Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI THÁC BẢN GIỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.77 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH CAO
BẰNG
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.2. Lịch sử của tỉnh
1.3. Những giá trị văn hóa đặc sắc
1.3.1. Đặc điểm kinh tế
1.3.2 Nhà ở
1.3.3 Phong tục tập quán
CHƯƠNG 2: THÁC BẢN DỐC – MỘT ĐIỂM ĐẾN HẤP DẪN CỦA TỈNH
CAO BĂNG
2.1. Vị trí địa lý
2.2. Giá trị cảnh quan
2.3. Giá trị văn hóa xung quanh khu vực
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI
THÁC BẢN DỐC
3.1 Thực trạng du lịch tại điểm
3.1.1. Cơ sở hạ tầng và điều kiện vật chất kỹ thuật
3.1.2. Nguồn nhân lực phục vụ
3.2. Giải pháp phát triển du lịch tại Thác Bản Dốc
3.3. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý
3.4. Nâng cao chất lượng sản phẩm và đội ngũ hướng dẫn viên
KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo

1


LỜI MỞ ĐẦU
Là một người con của tỉnh Cao Bằng, tôi muốn mời mọi người trên khắp mọi


miền đất nước đến với quê hương mình. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Phát
triển du lịch Thác Bản Giốc, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng” để nghiên
cứu, bởi đây là một vùng đất rất có tiềm năng phát triền kinh tế và du lịch.
Cao Bằng với những ưu thế riêng của mình, cùng với sự cố gắng gìn giữ và
phát huy các giá trị văn hóa của con người nơi đây, tôi tin rằng du lịch Cao
Bằng sẽ ngày một phát triển và được mọi người tìm đến.
Mục đích nghiên cứu: Đề tài tiểu luận phát triển du lịch thác Bản Giốc
muốn đưa các bạn đến với nơi đây để khám phá những vẻ đẹp về văn hóa,
lịch sử, sông nước núi non. Chúng ta sẽ thêm hiểu,,thêm yêu một vùng đất nói
riêng và quê hương Việt Nam ta nói chung. Tôi mong rằng đề tài này có thể
góp phần nào đó đưa mọi người về với du lịch Cao Bằng,để có thể lưu giữ,
phát triển thêm những nét đẹp nơi này.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu này tập trung vào thác Bản
Giốc và khu vực xung quanh.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu kết hợp các phương
pháp nghiên cứu thường có trong nghiên cứu khoa học cũng như nghiên cứu
xã hội học hay các ngành khoa học khác.Trong đó đặc biệt sử dụng các
phương pháp sau:Phương pháp khảo sát, phương pháp thực nghiệm, phương
pháp thu thập dữ liệu
Đóng góp của đề tài: Tập hợp các nguồn tài liệu nghiên cứu, viết về
Thác Bản Giốc từ trước tới nay. Trên cơ sở đó phân tích để thấy được các giá
trị lịch sử - Văn hóa của Thác Bản Giốc. Làm rõ thực trạng khai thác và phát
triển du lịch Thác Bản Giốc trong 10 năm trở lại đây. Định hướng, giải pháp
để khai thác một cách hiệu quả nhất tiềm năng du lịch của Thác Bản Giốc
Bố cục của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, đề tài được kết cấu 3 chương

2



CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH CAO BẰNG
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam. Hai mặt Bắc và
Đông Bắc giáp với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), với đường biên giới dài
trên 332 km. Cao Bằng có diện tích đất tự nhiên 6.724,62 km2 , là cao
nguyên đá vôi xen lẫn núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m, vùng sát biên
có độ cao từ 600 - 1.300 m so với mặt nước biển. Núi non trùng điệp. Rừng
núi chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh. Từ đó hình thành nên 3 vùng rõ rệt:
Miền đông có nhiều núi đá, miền tây núi đất xen núi đá, miền tây nam phần
lớn là núi đất có nhiều rừng rậm. Cao Bằng có 13 huyện, thị với 199 xã,
phường, thị trấn. Hệ thống sông Bằng Giang gồm: Sông Bằng Giang, ngày
xưa gọi là sông Mãng, có diện tích lưu vực là 3420,3km2, độ dài 113 km, bắt
nguồn từ Trung Quốc, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam qua các huyện
Hà Quảng, Hòa An, Thị xã, Phục Hòa rồi chảy qua Thủy Khẩu – Long Châu –
Quảng Tây – Trung Quốc, đổ ra biển Bắc Hải – Trung Quốc. Có các phụ lưu:
Sông Nguyên Bình, Sông Hiến, Sông Giẻ Rào (bắt nguồn từ huyện Thông
Nông). Hệ thống sông Gâm có diện tích lưu vực là 1876 km2, đoạn chảy qua
Bảo Lạc, Bảo Lâm dài 55 km, bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc, chảy
vào huyện Bảo Lạc, xuống Bảo Lâm rồi xuống Hà Giang, Tuyên Quang trở
thành phụ lưu của Sông Lô đổ vào Sông Hồng. Sông Gâm có hai dòng phụ
lưu chính là sông Nho Quế và Sông Neo (có nơi gọi là sông Leo). Hệ thống
sông Bắc vọng có diện tích lưu vực là 1329 km2, đoạn chảy qua Cao Bằng dài
77km, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, qua
các huyện Trà Lĩnh (Tả Lệnh), Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng Uyên chảy về
phía Nam rồi đổ vào sông Bằng Giang qua Thủy Khẩu – Trung Quốc. Hệ
3


