nhiều


giá trị hữu ích. Vì vậy có rất nhiều nhà lí luận đã khai thác mọi vấn đề liên quan
đến bà để có một cái nhìn toàn diện hơn. Nhiều công trình tiêu biểu như vấn đề
dâm và tục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, hình tượng người phụ nữ, tính cách
mạng trong thơ Hồ Xuân Hương... Trong vấn đề về tính bất quy phạm trong thơ
của bà cũng đã có nhiều công trình chuyên luận khai thác cụ thể qua nhiều khía
cạnh khác nhau như con người cá nhân bản năng, phong cách thơ, ngôn ngữ thơ
Hồ Xuân Hương... Các công trình nghiên cứu nói trên đã góp phần hoàn thiện cách
hiểu chuẩn xác hơn về Hồ Xuân Hương và thơ bà. Song, các bài viết chưa tập

trung khai thác rõ về tính bất quy phạm trong thơ bà. Dựa vào những phát hiện và
tính bất quy phạm qua một số bài thơ tiêu biểu, người viết xin liệt kê một vài ý
kiến đã được phát hiện trước đó.

Thơ Hồ Xuân Hương, theo tinh thần đánh giá về tính bất quy phạm: “ Tính quy
phạm và bất quy phạm là một trong ba đặc trưng lớn của nghệ thuật văn thơ trung
đại”.

Như vậy, tính bất quy phạm trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương chưa trở thành một đề
tài khai thác của các nhà phê bình văn học, mà chỉ dừng lại ở những phát hiện
trong quá trình phân tích những bài thơ của nữ sĩ hoặc chỉ dùng để so sánh với biểu
hiện tính bất quy phạm trong quá trình nghiên cứa các tác phẩm, tác gia khác. Ví
dụ “ Biểu hiện tính quy phạm và bất quy phạm trong thơ văn Nguyễn Khuyến” .

Trên cơ sở lịch sử vấn đề đã được phân tích ở trên, người viết sẽ cố gắng tìm tòi,
phát hiện các biểu hiện tính bất quy phạm trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương để từ đó


phần nào khai thác hết sự lớn lao, táo báo trong tư tưởng; cái cụ thể, linh hoạt, tinh
vi trong suy nghĩ một cách rất phụ nữ; và cái độc đáo chỉ riêng mình thơ Hồ Xuân
Hương có được.
Đây chỉ là những bước đi ban đầu nên không thể tránh khỏi nhiều sai sót dù người
viết đã cố gắng trình bày ý tưởng, suy nghĩ của mình.

3.Mục đích nghiên cứu
Góp phần tìm hiểu về tính bất quy phạm trong văn học trung đại Việt Nam nói
chung và thơ văn Hồ Xuân Hương nói riêng. Qua đề tài này người viết còn mong
muốn được lĩnh hội sâu sắc hơn một đặc trưng văn học trung đại Việt Nam và tìm
hiểu về sự vận dụng tính bất quy phạm trong một tác giả cụ thể. Góp phần tìm hiểu
những nhân tố ành hường đến đặc trưng này trong văn học trung đại cũng như

trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. Bên cạnh đó chỉ ra được sự kế thừa và sáng
tạo của Hồ Xuân Hương trong mối tương quan với các tác giả văn học trung đại
Việt Nam.
Góp phần giải quyết được yêu cầu về nội dung, hình thức, phương pháp và những
vấn đề quan tâm nghiên cứu.
Là một giáo viên trong tương lai nên việc tìm hiểu về tính bất quy phạm trong thơ
văn Hồ Xuân Hương là một điều rất cần thiết và sẽ là một tài liệu quý báu giúp
người viết rất nhiều trong công tác giảng dạy sau này. Ngoài ra, trong quá trình
thực hiện đề tài người viết mong muốn trang bị kiến thức về phương pháp nghiên
cứu khoa học, tập làm quen với việc nghiên để hỗ trợ cho việc nghiên cứu đề tài
khác ở cấp độ cao hơn.

4.Phạm vi nghiên cứu


Về phạm vi nghiên cứu: trong giới hạn quy định của đề tài, người viết sẽ nghiên
cứu tính bất quy phạm trong thơ nôm Hồ Xuân Hương xét về quan niệm ý thức
nghệ thuật và xét về phương thức sáng tác. Để bám sát vào đề tài, người viết khảo
sát thơ chữ Nôm trong sáng tác của Hồ Xuân Hương.
Về phạm vi tư liệu: Người viết dựa vào những tư liệu đã chọn lọc liên quan đến đề
tài nghiên cứu và chủ yếu là các quyển:
Bên cạnh đó, người viết còn tham khảo thêm một số tác giả và tác phẩm trong giai
đoạn văn học trung đại như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến,..để đối chiếu, nhận định làm nổi rõ vấn đề khi thực hiện đề tài.

5.Phương pháp nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu đề tài, khảo sát và chọn lọc tư liệu tiêu biểu từ các công
trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, người viết tiến hành những phương pháp sau
để giải quyết vấn đề:
Phương pháp thống kê: nhằm phân loại, sắp xếp tài liệu có nội dung liên quan đến

đề tài giúp cho việc minh họa, dẫn chứng dễ dàng.
Phương pháp phân tích và chứng minh: để người đọc thấy được luận điểm, nhận
định của người viết đưa ra hoàn toàn là hợp lí với đề tài.
Phương pháp so sánh: So sánh thơ của Hồ Xuân Hương với những tác phẩm của
các nhà thơ trung đại để thấy thơ bà có sự kế thừa, sáng tạo và phá cách rất riêng.
Phương pháp tổng hợp: là phương pháp tập hợp, chọn lọc, tổng hợp tài liệu để giải
quyết vấn đề.