thống sông Quây Sơn có diện tích lưu vực là 2319 km2, đoạn chảy qua Cao

Bằng dài 76 km, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam qua các xã Ngọc Côn, Ngọc Khê, Đình Minh, Đình Phong, Phong Châu,
Trí Viễn, Đàm Thủy của huyện Trùng Khánh, rồi chảy xuống xã Minh Long
huyện Hạ Lang, chảy sang huyện Đại Tân, tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Hệ
thống các con sông của Tỉnh Cao Bằng đều nhỏ, nhiều thác ghềnh, khả năng
phát triển giao thông đường thủy hạn chế, song có khả năng phát triển thủy
điện, là nguồn tài nguyên cung cấp nước sinh hoạt, cho sản xuất nông nghiệp
rất dồi dào. Về hệ thống hồ ở Cao Bằng có hai hồ tự nhiên là hồ Đồng Mu, xã
Xuân Trường, huyện Bảo Lạc; hồ Thang Hen ở huyện Trà Lĩnh. Ngoài ra còn
có một số hồ nhân tạo như: Hồ Khuổi Lái, Nà Tấu, Phja Gào huyện Hòa An;
hồ Trung Phúc, hồ Bản Viết ở huyện Trùng Khánh; hồ Thôm Luông ở huyện
Nguyên Bình… Hệ thống các con suối có hàng ngàn con, là phụ lưu của các
hệ thống sông của tỉnh, phân bố dày đặc, là tài nguyên quý giá trong đời sống
sản xuất của đồng bào các dân tộc ở các vùng thượng lưu, rẻo cao, biên giơi.
Tuy nhiên dòng chảy nhỏ thấp, mùa khô có nhiều con suối bị cạn kiệt, mùa
mưa lũ thì nước đổ về sối sả gây tác hại cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Chế độ thủy văn thất thường này luôn là sự quan tâm thường trực của các cấp,
các ngành và nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Đất đai của Cao Bằng được chia làm 3 nhóm đất chính với 24 loại đất
khác nhau. Đó là nhóm đất núi phân bố ở độ cao >= 900m so với mặt nước
biển (ký hiệu: H); nhóm đất đồi với màu sắc đặc trưng là đỏ vàng (ký hiệu: F)
và nhóm đất bằng, thung lũng hẹp. Sau đây là một số đặc điểm chính của các
nhóm đất đó. Đặc điểm của nhóm đất núi. Do địa hình dốc, rừng bị tàn phá
nhiều nên tầng dày cấp III (<50 cm) chiếm 41,83%, diện tích tầng dày cấp I
(>120 cm) chiếm 25,5%, diện tích tầng dày, trung bình (50 - 120 cm) chiếm
32,81%. Diện tích sử dụng cho nông nghiệp của nhóm đất này chỉ chiếm
khoảng 5,95% so với cả nhóm. Nhóm này phân bố ở độ cao >= 900m, đặc
4



trưng cho địa hình núi, có quá trình pheralit yếu, quá trình tích luỹ mùn mạnh
hơn. Trong nhóm đất này có 5 loại đá mẹ chính. Đặc điểm nổi bật của nhóm
đất này là thường ở địa hình dốc, diện tích có độ dốc cấp VI (>250) chiếm
90,51%, diện tích có độ dốc cấp V chiếm 0,21%, cấp IV chiếm 1,96%, cấp III
chiếm 0,31%. Đặc điểm của nhóm đất ồi (Nhóm đất đỏ vàng). Đặc điểm của
loại đất này là phát triển trên vùng đồi, núi thấp hoặc địa hình lượn sóng. Đất
có quá trình tích luỹ Fe, Al (sắt, nhôm) có màu đỏ hoặc vàng. Mức tích luỹ
này tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu, địa hình và lớp phủ thực vật. Địa hình
phần lớn bị chia cắt mạnh, sườn dốc. Đất có độ dốc cấp VI chiếm 80% diện
tích cả nhóm; độ dốc cấp V chiếm 11,56%; độ dốc cấp III và cấp II chỉ chiếm
3,88%. Tầng dày cấp I (>120 cm) chiếm 41,2% so với cả nhóm. Tầng dày cấp
II (50 - 120 cm) chiếm 31,5% so với cả nhóm. Tầng dày cấp III (< 50 cm)
chiếm 27,3% so với cả nhóm. Đất đỏ vàng Cao Bằng chủ yếu phát triển trên
các loại đá mẹ: macma, siêu kiềm, macma kiềm.... chiếm diện tích lớn:
47,39%; sau đó là nhóm đất phát triển trên đá biến chất (phơrit, gnai, mica)
chiếm 31,23%.
Vì vậy xét về mặt tổng thể, đất đai Cao Bằng có nhiều mặt ưu thế: Đa
số đất có tầng dày. Nhưng do địa hình bị chia cắt mạnh nên đất có sườn dốc
lớn. Điều đó làm hạn chế đến sử dụng đất trong nông nghiệp. Đặc điểm của
nhóm đất Bằng - Thung lũng. Đồi núi Cao Bằng thấp dần từ bắc xuống nam
và chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Địa thế hiểm trở, mức độ chia cắt
mạnh, núi đá vôi chạy vòng cung dọc biên giới Việt - Trung, từ Bảo lạc đến
Thạch An. Cao Bằng không có cánh đồng rộng mà chỉ có thung lũng nhỏ nằm
xen kẽ những vùng núi hoặc lòng máng ven các con sông tạo thành những dải
phù sa nhỏ bé. Diện tích nhóm đất này chiếm khoảng 4,67% so với tổng diện
tích điều tra. Trong đó bao gồm nhóm đất phù sa (Phù sa được bồi và phù sa
không được bồi, phù sa bị glây, phù sa có sản phẩm pheralit...Nhóm này nhìn
chung có thành phần cơ giới nhẹ. Nhóm đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa
5



nước (F1) đa số có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng. Do địa hình
dốc, bậc thang, tầng mặt bị rửa trôi sét nên đất có nhẹ đi đôi chút, nhưng tầng
sâu thành phần cơ giới thường từ trung bình đến nặng. Đất thung lũng dốc tụ
đa số có thành phần cơ giới trung bình, tầng tích tụ thành phần cơ giới nặng
hơn. Đất tích cácbonnat ở các thung lũng đá vôi hoặc ở địa hình trũng bị ảnh
hưởng mạch nước chứa cacbonnat, đất thường có thành phần cơ giới từ trung
bình đến nặng, càng xuống dưới càng nặng hơn. Đặc điểm thành phần cơ giới
có lớp đáy từ trung bình đến nặng là một ưu điểm lớn của quá trình canh tác ở
Cao Bằng, đất có nền vững chắc tạo điều kiện cho quá trình giữ nước và phân
bón cho cây trồng.
Địa hình: Tiểu vùng núi đáChiếm diện tích ở hầu hết các huyện miền
đông của tỉnh: Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Quảng Hoà, Hà Quảng, Thông Nông...
Địa hình miền này rất phức tạp, gồm các hệ thống dãy núi đá vôi phân cách
mãnh liệt với các đỉnh nhọn dạng tai mèo, gồ ghề lởm chởm cao thấp khác
nhau, hang hốc tự nhiên nhiều. Có phương kéo dài chung theo hướng tây bắc
- đông nam. Xen kẽ các dãy núi là thung lũng hẹp với nhiều hình, nhiều vẻ
khác nhau. Chủ yếu phân bố ở các huyện miền tây tỉnh (Nguyên Bình, Bảo
Lạc, Thạch An)và một phần diện tích phía nam Hoà An. Đáng chú ý nhất là:
Hệ thống núi cao Bảo Lạc - Nguyên Bình: Bao gồm nhiều dãy núi cao kéo dài
từ phía tây nam huyện Bảo Lạc qua phần diện tích phía tây nam huyện
Nguyên Bình, Với các đỉnh cao tiêu biểu: Phja dạ (Bảo Lạc) 1.980 m so với
mặt nước biển; Phja đén (Nguyên Bình) 1.428 m; Phja Oắc (Nguyên Bình)
1.931 m. Cấu tạo nên hệ thống núi cao này là trầm tích của điệp sông Hiến và
các đá macma xâm nhập axit - Grannit. Hệ thống núi cao Ngân Sơn - Thạch
An: Bao gồm các hệ thống núi xếp theo dãy, kéo dài tà phía bắc - tây bắc
huyện Ngân Sơn (Bắc Cạn) qua thị trấn Ngân Sơn, Bằng Khẩu, qua phần diện
tích phía tây - tây bắc huyện Thạch An rồi vượt sang phía tây - tây nam tỉnh
Lạng Sơn.Với các đỉnh cao tiêu biểu: Pù Tang Lam 1.639 m so với mặt nước
6



biển; Khau Pàu: 1.188m. Cấu tạo định hình này chủ yêú là các đá trầm tích
điệp sông Hiến và một phần không đáng kể của trần tích Paleozoi sớm giữa
(Pt1 và Pt2). Nhìn chung cả hai hệ thống này đều có phương phát triển theo
hướng tây bắc - đông nam với hệ thống đường phân thuỷ nhiều vẻ khác nhau,
song vẫn mang sắc thái phát triển của toàn vùng. Xen kẽ các hệ thống núi cao
là các thung lũng, núi thấp sông suối với những kích thước lớn, lớn nhỏ hình
thái nhiều vẻ khác nhau. Các thung lũng lớn như: Hoà An, Nguyên Bình,
Thạch An, thung lũng sông Bắc Vọng... Trong đó, đáng chú ý hơn là thung
lũng Hoà An - vựa lúa của tỉnh, nằm trùng với phần phía bắc của lòng máng
Cao Lạng, dài gần 30 km. Điểm bắt đầu từ Mỏ Sắt (Dân Chủ - Hoà An) kéo
dài hết xã Chu Trinh (Hoà An), chạy dọc theo đường đứt gãy Cao Bằng Lạng Sơn, bao gồm những cánh đồng phì nhiêu, tương đối bằng phẳng, xen
giữa các cánh đồng là đồi núi thấp sắp xếp không liên tục theo kiểu bát úp.
Trong phạm vi thung lũng này xuất hiện các mỏ khoáng sản: Sắt, fosphorit tập
trung với trữ lượng và chất lượng rất cao dễ tìm kiếm và khai thác. Ngoài ra
các thung lũng khác còn chứa nhiều khoáng sản quý...
1.2. Lịch sử của tỉnh
Tỉnh Cao Bằng cùng với tỉnh Lạng Sơn thời nhà Lý-nhà Trần được gọi
là châu Quảng Nguyên. Vùng đất này (Lạng Sơn và Cao Bằng) chính thức
phụ thuộc vào o Đại Việt từ năm 1039, đời vua Lý Thái Tông, sau khi nước
này chiến thắng Nùng Trí Cao. Sau khi thất thủ Thăng Long năm 1592 nhà
Mạc chạy lên Cao Bằng và xây dựng vùng đất này để chống lại nhà Lê Trịnh
cho đến 1677 mới chấm dứt. Cao Bằng là địa danh đã xuất hiện từ lâu đời ở
nước Việt Nam. Vào thời các vua Hùng, vùng đất này thuộc bộ Vũ Định. Đến
đời Lý, thuộc vào đất Thái Nguyên. Vào đầu triều Lê, Cao Bằng thuộc Bắc
đạo, rồi đặt vào Ninh Sóc thừa tuyên, sau đổi thành Cao Bình phủ. Đến thời
nhà Mạc thất thế chạy lên Cao Bằng, đóng đô ở Cao Bình với 3 đời vua, tổng
cộng 70 năm. Việc nhà Mạc đưa nhiều người lên cư trú tổ chức cai trị, mở các
7