6.Bố cục


Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận.Thì phần nội dung gồm có hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Những biểu hiện tính bất quy phạm trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương


B.PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề chug
Trong dòng chảy của văn học dân tộc từ trung đại cho đến hiện đại thì văn học
trung đại chiếm giữ một vị trí rất quan trọng. Bản thân văn học trung đại có những
đặc trưng tiêu biểu, dễ nhận diện và phân biệt với các văn học trước nó hoặc sau
nó. Chính sự khác biệt đó làm nên giá trị cho văn học trung đại Việt Nam suốt một
giai đoạn lịch sử. Một trong những đặc trưng tiêu biểu làm nên diện mạo cho sự
thành công của văn học trung đại cũng như thành công nhất định cho tác giả văn
học không thể không kể đến tính bất quy phạm trong việc thể hiện tác phẩm văn
học ở phương diện nội dung và nghệ thuật.

1.Cơ sở lí luận
1.1Khái niệm bất quy phạm
Trước hết, muốn hiểu thế nào là bất quy phạm thì phải hiểu khái niệm quy phạm

như thế nào. Về khái niệm quy phạm có nhiều quan điểm khác nhau:
150 thuật ngữ văn học [1] của Lại Nguyên Ân: Quy phạm nghệ thuật là khái niệm
chỉ hệ thống những biểu trưng và ngữ nghĩa nghệ thuật được quy chuẩn, cố định
hóa. Ông còn cho rằng quy phạm nghệ thuật có vai trò to lớn đối với những thời
đại văn hóa được tổ chức nghiêm ngặt chủ yếu là văn học cổ đại và trung đại trước
chủ nghĩa lãng mạn. [1, tr 277]


Đại từ điển Tiếng Việt thì có cách định nghĩa ngắn gọn hơn: quy phạm là điều quy
định chặt chẽ, đòi hỏi phải tuân thủ [28, tr 457]
Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [23] cho quy phạm là sáo ngữ, công thức
trong trần thuật, miêu tả, định danh; sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý, đầy hoán
dụ, ví von, định nghĩa nghệ thuật làm cho lời văn mĩ lệ và tính nghi thức đòi hỏi
miêu tả từng loại nhân vật phải tuân theo yêu cầu của nhân vật ấy. [18, tr 61]. Ông
còn nêu ra một số tiêu chí trong cách miêu tả nhân vật trong văn chương trung đại
như miêu tả vua, chúa, Phật phải như thế nào, nông dân, phu sĩ như thế nào nhất
nhất đều có quy tắc nhất định.

Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam [27] cho rằng quy phạm là những quy định
bảo đảm một nơi nào đó hoạt động có tổ chức, nề nếp, đạt hiệu quả cao. Nó là một
biểu hiện của văn minh, văn hóa của mỗi người, ở mỗi cộng đồng , ở cả một xã
hội. Dùng thuật ngữ thời xưa thì nó là biểu hiện của chữ lễ. [27, tr 227]

Tóm lại, tính quy phạm trong văn học trung đại đó là công thức, một khuôn mẫu
bắt buộc những nhà thơ, những người sáng tác văn học phải tuân theo một cách
nghiêm nghặt. Tính quy phạm đó quy định về nội dung, hình thức thể hiện một
cách cụ thể cho từng thể loại văn học nhất là đối với những thể loại dùng trong thi
cử mà các sĩ tử cần phải học thuộc.

Tuy nhiên, trong quá trình sáng tạo văn học, ông cha ta đã không tuân thủ theo

những quy định đó một cách rập khuôn, cứng nhắc mà có sự sáng tạo bằng cách


dần dần phá vỡ tính quy phạm tạo nên một đặc điểm mới đi song song với tính quy
phạm là bất quy phạm trong văn học.

Bất quy phạm là cái ngược lại với tính quy phạm. Nếu quy phạm là sự bắt buộc
tuân theo một quan niệm, một cấu trúc truyền thống thì tính bất quy phạm là cái
vượt lên trên những yếu tố đó. Tức là việc phá vỡ các tính chất quy phạm đã được
quy ước do tư tưởng phóng túng và năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.

Bất quy phạm trong văn học trung đại Việt Nam được hình thành qua quá trình tiếp
nhận văn học Trung Quốc mà qua quá trình sáng tác văn học đã để cho hồn thơ,
hồn văn của mình được tự do bay bổng.
Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam [27] viết về tính bất quy phạm trong thơ,
ông đã dẫn ra thể loại thơ Đường khi đã được đưa vào thi cử, nó càng trở nên có
tính chất quan phương ( ...) .

1.2.Cơ sở tạo nên tính chất bất quy phạm trong thơ
nôm Hồ Xuân Hương
1.2.1Thời đại
Có thể nói đây là giai đoạn đen tối nhất của lịch sử dân tộc. Giai cấp phong kiến,
bè lũ thống trị đã đi ngược lại đạo lý của dân tộc, bộc lộ tính chất thối nát suy đồi.
Xã hội loạn lạc, nhà nhà long đong, dân chúng điêu đứng cùng cực. Cuộc nội chiến
Lê – Trịnh rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh kéo dài liên miên. Con sông Gianh hiền


hòa vô tội bỗng chốc trở thành lưỡi gươm cắt đôi đất Việt...không cần lặp lại nhiều,
một vài trang “ Hoàng Lê nhất thống chí”cũng đủ miêu tả lại hững cảnh loạn lạc,
rối ren ấy.