khoa thi đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống xã hội của mảnh đất biên cương
này. Khi nhà Lê dẹp xong nhà Mạc mới đặt tên vùng này là Cao Bằng và
không để thuộc vào Thái Nguyên nữa. Đến thời Nguyễn, Cao Bằng được đặt
làm Hiệp trấn, sau đổi thành phủ Trùng Khánh. Đến năm 1831 đặt thành tỉnh
Cao Bằng, bỏ chế độ thổ mục. Sau này ranh giới của tỉnh Cao Bằng ít nhiều
có sự thay đổi. Ngày 22/12/1975 Cao Bằng hợp nhất với Lạng Sơn thành tỉnh
Cao Lạng. Đến ngày 29/12/1978, tỉnh Cao Bằng được tái lập.
Hành chính và các đơn vị trực thuộc: Năm 1950, tỉnh Cao Bằng có 10
huyện: Bảo Lạc, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Phục Hòa,
Quảng Uyên, Thạch An, Trấn Biên, Trùng Khánh. Năm 1958, huyện Trấn
Biên đổi tên thành huyện Trà Lĩnh. Năm 1963, thành lập thị trấn Tĩnh Túc
trực thuộc tỉnh Cao Bằng Quyết định số 26-CP ngày 14 tháng 3 năm 1963.
Đến năm 1981, chuyển thị trấn Tĩnh Túc trực thuộc huyện Nguyên Bình
Quyết định số 44-HĐBT ngày 1 tháng 9 năm 1981. Năm 1966, thành lập
huyện Thông Nông trên cơ sở tách ra từ huyện Hà Quảng theo Quyết định số
67-CP ngày 7 tháng 4 năm 1966. Năm 1967, hai huyện Phục Hòa và Quảng
Uyên hợp nhất thành huyện Quảng Hòa theo Quyết định số 27-CP ngày 8
tháng 3 năm 1967. Năm 1969, giải thể huyện Hạ Lang, nhập vào hai huyện
Quảng Hòa và Trùng Khánh theo Quyết định số 176-CP ngày 15 tháng 9 năm
1969. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Cao Bằng được sáp nhập với tỉnh
Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng. Ngày 29 tháng 12 năm 1978 tái lập tỉnh Cao
Bằng từ tỉnh Cao Lạng, đồng thời nhập hai huyện Ngân Sơn và Chợ Rã của
tỉnh Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VI, kỳ
họp thứ 4, ngày 29 tháng 12 năm 1978. Lúc đó tỉnh Cao Bằng có tỉnh lị là thị
xã Cao Bằng và 11 huyện: Bảo Lạc, Chợ Rã, Hà Quảng, Hòa An, Ngân Sơn,
Nguyên Bình, Quảng Hòa, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được thị xã Cao Bằng và
đã hủy diệt hầu như toàn thị xã, các công trình kiến trúc đã bị phá tan tành, kể

8


cả chùa chiền đền miếu. Khu di tích chủ tịch Hồ Chi Minh tại hang Pác Bó,
xã Trường Hà, huyện Hà Quảng cũng bị chúng đặt bom mìn phá sập cửa hang
và các di tích của Bác, bức bia đá Bác viết khi vừa trở về Tổ quốc cũng bị nứt
làm đôi. Năm 1981, tái lập huyện Hạ Lang từ các xã đã nhập vào hai huyện
Quảng Hòa và Trùng Khánh theo Quyết định số 44-HĐBT ngày 1 tháng 9
năm 1981. Năm 1984, huyện Chợ Rã đổi tên thành huyện Ba Bể theo Quyết
định số 144-HĐBT ngày 6 tháng 11 năm 1984. Năm 1996, trả hai huyện Ngân
Sơn và Ba Bể về tỉnh Bắc Kạn mới tái lập. Năm 2000, chia huyện Bảo Lạc
thành huyện Bảo Lạc mới và huyện Bảo Lâm theo Nghị định số 52/2000/NĐCP ngày 25 tháng 9 năm 2000. Năm 2001, tái lập hai huyện Phục Hòa và
Quảng Uyên từ huyện Quảng Hòa ngày 13 tháng 12 năm 2001. Năm 2012,
chuyển thị xã Cao Bằng thành thành phố Cao Bằng theo Nghị quyết 60/NQCP ngày 25 tháng 8 năm 2012.Tỉnh Cao Bằng bao gồm 1 thành phố và 12
huyện.
1.3. Những giá trị văn hóa đặc sắc
1.3.1. Đặc điểm kinh tế
Nông nghiệp: Người dân Cao Bằng trước đây có truyền thống làm
ruộng nương do chưa biết áp dụng khoa học kĩ thuật và chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm là chính nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Từ sau năm 1986, nhờ
áp dụng khoa học kỹ thuật và có phương thức canh tác hợp lí nên bây giờ chủ
yếu là làm ruộng nước với các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng,
đáp phai, làm cọn nước để lấy nước tới ruộng đã làm cho sản lượng thóc thu
được tăng lên và diện tích canh tác được mở rộng. Ngoài trồng lúa nước thì
lúa nương vẫn còn được trồng nhưng không phổ biến, bên cạnh đó còn trồng
thêm hoa màu. Ở những nơi có đủ nước thì được cấy hai vụ lúa mùa và đông
xuân còn những đám ruộng cạn thì đồng bào tranh thủ trồng ngô xuân. Sau
khi gặt xong vụ lúa mùa thì lại tiếp tục cấy vụ thứ hai và khi thu hoạch vụ hai
thì họ lại trồng tiếp vụ hoa màu như khoai tây và các loại rau phục vụ cho
9



sinh hoạt hàng ngày và đem ra chợ bán. Ngoài ra họ còn tròng xen canh gối
vụ trên các loại đất. Xen canh với ngô ở trên nương có các loại đậu nhất là
đậu tương. Khi thu hoạch ngô xong họ thường trồng khoai lang. Hiện nay,
người dân Cao Bằng áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, dùng máy bừa
thay trâu bò, lao động được phân công hợp lí nên sản xuất phát triển, đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện.
Chăn nuôi: Người dân Cao Bằng chủ yếu chăn nuôi các loại gia cầm
như gà, vịt, lợn, ngan, ngỗng... Còn gia súc nuôi chỉ dùng để lấy sức kéo và
phân bón chú không nuôi thành đàn để tăng gia và chăn nuôi chuyên nghiệp.
Mỗi gia đình thường có 2 – 3 con trâu hoặc bò nhiều nhất là 9 – 10 con. Bên
cạnh đó có gia đình còn nuôi thêm cá kết hợp với trồng cây ăn quả và nuôi
thêm gia cầm làm thành mô hinh VAC cho hiệu quả kinh tế cao.
Thủ công nghiệp: Do cuộc sống mang tính tự cấp, tự túc nên các nghề
thủ công của gia đình được chú ý, họ tự đan đồ dùng như cót bồ, dậu, rổ, ghế
mây, ghế trúc, tự nuôi tằm dể lấy sợi và tự dệt vải và nhuộm chàm... hầu hết
các gia đình đều có khung cửi nên phần lớn các gia đình có thể tự túc được
các loại vải làm chăn màn, quần áo, khăn mặt. Ngoài ra, họ còn dệt thổ cẩm
với nhiều hoa văn rất đẹp và đang được coi là mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở
nhiều địa phương. Nhu cầu trao đổi hàng hóa phát triển nên ở làng, xã đã hình
thành chợ cứ 5 ngày họp chợ một lần dể người dân có thể trao đổi, mua bán
các mặt hàng do chính họ sản xuất với nhau và với các địa phương khác.
1.3.2 Nhà ở
Nhà ở của người dân Cao Bằng có hai loại hình cơ bản: nhà sàn và nhà
đất. Ngoài ra còn có nhà nửa sàn nửa đất.
Nhà ở truyền thống của người dân Cao Bằng là nhà sàn làm theo kiểu
vì kèo, cột bằng gỗ, mái được lợp bằng lá tranh hay ngói ta và được chia
thành ba đến năm gian. Xung quanh nhà dùng ván hay những liếp cây mai
hay cây nứa để bao quanh. Nhà sàn chủ yếu là nhà hai mái, được dựng với

10


thiết kế hợp lý. Từ sàn, gác, mặt sàn cho đến gầm sàn đều được sử dụng trong
sinh hoạt và sản xuất. Trong nhà, gác có thể làm ở tất cả các gian (trừ gian
bàn thờ) dùng để đặt bồ đựng các sản phẩm trồng trọt như thóc, khoai,
sắn...và các dụng cụ dệt vải... Gầm sàn là nới có thể nhốt gia súc hay để các
nông cụ như cày, bừa, cối xay... Hiện nay, người dân Cao Bằng cũng ở nhà đất
đồng thời có nhiều thay đổi so với nhà sàn truyền thống: nhỏ về quy mô, đơn
giản về kết cấu bộ sườn, bố cục trong nhà cũng khác, kỹ thuật làm mái, dựng
vì kèo hầu hết là đục lỗ mộng tạo lỗ khí làm tường, được xây bằng gạch hay
đá. Trong nhà ngăn thành từng phòng riêng cho nam, nữ.
Nhà mới: Người dân Cao Bằng cho rằng, việc làm nhà mới hết sức
quan trọng trong đời sống một con người. Khi làm nhà phải chọn đất, chọn
hướng, xem tuổi, chọn ngày. Ngày vào nhà mới cũng là ngày họ dọn về nhà
mới ở. Họ mời thầy cúng về để làm các nghi lễ vào nhà mới, trước tiên dọn
một số đồ vật như bát hương để rước tổ tiên về trông nhà và bảo vệ cho gia
đình cũng như gia súc, gia cầm khỏi ma quỷ và sinh sôi nảy nở tiếp đó là lấy
thêm giá bếp, gánh nước, bình vôi...họ chất một đóng củi ở giữa bếp mới rồi
mời những người già của họ hàng có tư cách đạo đức tốt, làm ăn giỏi, đông
con cái mỗi người cầm một bó đuốc đi từ bốn góc nhà ra châm vào đống lửa
sau đó giữ cho lửa không được tắt làm như vậy họ mong sẽ làm ăn được dễ
dàng, thuận lợi và gặp nhiều may mắn.
1.3.3 Phong tục tập quán
Ẩm thực: Gạo tẻ là thức ăn chủ yếu trong bữa ăn hàng ngày, gạo nếp
trước đây chỉ dùng vào dịp lễ tết, hội hè, tiếp khách còn bây giờ ngoài dùng
cho các việ chính ra gạo nếp cũng được dùng trong các bữa ăn hàng ngày
được chế biến thành các loại bánh, đồ xôi, làm rượu...ngoài gạo tẻ và gạo nếp
còn có thêm ngô, khoai, sắn cũng được dùng để luộc ăn kèm. Người dân Cao
Bằng ăn hai bữa chính là bữa trưa và bữa tối, một bữa phụ vào buổi sáng.