Các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra khắp nơi và liên tục, đỉnh cao là cuộc khởi
nghĩa giành thắng lợi của người anh hùng ao vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Tiếc
rằng triều đại Tây Sơn tồn tại không bao lâu. Nguyễn Ánh lên ngôi ngay sau khi
Nguyễn Huệ mất và một triều đại phong kiến khác bội phần phản động lại tròng
vào cổ nhân dân. Các cuộc đấu tranh của nhân dân vẫn tiếp tục, tuy âm thầm mà
quyết liệt, mạnh mẽ. Con người đấu tranh bằng mọi cách, trong đó có đấu tranh ,
phản kháng lại bằng văn học. Họ dùng văn học để phản ánh cuộc sống với bối cảnh
lịch sử đầy biến động, và điều đò hẳn nhiên cũng có tác động ảnh hưởng đến quá
trình sáng tác của Hồ Xuân Hương.

Cộng thêm tư tưởng ngoại lai du nhập vào nước ta khiến cho ý thức cá nhân con
người được nảy sinh. Con người đã lờ mờ nhận ra được cái bản ngã của mình. Họ
bắt đầu mạnh dạn đấu tranh cho khát vọng sống, quyền được sống, quyền tự do
tình cảm, tự do yêu đương. Các bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đều bừng lên
một ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa khao khát ấy.

Nghề in trở thành một nghề kiếm tiền. Các “tài tử” ra đời thay thế các quân tử,
trượng phu – những người độc chiếm văn đoàn trước đây. Các tài tử ấy học đạo
thánh hiền nhưng suy nghĩ theo lối thị dân. Con người tài tử là điển hình mới của
thời đại. Con người quân tử bị chế giễu, đạo đức sống “ khắc kỷ phục lễ” bị dè bỉu.


Có thể nói thời đại phong kiến suy tàn đã kéo theo sự sụp đổ của Nho giáo. Ý thức
hệ phong kiến và Nho giáo sụp đổ khiến cho những lễ giáo, luân lý không còn
được coi trọng như trước. Các bài tam tự kinh, thuyết Khổng Mạnh chằng còn bao
lâu giá trị. Ý thức cá nhân trỗi dậy, vượt lên trên ý thức hệ phong kiến. Con người
bắt đầu đóng vai trò là một cá nhân, tuy chưa phải là cá nhân tư sản nhưng chắc
chắn không còn là con người của công xã nông thôn, của trật tự phong kiến.Khi
không lọt mắt điều gì, họ có thể phản kháng mạnh mẽ. Hồ Xuân Hương cũng đã

từng quát lên: “ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” hay “ Cha kiếp đường tu sao
lắt léo” . Hồ Xuân Hương cũng đã từng chịu sự ảnh hưởng của thời đại, Xuân
Hương làm như các tài tử đương thời như Phạm Thái “ Dù cả trần gian sống mãi
chi?” ; Nguyễn Công Trứ: “ Đéo mẹ nhân tình đã biết rồi”...

Những điều đó được cho là “ quy phạm” , là “vô ngã” , “cao nhã” đều trờ thành bất
quy phạm, hữu ngã và bất cao nhã. Những câu thơ, phú, câu văn gần như không
còn tính quy phạm mẫu mực nữa. Xuân Hương cũng hồ hởi, táo báo vượt ra cái
quy phạm thời cổ đó ở cách dùng từ, dùng câu, dùng luật; mà có người đã cho rầng
thơ Hồ Xuân Hương “ nổi loạn”.

Lúc này chủ nghĩa nhân đạo xuất hiện, trở thành một trào lưu. Có thể nói hầu như
tât cả các tác phẩm tiêu biểu của văn học chữ Nôm đều tập trung vào vấn đề con
người, đề cao con người và cuộc sống trần tục phê phán những thế lực phng kiến
chà đạp con người, đấu tranh với mọi thế lực đen tối, phản động của xã hội phong
kiến để khẳng định giá trị chân chính của con người. Các nhà văn, nhà thơ giai
đoạn này không còn đứng trên lập trường đạo đức phong kiến để phê phá những
hiện tượng phi đạo đức, mà chủ yếu đứng trên lập trường nhân sinh để tố cáo


những gì phản nhân sinh, đi ngược lại sự tiến hóa, phát triển của cuộc sống. Trong
giai đoạn văn học này, thì hình ảnh người phụ nữ là hình ảnh thành công nhất.

...Đúng như người ta thường nói: “ Hoàn cảnh làm nên lịch sử, lịch sử nảy sinh
nhân tài” . Có thể nói chính cái thời đại rối ren, thối nát, đầy rẫy bất công trớ trêu
đó đã đâp vào mắt Xuân Hương. Tư tưởng nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa thấm
nhuần trong văn học ; tiếng nói bản ngã lớn tiếng đánh thắng dần tiếng nói đại ngã
đã thấm nhuần vào tim nữ sĩ góp phần làm nên một Xuân Hương táo bạo và độc
đáo. Hồ Xuân Hương đã đón lấy từ luồng gió của thời đại lòng yêu sâu sắc cuộc
sống, khát vọng cháy bỏng về tình yêu, nhận thức về người phụ nữ với vai trò , tài

trí, đạo đức...vv. Dĩ nhiên thơ Hồ Xuân Hương tiếp thu với sự sàng lọc, với cá tính
của mình. Thơ Nôm của bà có tính chất bất quy phạm bởi mặt chủ quan, bà là
người có tài, có cá tính mạnh mẽ, tự ý thức được về cái tôi cá nhân và đồng cảm
sâu sắc với nỗi khổ của người phụ nữ. Nhưng về mặt khách quan, bà đã được sinh
ra trong thời đại có nhiều biến động dữ dội, mâu thuẫn gay gắt. Tư tưởng Xuân
Hương chịu sự chi phối của thời đại, cũng như thời đại đã ảnh hưởng đến thơ Xuân
Hương.
Lịch sử Việt Nam luôn tràn ngập trong cuộc chiến tranh và kiếp sống nô lệ. Hơn
1000 năm đô hộ của giặc Tàu, điều đó ảnh hưởng rất sâu sắc đến nền văn minh văn
hóa của một đất nước nông nghiệp. Các bậc cha ông sinh ra trong thời kì đất nước
phải gánh chịu những luật lệ nghiêm nghặt của lễ giáo.Những quy định của Nho
gia ấy đã trở thành nếp nghĩ, và trở thành nguyên tắc trị nước. Trên tất cả các lĩnh
vực người Việt Nam đều bị đồng hóa theo và những tên hôn quân cũng dựa vào đó
làm lí luận cho thuyết cương thường danh giáo, hay như khuynh hướng phục cổ
thủ cựu.Sống trong xã hội ngột ngạt với đủ mọi điều khuôn phép, thơ văn ít nhiều


có phần bị khô khan đó cộng với khi đất nước có những bước chuyển mình vĩ đại,
ngày càng tiến bộ hơn thì đã có những nhà văn, nhà thơ đã bức phá và đứng lên để
khẳng định lại chính bản thân mình. Họ nhận ra rằng nếu cứ theo những quy định
sẵn thì họ sẽ bị thui chột về tài năng và tự do bị hủy diệt. Đó là các nhà thơ, nhà
văn tiêu biểu như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,.. đặc biệt là
Hồ Xuân Hương.

Các nguyên tắc thi cử của chế độ phong kiến rất hà khắc với những luật lệ rất
nghiêm ngặt đã hình thành trong ý thức của các sĩ tử lối học từ chương, thói
chuộng hư văn một ngày một tệ, theo một công thức định sẵn. Trước tình hình đó,
cùng với sự vận động theo hướng đi lên của lịch sử, dần dần có những cá nhân
không chịu sống trong khuôn phép với những luật lệ hà khắc, bó buộc như vậy
cùng với bản lĩnh và tài năng của mình họ đã phá vỡ những khuôn mẫu định sẵn

đó, sáng tạo những vần thơ có ý nghĩa và dạt dào giá trị nhân văn.

Mặt khác, đối với các sĩ tử ở thời kì này, công ba năm đèn sách dùi mài kinh sử là
phải thao thao bất tiệt tứ thư ngũ kinh từ thuở nhỏ, phải nghiêm chỉnh chấp hành
những luật lệ trong thi cử để tránh phạm húy, nếu không sẽ bị tránh trượt hoặc bị
xem là thư văn tầm thường không được coi trọng. Nhưng trong lịch sử văn học vẫn
có một số nhà thơ đã vượt ra khuôn khổ trong kì thi và bị đánh trượt( Bản thân là
người thông minh, học giỏi, bản lĩnh ngay thuở nhỏ, nhưng Cao Bá Quát vẫn bị
tránh trượt trong các kì thi. Và chắc rằng không phải vì bất tài không thi đỗ mà vì
ông vốn là người tự do, phóng túng nên không chịu viết văn theo khuôn phép của
trường thi)


Văn chương nước ta chịu ảnh hưởng của văn chương Trung Quốc lâu đời.Các văn
sĩ Trung Quốc xưa quy định cho văn chương một cái mục đích giáo huấn, nghĩa là
muốn dùng văn chương để răn người đời, bởi vậy trong thơ văn, thường khi nói
đến cương thường, đạo nghĩa hoặc tả thế thái, nhân tình cũng nhiều khi nói đến ái
tình, nhưng chủ ý để khuyên răn người đời hơn là tả những cuộc tình éo le, trắc trở.
Lịch sử của Việt Nam là lịch sử của những biến cố và chìm ngập trong cảnh nô lệ,
áp bức hơn một ngàn năm dưới chế độ đô hộ của Phương Bắc. Chịu một khoảng
thời gian bị đồng hóa dân tộc, chính vì thế, văn chương của ta đặc biệt là giai đoạn
văn học trung đại chịu ảnh hưởng nhiều của văn chương Trung Quốc về cả hình
thức lẫn nội dung. Đặc biệt là thơ Đường có một ảnh hưởng rất sâu đậm. Mặc dù
thanh thế thơ Đường ở nước ta xưa nay bao giờ cũng lớn nhưng vì cái học khoa cử,
những bài thơ kiệt tác ngâm đi giảng lại hoài gần như vô nghĩa. Nó chỉ còn là cái
máy để đúc ra hàng vạn bài thơ dở. Đến khi khoa cử bỏ, chữ Nho không còn là con
đường tiến thân. Song thiếu niên Tây học vẫn có người xem sách nho, họ chỉ cốt
tìm nguồn sống tinh thần. Họ đi tới thơ Đường với một tấm lòng trong sạch và mới
mẻ, điều kiện cần thiết để hiểu thơ. Cho nên dầu dốt nát, dầu nghĩa câu nghĩa chứ
lắm khi họ rất mờ, họ đã hiểu thơ Đường hơn nhiều khoa tay bảng. Hồn thơ Đường

vắng đã lâu, nay lại trở về trong thơ Việt Nam. (Thi nhân Việt Nam).