Thực phẩm dành cho bữa ăn là rau, măng, đậu là chủ yếu. Ngoài ra con có
11


thịt, cá, cua, ốc... Những ngày lễ tết, ngoài các thứ bánh còn có thịt gà, lợn,
vịt, cá rán là những món ăn được chấ biến đặc biệt. Gạo tẻ được xay thành bột
để làm bánh đúc, bánh đa... Những món ăn truyền thống được chế biến từ gạo
nếp lại càng phong phú hơn như thóc nếp còn non được cát về làm cốm hay
gạo nếp được đồ lên để làm xôi ngũ sắc với các màu đỏ, xanh, tím,vàng, đen,
Nếp được làm để gói bánh chưng, bánh dày, bánh khảo, bánh tép... ngoài ra
còn làm bánh trứng kiến, cơm lam. Mọi thành viên trong gia đình đều ăn
chung một mâm, không phân biệt trai, gái, dâu, rể, nội, ngoại, chỉ phân biệt
chủ với khách. Khách được ưu đãi hơn, người già, trẻ con được ưu tiên khẩu
phần thức ăn ngon hơn. Trong bữa cơm khi có khách ăn cùng còn có thêm
rượu để uống để bày tỏ lòng mến khách. Rượu được dùng chủ yếu trong các
đám cưới, đám tang và trong dịp tết.
Chợ: Chợ phiên của người dân Cao Bằng ngoài mục đích là nơi trao
đổi mua bán cc̣n mang nhiều ư nghĩa khác. Người dân ngày ngày lên nương
rẫy, ra đồng ruộng nên mong đến chợ phiên để được đi chợ gặp mặt anh chị
em và những người thân quen... hay có “việc nhà việc cửa” nhắn gửi lời cho
người thân ở những bản khác biết, nhất là việc “ra thiếp báo cưới” do đường
đi lại còn nhiều khó khăn, phương tiện đi lại còn nghèo nàn nên mỗi khi đến
chợ phiên họ thường hay rủ nhau đi chợ vì thế mà phiên chợ của người dân
Cao Bằng rất đông người. Do có nhiều người từ tất cả các xã đến nên các mặt
hàng trao đổi mua bán cũng khá đa dạng để mọi người có thể trao đổi với
nhau.
Cưới xin: Trước đây, việc cưới xin là việc của bố mẹ, con cái không
được tự do tìm hiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy và phải nghe lời gia đình.
Nếu có chuyện gì mà không thông qua họ hàng, làng xóm biết như: không có
chồng mà mang thai thì sẽ bị mọi người khinh bỉ và hắt hủi. Nhưng bây giờ,

con cái có thể tự do tìm hiểu với nhau, cha mẹ cũng không bắt ép con cái phải
làm theo ý mình mà cha mẹ sẽ là người định hướng giúp cho con cái có thể
12


tìm hiểu và lựa chon được một người ban đời tốt và phù hợp với mình. Trong
thủ tục cưới xin cuả người dân Cao Bằng phải trải qua các bước: tìm hiểu lá
số xem họ có hợp nhau hay không, tiếp đến là lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới.
Sau khi cưới, trước đây cô dâu chưa về ở bên nhà chồng mà ở nhà bố mẹ đẻ
cho tới khi có mang sắp tới ngày sinh nở hay ít nhất phải một năm sau ngày
cưới thì mới về nhà chồng. Còn bây giờ thì cách nhìn nhận và suy nghĩ của
mọi người không khắt khe như trước nên cũng có người cưới xong thì về ở
nhà chồng luôn hay sau vài tháng thì mới về.
Sinh đẻ: Người dân Cao Bằng quan niệm vạn vật hữu linh, họ cho rằng
mọi vật xung quanh đều có thể tác động có lợi hay có hại cho con người nhất
là những đứa trẻ mới sinh. Vì vậy, khi đầy tháng họ mời thầy mo, then đến
làm lễ đặt bàn thờ mụ, lễ đặt tên và lam các nghi lễ khác để không cho ma
quỷ có thể nhập vào đứa trẻ được. Sau các nghi lễ đó, họ sẽ mời một người có
đạo đức phẩm chất tốt, có trình độ học vấn cao đến để làm lễ đi học cho đứa
trẻ cầu mong rằng đứa trẻ khi lớn lên đi học sẽ giỏi giang và đạt được kết quả
tốt mà cha mẹ và họ hàng mong muốn.
Ma chay: Người dân Cao Bằng cũng như nhiều dân tộc khác đều quan
niệm rằng, linh hồn người chết khi sang thế giới bên kia họ vẫn sinh hoạt và
có những nhu cầu như người sống. Bởi thế, trước khi chôn cất người chết họ
phải lo thật chu đáo với rất nhiều nghi lễ, phong tục. Quá trình thực hiện các
nghi lễ thủ tục trong đám tang nhất thiết phải do ông thầy tào đảm nhiệm.
Là một tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, Cao Bằng có nền văn hoá
truyền thống rất phong phú. Người Tày chiếm số lượng khá lớn trong tỉnh,
sống hầu hết ở các huyện. Họ có truyền thống văn hoá lâu đời, có chữ viết
riêng, có điều kiện kinh tế khá hơn các dân tộc khác. Nét đặc sắc về văn hoá

của người Tày được thể hiện trong các hội làng, ca hát đối đáp, hát ví, hát
then. Về nhạc cụ, đàn tính là loại đàn dân tộc đặc trưng của người Tày. Dân
tộc Nùng sống đan xen với dân tộc Tày nên về mặt văn hoá chịu nhiều ảnh
13