Điều đó chỉ có thể giải thích được bởi giá trị tuyệt mĩ của thơ Đường và bởi sự
tương đồng trong tâm thức văn hóa giữa hai dân tộc Phương Đông. Và quan trọng
là sự tiếp thu văn hóa của ông cha ta xưa nay không theo khuôn mẫu một cách
cứng nhắc. Các bậc tao nhân luôn biết mình cần học hỏi, gạn lọc những gì phù hợp
với thuần phong mĩ tục, còn những thứ không phù hợp thì bài trừ nó ra. Không
dừng lại ở việc tiếp thu, ông cha ta luôn mày mò, nghiên cứu sáng tạo và phá cách
làm cho thơ văn mình thêm phần độc đáo dựa trên những gì học hỏi được từ nước


bạn. Điều này đã làm nên tính bất quy phạm trong văn học trung đại Việt Nam giai
đoạn đó.

1.2.2 Bản thân Hồ Xuân Hương
Như trên đã nói, thời đại là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến cái nhìn, thái độ, tư
tưởng trong tính bất quy phạm của thơ Hồ Xuân Hương. Thơ Xuân Hương vô cùng
độc đáo, cả về nội dung lẫn nghệ thuật, mang đậm nét cá tính sáng tạo. Trong tâm
thức của chúng ta Xuân Hương luôn xứng danh là “ Bà chúa thơ Nôm” và bà còn
được mệnh danh là nhà thơ bất quy phạm nhất trong những nhà thơ bất quy phạm
trong văn học trung đại lúc bấy giờ. Nhưng cái nhìn, thái độ, tư tưởng, tính bất quy
phạm trong thơ bà, ngoài yếu tố thời đại, yếu tố quyết định cuối cùng phải là tính
cách con người Xuân Hương.
Về tiểu sử của Hồ Xuân Hương còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo tài liệu
nghiên cứu mới đây nhất và tin cậy nhất của ông Đào Thái Tôn thì Hồ Xuân
Hương thuộc dòng dõi họ Hồ, một trong ba họ đã có công xây dựng làng Quỳnh
Đôi. Đây là họ có rất nhiều người đỗ đạt cao, làm quan to, góp nhiều công trạng
lớn cho đất nước. Thân sinh Hồ Xuân Hương là cụ Hồ Phi Diễn. Chính nhờ gốc
gác, nhờ truyền thống hay chữ của gia đình nên Xuân Hương từ bé đã được học
chữ Nho, chữ Nôm. Đây là nền tảng cơ bản đầu tiên cho những đóng góp của bà

vào nền văn học Việt Nam.
Sinh thời, nữ sĩ chủ yếu sống với mẹ. Thời con gái, Xuân Hương đã nổi tiếng lém
lỉnh, thông minh và có tài thơ kiệt xuất. Thơ Hồ Xuân Hương chứng tỏ nàng là cô
gái khá năng động và cuộc sống không quá khó khăn nên có điều kiện tiếp đãi
khách, du lãm nhiều nơi. Cá tính và phong cách sống ấy in đậm dấu ấn trong thơ
Xuân Hương tạo nét riêng rất độc đáo, phóng khoáng trong khu rừng tịnh mịch của
văn chương phong kiến.


Dựa vào những giai thoại và những cứ liệu về Hồ Xuân Hương ở “ Cổ nguyệt
đường” chứng tỏ nàng sống chủ yếu ở nơi thị thành( phường Khán Xuân, gần Hà
Nội) . Tuy nhiên, nữ sĩ khá am hiểu cảnh trí, công việc, sinh hoạt, con người...nơi
thôn dã. Điều đó tác động sâu sắc đến nhân sinh quan, thế giới quan của thơ bà.
Thơ mang nội dung chủ yếu là cuộc sống đời thường của những con người bình
thường với những ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà chân thật, sâu sắc. Đó cũng
chính là những biểu hiện rõ nét của tính bất quy phạm trong thơ bà.
Mặc dù, Xuân Hương rất tài hoa và đa tình nhưng cuộc đời gặp nhiều éo le, trắc
trở, lận đận về đường tình duyên ( phải chịu làm lẽ đến hai lần: làm lẽ Tổng Cốc,
tri phủ Vĩnh Tường) nên điều ấy thể hiện trong thơ rất rõ ở tính bất quy phạm của
thơ bà. Nó thể hiện khát vọng được sống, được yêu, được hạnh phúc. Cuộc đời
chẳng được như ý nên mọi sự vật, hiện tượng đi vào thơ Xuân Hương đều trở nên
phá cách, hơn người, cá biệt và rất ấn tượng, tạo nên phong cách bất quy phạm rõ
nét trong thơ bà.
Không khí u tối, bế tắc của gia đình, xã hội trong chế độ phong kiến đã đè nặng lên
thân phận đáng thương của người phụ nữ. Xuân Hương thấu rõ mọi áp lực chèn ép
ấy nên bà lớn tiếng bênh vực, ngợi ca phụ nữ, thức tỉnh cho họ thấy vị trí, giá trị
ngang tầm vũ trụ, ngang với đấng sáng tạo của mình. Con người Xuân Hương, bãn
lĩnh Xuân Hương, tính bất quy phạm trong thơ bà khiến cho thơ bà có tầm vóc vũ
trụ là vì thế!
Đời tư Xuân Hương lắm bất hạnh nhưng không vì thế mà bà chịu bó gói, cam phận

“già tom” một cách phí hoài. Bà ngao du sơn thủy, tìm đến những không gian
khoáng đạt, tươi đẹp của thiên nhiên, của đất trời và tạo vật. Những hình ảnh cụ thể
đó đi vào văn học dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương thật sống động, tràn trề nhựa
sống như chính cuộc sống của bà.