hưởng của dân tộc Tày. Dân tộc Dao sống chủ yếu ở vùng núi thấp, văn hoá
còn ít nhiều hạn chế, đặc biệt còn lưu lại nhiều tập tục lạc hậu. Dân tộc
H’Mông sống trên các vùng núi cao hẻo lánh, có ngôn ngữ thuộc nhóm Mông
– Dao. Họ thường sử dụng các loại nhạc cụ như khèn và đàn môi để gọi bạn
tình và ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống quê hương.
1.4. Con người
Người dân Cao Bằng hầu như không có một tôn giáo nào chiếm vị trí
cao nhất, không có một vị thần chúa tể nào. Tiêu biểu nhất trong tín ngưỡng
của người dân Cao Bằng là tục thờ cúng tổ tiên. Trước hết, họ thờ thần gia
đình là chính. Bên cạnh đó, họ cũng thờ các thần khác như: thổ công, thổ địa
và các vị thánh (gọi là slấn), thờ thần sông, thần núi, thần cây... và tiến hành
các tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp.
Người dân Cao Bằng cũng tin vào ma quỷ gọi là “phi” theo tiếng Việt
nghĩa là “ma”. Họ cho rằng mọi người chết đi đều thành “phi” nhưng có sự
phân biệt giữa “phi” thiện và “phi” ác. Cho nên người dân Cao Bằng phải thờ
cúng cả hai loại “phi” này để được bình yên.
Với người dân Cao Bằng tổ tiên được thờ cúng trong từng căn nhà
không phân biệt gia đình đó thuộc dòng họ trưởng hay thứ. Sau khi bố mẹ qua
đời, vong linh được rước về thờ tại mỗi gia đình. Bàn thờ được đặt tại nơi
trang trọng nhất và được trang trí cẩn thận. Mỗi tháng hai lần vào ngày mùng
1 và 15 âm lịch chủ nhà thắp hương và đồ cúng lên bàn thờ.
Mỗi khi gia đình có việc như làm nhà mới, sinh đẻ, đám cưới hoặc đám
tang thì phải cúng bái và mời tổ tiên về chứng giám.
Tiểu kết

Là tỉnh miền núi vùng cao biên giới, xa các trung tâm kinh tế lớn của
vùng Đông Bắc và cả nước nhưng Cao Bằng lại có ba cửa khẩu là Tà Lùng,
Hùng Quốc và Sóc Hà. Đây là lợi thế quan trọng, tạo điều kiện cho tỉnh giao
lưu kinh tế với bên ngoài, nhất là Trung Quốc. Tuy nhiên, tỉnh Quảng Tây
14


(Trung Quốc) lại là một tỉnh nghèo, dân số đông, có thế mạnh về thị trường
tiêu thụ nhưng cũng là sự canh tranh gay gắt trong các mối qn hệ mua bán,
chất lượng hàng hoá, giá thành. Trong nước, Cao Bằng cũng có thể giao lưu
với một số tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn ... nhưng do địa hình núi non, giao thông
kém nên mức độ phát triển chỉ trong một chừng mực nhất định. Hơn nữa, việc
giao lưu chỉ chủ yếu bằng đường bộ nên cũng ảnh hưởng nhiều đến việc phát
triển kinh tế, xã hội của Cao Bằng. Cao Bằng hàng năm có nhiều lễ hội truyền
thống của các dân tộc sinh sống trong vùng như hội mời Mẹ Trăng, hội Lồng
Tồng, hội chùa, hội Thanh minh… Mỗi dân tộc, từng vùng có loại hình dân ca
riêng. Người Tày có làn điệu Lượn, Hát then, Lượn Slương, Lượn cọi, Lượn
ngạn. Người Nùng có Lượn phủ, Lượn tại, Lượn Hèo phơn Nùng an, Sli
giang, Nàng ới. Người Dao có Páo Dung.

15


CHƯƠNG 2
THÁC BẢN DỐC – MỘT ĐIỂM ĐẾN HẤP DẪN CỦA
TỈNH CAO BĂNG
2.1. Vị trí địa lý
Thác Bản Giốc, Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên-Bản Ước là một
hoặc hai thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía

tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ
quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân,
thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này
cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc, cách thủ phủ
Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km. Thác Bản Giốc bao gồm cả thác
chính và phụ với tổng chiều rộng là 208 m. Thác Bản Giốc được chia thành
hai phần, phần ở phía Nam gọi là thác Cao, đây là thác phụ vì lượng nước
không lớn. Thác Thấp là thác chính nằm ở phía Bắc trên biên giới Việt Trung.
2.2. Giá trị cảnh quan
Thác Bản Giốc là thác nước lớn thứ tư thế giới trong các thác nước nằm
trên một đường biên giới giữa các quốc gia (Sau thác Iguazu giữa Brasil Argentina, thác Victoria nằm giữa Zambia - Zimbabwe; và thác Niagara giữa
Canada và Hoa Kỳ). Tuy nhiên, theo Tân Hoa xã thì thác Bản Giốc là thác
xuyên quốc gia lớn thứ hai trên thế giới. Thác Bản Giốc là thác nước tự nhiên
lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Thác Bản Giốc nằm trên dòng chảy của sông
Quây Sơn. Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy về hướng biên giới hai
nước rồi vào lãnh thổ Việt Nam tại Pò Peo thuộc xã Ngọc Khê, huyện Trùng
Khánh. Từ xã Ngọc Khê, sông chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, khi
đến xã Đàm Thuỷ, dòng sông lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi qua
16


các cánh đồng của Đàm Thuỷ, qua bãi ngô trên bản Giốc, quay trở lại đường
biên giới rồi tách ra thành nhiều nhánh. Lòng sông ở đó đột ngột trụt xuống
khoảng 35 m, tạo thành thác Bản Giốc. Sau khi đổ xuống chân thác, sông
quay hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Giữa thác có một mô đất rộng phủ đầy
cây, xẻ dòng sông thành ba luồng nước. Vào những ngày nắng, làn hơi nước
bắn ra từ thác tạo thành cầu vồng. Dưới chân thác là mặt sông rộng với hai
bên bờ là những thảm cỏ và vạt rừng. Cách thác khoảng hơn 5 km có động
Ngườm Ngao, dài 3 km. Ở giữa thác chính là cột mốc biên giới Việt-Trung.