Song, ở đâu, cảnh vật cũng gợi lên những cảnh chướng tai gai mắt của xã hội
phong kiến thối nát bóp nghẹt con người. Thế là đằng sau những bức tranh thiên
nhiên rất đẹp, rất thực,rất sống động ấy còn có nhiếu bức tranh của những hành
động, lên án đòi duy trì sự sống tự nhiên của con người một cách thật khéo léo, tài
tình mà không thô tục, nhảm nhí.
Hơn nữa, vốn thuộc tầng lớp trung lưu lớp dưới, Xuân Hương chịu nhiếu sự thiệt
thòi, áp bức mà đối với những con người mang nặng tư tưởng tích cực, mới mẻ thì
áp lực chế độ với Xuân Hương lại trở thành nặng nề một bậc nữa. Bà thấy hết
những xấu xa của xã hội đầy đọa con người, đặc biệt là người phụ nữ nên thơ bà tự
nhiên mà vượt ra khỏi những quy định nghiêm ngặt, thể hiện rất phóng khoáng, tự
nhiên mà ngầm chứa những quả bộc phá trong từng câu, từng chữ. Như vậy, nghệ
thuật tính bất quy phạm đã đưa ngòi bút của bà trở thành ngọn giáo sắc bén chống
lại chế độ phong kiến thối nát lúc bấy giờ. Mũi nhọn đấu tranh mà bà chĩa vào là lễ
giáo, là đạo đức phong kiến giả dối kìm hãm, chèn ép người phụ nữ về mọi mặt.
Xuân Hương sống trong thời kì phá sản của chế độ phong kiến nên bà trông thấy
mọi sự thối nát, bất công do chế độ phong kiến đương thời đẻ ra. Vì thế mà thơ văn
của bà không thể không bất quy phạm.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử hạn chế, Xuân Hương không sao tìm được biện
pháp để chấm dứt tình trạng thối nái nói trên. Vì vậy, thơ bà trong cái tích cực vẫn
còn bị hạn chế là vì thế. Bà lớn tiếng chửi, chửi thẳng, chửi xiên bọn vua quan- đại
diện cho giai cấp thống trị phong kiến, bọn bất tài vô dụng, bọn đàn ông hèn hạ tự
chui rúc lánh đời trốn chùa chiền, cung điện...nhằm tìm cái an nhàn, thỏa mãn cái
dục thú của cá nhân. Bà căm ghét chế độ nam tôn nữ ti nên bà ước ao trở thành đàn
ông để tạo sự nghiệp hơn hẳn Sầm Nghi Đống, để cải tạo xã hội, để bênh vực

những người phụ nữ tài hoa như bà. Nhưng Xuân Hương không ý thức được rằng:


“ Chế độ phong kiến vào thời kỳ cuối của nó là một cái máy nghiền khổng lồ, tàn
nhẫn nó đã làm nát nhừ biết bao cá tính, không phân biệt cá tính ấy thuộc giới tính
nào”.
Tính bất quy phạm mà Hồ Xuân Hương vận dụng, thể hiện trong thơ chính là
nhằm tố cáo, lên án hiện thực của chế độ phong kiến rệu rã bóp nghẹt con người.
Do đó, dù có khi nói về khát vọng, về quyền sống của con người; hay miêu tả cảnh
đẹp quê hương đất nước; cuộc sống tù hãm của người phụ nữ...thì bà vẫn lồng vào
đó những giọng điệu chua chát, đả kích, những vần thơ mà bọn đạo đức giả cho là
dâm là tục, là trái đạo lý, trái quy định để đại diện cho lời ăn tiếng nói của người
bình dân đánh thẳng vào giai cấp thống trị đê hèn, thối bát.
Thân thế, cuộc đời, tài thơ bẩm sinh và bản lĩnh sống của Hồ Xuân Hương đã thúc
đẩy ngọn bút mang đầy tính bất quy phạm một lần nữa lên tiếng, đấu tranh quyết
liệt, góp phần tích cực tạo nên thành công vang dội cho thơ bà.
Tóm lại, ta có thể nhấn mạnh rằng thời đại và con người là hai yếu tố góp phần
quan trọng làm cho thơ Xuân Hương mang đậm nét đặc trưng tính bất quy phạm.
Song yếu tố quyết định cuối cùng vẫn là tính cách của con người bà. Chính cá tính
của Hồ Xuân Hương đã làm cho thơ bà có phong cách riêng, được lưu truyền cho
tới bây giờ.

Chương 2: Biểu hiện tính bất quy phạm trong
thơ Hồ Xuân Hương
Đối với văn học trung đại Việt Nam nói chung và thơ Hồ Xuân Hương nói riêng,
tính bất quy phạm được thể hiện trên nhiều phương diện. Dưới đây là các phương
diện cơ bản:

1.Bất quy phạm về đề tài



Thời trung đại tính chất chất cao quý, chính thống từ nguồn gốc, quan niệm sáng
tác và sinh hoạt thơ văn xưa được đề cao. Đề tài phải phù hợp với tính chất cao
quý. Nó có thể được lựa chọn từ những đề tài công thức. Mục đích chính của loại
đề tài này là bàn bạc về nội dung tác phẩm kinh điển Nho gia, phát biểu những
quan niệm về chính trị, đạo đức, triết học, thẫm mĩ dựa trên nền tảng học thuyết
Nho giáo. Phải là chuyện quốc gia đại sự, là thế thái nhân tình, là thành tích lớn lao
của vua này chúa nọ, là quan hệ vua tôi, cha con, quân dân, là đạo lí làm người
theo lí tưởng cao cả...Tư tưởng Nho gia trong những tác phẩm của Nguyễn Đình
Chiểu minh họa rất rõ cho những điều này. Đó là những mẫu hình Nho gia với
những biểu hiện của con người như: đi, đứng, ăn, nói, ứng xử...đúng theo chuẩn
mực của xã hội phong kiến quy định.
Cũng có khi các thi sĩ sử dụng loại đề tài có tính chất tập cổ tức là những đề tài
được lấy từ các tác phẩm văn chương mang tính mẫu mực của người Trung Quốc
như: “ Kinh thi” , “ Ly tao” , “thơ Đường”... Loại đề tài này thường đề cập tới cảnh
núi sông hùng vĩ, chùa chiền u tịch, đêm trăng chiều gió, tài tử giai nhân...Do đó
văn chương trung đại sử dụng không mòn những loại đề tài ít di dịch: cảm, thuật,
hoài, hứng, vịnh, ngâm, tặng, đề, tán, tiễn, tống, biệt, điếu, vãn. Phú, văn xuôi,
truyện kí, tiểu thuyết cũng chọn đề tài trang nghiêm. “ Phú sông Bạch Đằng” , “
Phú sen trong giếng ngọc”, “Lĩnh Nam chích quái” , “ Hoàng Lê nhất thống
chí” ...là những tác phẩm mà mới chỉ nghe tên mà ta có thể thấy chất cao quý,
trang nghiêm của đề tài.Các loại văn xuôi triều đình, tôn giáo, bia, minh, liễn đối
trong hội tang, chay đều mang tính nghiêm chỉnh, thanh nhã. Đề tài của tuồng
thường mang chất bi hung. Riêng chèo đôi lúc lại có đề tài mang chất dân gian nơi
thôn xóm. Như vậy khi các tác phẩm văn học được viết bằng chữ Hán thì tính quy
phạm được đảm bảo.
Nhưng khi đến với chữ Nôm, tiếng Việt thì tính chất bất quy phạm xuất hiện. Nếu
giai đoạn thượng kì, đề tài sáng tác ngâm vịnh chủ yếu là vua quan mai, lan, cúc,



trúc, hay ngư, tiều, canh mục...thì đến giai đoạn hạ kì, đề tài được mở rộng thêm
nhiều theo hướng tự do, phóng khoáng, dần phá vỡ những gì quy định từ trước. Tú
Xương, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái là những tác giả có biểu hiện phá cách rõ
nhất. Những con người tầm thường, những sự vật tầm thường được đưa vào văn
học.

1.1.Thơ Hồ Xuân Hương ngời sáng những hình ảnh, những nét
chấm phá về cảnh sắc thiên nhiên và tạo vật.
Thiên nhiên trong tác phẩm văn học không đơn thuần chỉ là cảnh của cuộc sống
hiện thực, mà nó đã được tái tạo lại với bàn tay và cảm quan kỳ diệu của người
nghệ sĩ. Nói một cách khác, thiên nhiên đã nhuốm màu sắc chủ quan của sự sáng
tạo. Nó phụ thuộc vào cảm thụ của nhà nghệ sĩ trước cảnh vật và cảm thụ trong
hoạt động sáng tạo : “Dẫu sao tỉ trọng vẫn nặng về phía các cảm thụ cụ thể đang
làm xúc động tâm hồn chúng ta một cách mới mẻ và mãnh liệt, nhất là các cảm thụ
có được từ môi trường thị giác và thính giác với vô số sắc thái phong phú và âm
hưởng sâu rộng trong lĩnh vực xúc động tình cảm” . Cũng giống như sự tiếp nhận
của độc giả với tác phẩm văn học, người nghệ sĩ cảm thụ thiên nhiên bằng tiếng
lòng tinh tế nhất và do đó thiên nhiên thường mang tình cảm, tâm trạng của người
nghệ sĩ.
Sự tiếp thu về thể loại của thơ Đường luật đã khiến thiên nhiên trong văn học trung
đại chịu ảnh hưởng cách nhìn thiên nhiên theo phong vị thơ Đường. Đó là những
bức tranh thủy mặc nhẹ nhàng, thanh thoát, trầm buồn với những đường nét, màu
sắc, hình khối hài hòa. Thiên nhiên trong quan niệm của văn học trung đại được
nhìn ở góc độ gần- cận cảnh, xa- viễn cảnh, từ gần đến xa hoặc ngược lại. Mà nói
theo ngôn ngữ điện ảnh, nó được quay từ camera- đôi mắt của người nghệ sĩ.
Điều này thể hiện rất rõ qua một số bài thơ:
“ Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh.



( Vịnh năm canh – Hồng Đức Quốc Âm thi tập- Lê
Thánh Tông).
Một bức tranh hài hòa giữa thiên nhiên và con người. “ Khói tỏa lồng sương bạc” –
cuộc sống và thiên nhiên, con người và tạo vật hòa quyện vào nhau. Đường nét rất
nhẹ, khói trắng và màu xanh của rừng núi cho con người ngắm cảnh một sự êm
dịu, yên bình.
“ Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn...”
( Chiều hôm nhớ nhà- Bà Huyện Thanh Quan)
Một buổi chiều lặng lẽ, lắng đọng và dư vang. Nắng nhạt dần và tắt hẳn, bóng
hoàng hôn trải rộng xa gần lấn dần rồi xóa mờ những tia nắng cuối cùng. Tiếng tù
và lẫn tiếng trống thu không từ một đồn binh xa nào đó dồn về báo hiệu ban ngày
đã hết. Bức tranh được nhìn từ xa, và mang nặng nỗi lòng của người lữ khách.
Hay như Tam Nguyên Yên Đỗ, mặc dù thiên nhiên trong thơ mang vẻ đẹp bình dị,
hồn hậu của làng quê Việt Nam song nó vẫn không tránh khỏi ảnh hưởng của thơ
Đường. Cảnh vẫn được nhìn từ xa – viễn cảnh, vẫn là những đường nét phác họa
nhẹ nhàng với nghệ thuật tượng trưng, ước lệ, và thiên nhiên thì ôm ấp mối tình
của người ngắm cảnh.
“ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”
( Thu Vịnh – Nguyễn Khuyến)
Điều này thật khác biệt đối với thiên nhiên trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương : thiên
nhiên được nhìn cận cảnh, trực tiếp qua những cảm nhận trực giác của con người.
Điều khác biệt này tạo nên sự hứng thú khi người đọc tìm đến với đề tài thế giới
thiên nhiên trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.


1.1.1Thiên nhiên trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương chủ yếu được cảm

nhận bằng thị giác.
Đôi mắt nhà thơ quan sát rất kỹ, rất tinh từ những sự vật nhỏ nhất như : cỏ, rêu...
đến những thứ lớn hơn như : hang động, kẽm, đèo...; từ những sự vật dễ nắm bắt
nhất như : ốc nhồi, quả mít, cái quạt, giếng nước...đến những sự vật vô hình như
gió, trong suốt như nước... Trong mảng thơ Nôm của mình, Xuân Hương có
khoảng 28/40 lần phóng đôi mắt tinh nhạy vào thiên nhiên. Nữ sĩ nhìn thấu hiện
tượng, bản chất của sự vật, cảm thụ tinh tế ngay cả những rung động nhỏ nhất,
những trạng thái vận động kì lạ nhất : khua lắc cắc, vỗ phấp phòm, uốn éo, cheo
leo... Đôi mắt đó không dừng lại ở những đường nét, màu sắc nhẹ của tranh thủy
mặc mà là màu sắc sống động tươi sáng của tranh hiện đại : xanh rì, trắng phau
phau, đỏ lòm lom... Cảnh của Xuân Hương là vậy. “ Nó không ưa những nét buồn
của một buổi chiều tà bóng xế, nó không thích những chiếc lá vàng rơi trước gió,
hay con nai ngơ ngác trong rừng già. Cảnh nào cũng cựa quậy, cũng cử động, cũng
sống, cũng vui” . Đó cũng chính là tính bất quy phạm nổi trội trong đề tài của bà.
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lon khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.


Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
( Qua đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan)

Điểm chính yếu ở đây là cảm xúc, suy nghĩ của tác giả khi đứng trước một vùng
đất vốn mang nhiều sự kiện lịch sử, còn “ Đèo Ba Dội” của Hồ Xuân Hương được
miêu tả bằng một cái nhìn khác hẳn :
“ Một đèo, một đèo, lại một đèo,

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắc lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.”
( Đèo Ba Dội)


Hai câu đầu nghe như tiếng trầm trồ thán phục của người thưởng ngoạn trước kỳ
công của thiên nhiên. Tả đèo mà tấu nhạc lên thì thật là độc đáo – một thứ thanh
nhạc riêng, kết hợp với nhịp đặc biệt để thể hiện thái độ tinh nghịch của người
ngắm cảnh. Cảnh đèo được quan sát rất kỹ, từ “cửa son” , “hòn đá” cho đến giữa
lưng chừng đèo bằng một cái nhìn cận cảnh.

Xuân Hương ưa dùng màu nóng. Màu “đỏ loét” như muốn đốt lòng người ta, lại
phết dày như tranh sơn dầu, ám lấy tâm trí người đọc một mảng tối “ tùm hum”
đầy hoang dại. Màu “xanh rì” thiết tha của sự sống trẻ trung, cường tráng đang nảy
nở những nét non tơ “ lún phún” . Cành thông “ lắc lẻo” , vừa cheo leo trên cao
lưng chừng đèo, vừa đung đưa không ngừng. Tưởng như đôi mắt nhà thơ đang
quan sát thật sâu sự “ lắc lẻo” ấy và những lá liễu đầm đìa những sương là sương.

Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” có một câu thơ về sương:
“ Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà”.
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Chỉ là một giọt. Còn Xuân Hương thì “ đầm đìa” . Phụ từ miêu tả được đưa lên đầu
câu có tác dụng tạo hình cao. Nó nhấn mạnh trạng thái ướt sũng, đầy tràn, tưởng
như vô tận, tác động vào giác quan người đọc. Những ấn tượng này không hiếm
thấy trong thơ thiên nhiên của Hồ Xuân Hương, nó xuất hiện thành một hệ thống

tạo thành một thế giới riêng độc đáo của sự cảm thụ mang đầy tính bất quy phạm :
“ Kẻ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.”


( Hang Cắc Cớ)
“ Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.”
( Cảnh thu)

“ Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom.”
( Hỏi trăng I)

Vì vậy những hiền nhân quân tử bị thu hút trước cảnh vật : “ Mỏi gối chồn chân
vẫn muốn trèo” .

1.1.2. Thiên nhiên không chỉ được nhìn bằng thị giác mà nó còn
được thẩm thấu bằng thính giác ( âm thanh).
Âm thanh trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương là tất cả những âm thanh sống động của
cuộc sống hàng ngày. Phải nói rằng nhà thơ có một thính giác cực kỳ tinh nhạy mới
có thể cảm thụ hết được mọi âm thanh dù rất nhỏ nhặt, khẽ khàng nhất của cuộc
sống. Và những điều đó đã mang đến những biểu hiện rõ nét tính bất quy phạm
trong thơ bà ở đề tài này.


×