Cột mốc này được xác định qua hiệp ước về biên giới giữa hai nước năm
1999 là cột mốc 53 do Pháp - Thanh xây dựng. Theo hiệp ước 1999, phần
thác phụ hoàn toàn thuộc về Việt Nam, phần thác chính chia đôi. Thác Bản
Giốc cũng đã đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp
ảnh đặc sắc. Ngoài giá trị du lịch và nghệ thuật, thác cũng có tiềm năng thủy
điện. Ngoài ra, tại Việt Nam, cũng có nhận định cho rằng thác Bản Giốc là
thác nước đẹp nhất của quốc gia. Theo thống kê của Sở Văn hóa - Thể thao Du lịch của tỉnh Cao Bằng, mỗi năm Việt Nam có khoảng 30.000 người đến
thăm Bản Giốc, còn phía Trung Quốc đón gần 1 triệu lượt người. Ngày 8
tháng 12 năm 2012, Tổng công ty du lịch Sài Gòn (Saigontourist) đã làm lễ
động thổ xây dựng khu nghỉ dưỡng Sài Gòn - Bản Giốc tại xã Đàm Thủy. Dự
kiến, khu nghỉ dưỡng Sài Gòn-Bản Giốc có tổng kinh phí đầu tư khoảng 170
tỉ đồng, đạt tiêu chuẩn 4 sao và đưa vào khai thác cuối năm 2013. Thác Bản
Giốc Thác Bản Giốc có độ cao 53m và chiều rộng 300m, chia thành ba tầng,
gồm nhiều ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Từ trên cao những khối nước lớn đổ
xuống qua nhiều bậc đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xóa. Bản Giốc
Từ Hà Nội ngược lên biên giới Việt Trung, qua bao nhiêu sông suối, thác
ghềnh du khách sẽ đến một vùng đất cao, núi rừng trùng điệp, đèo heo hút
gió, và bằng phẳng như chính tên gọi của nó. Cao Bằng. Đây là quê hương
của nhưng tấm thổ cẩm Tày-Nùng đẹp rực rỡ, của cây hồi, dầu hồi, của lê
17


Đông Khê, mận Thất Khê, hạt dẻ Trùng Khánh, thạch đen Quảng Hòa nổi
danh với những di tích lịch sử và những cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ nhưng
cũng rất đỗi thanh bình. Theo con đường dốc nằm giữa các ngọn đồi xanh rì,
qua cây cầu ván thơ mộng bắc trên dòng suối nhỏ trong vắt, chúng tôi tiến dần
về phía thác. Trong cuốn Dư địa chí Cao Bằng có viết: “Con sông Quây Sơn
chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam qua Bản Giốc, xã Đàm Thủy, huyện Trùng
Khánh thì tách ra thành nhiều nhánh rồi đột ngột hạ thấp xuống 35 m tạo
thành thác có 3 tầng”. Nhờ những triền đá, mỏm đá, bậc đá, kè chắn… lởm

chởm, mấp mô, dòng nước sông Quây Sơn bị chia thành nhiều nhánh, tạo nên
vẻ đẹp kỳ diệu hiếm có của thiên nhiên nơi này. Thác Bản Giốc bao gồm hai
phần: Thác chính ở phía bắc là “thác ba tầng”, gồm ba bậc nước chênh nhau
đến 34m. Thác phụ ở phía nam cũng gồm ba dòng thác, nhưng nằm ở độ cao
ngang nhau, cao hơn thác chính nên được gọi là “thác cao”. Hai phần thác
chính và phụ của Bản Giốc ngăn cách nhau bằng một ngọn đồi xanh ngắt.
Ngày đêm thác nước cuồn cuộn đổ xuống những tảng đá phẳng làm tung lên
vô vàn hạt bụi li ti trắng xóa như sương khói, bao trùm cả không gian. Vào
những ngày nắng, làn hơi nước tạo thành cầu vồng lung linh huyền ảo. Dưới
chân thác là mặt hồ rộng, phẳng lặng, nước trong vắt, soi bóng thác đổ. Bên
bờ hồ là những thảm cây cỏ, lúa xanh rì. Để đến tận nơi chiêm ngưỡng dung
nhan “công chúa”, chúng tôi lên chiếc bè (mảng), do người bản địa chèo lái.
Sau chút chênh chao ban đầu, chiếc bè băng băng lướt trên mặt hồ, đưa cả
đoàn thẳng tiến về phía trước. Sau khi dạo một vòng quanh thác, chiếc bè áp
sát vào chân thác. Càng đến gần, không khí càng mát rượi trong màn bụi nước
bãng lãng sương khói. Ai cũng ấn tượng trước Bản Giốc cuốn hút, đẹp đến
ngỡ ngàng.
Những dòng thác lớn thế giới luôn có một sức hút kì lạ với những ai
yêu thích vẻ đẹp tự nhiên. Đến Việt Nam, mà cụ thể là Cao Bằng, du khách sẽ
có dịp thưởng thức vẻ đẹp của một trong những thác nước lớn nhất thể giới,
18


Thác Bản Giốc. Nó được xem là thác nước lớn thứ tư thế giới và cũng là thác
nước tự nhiên lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Thác Bản Giốc với vẻ đẹp hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng
của Việt Nam là thác nước lớn thứ tư thế giới. Thác Bản Giốc, ngọn thác đẹp
nhất Việt Nam, là một trong những tặng vật vô giá mà thiên nhiên ban tặng
cho Cao Bằng nằm trên đường biên giới Việt Trung thuộc xã Đàm Thủy,
huyện Trùng Khánh cách thành phố Cao Bằng 89 km.

Từ trung tâm Thành phố, theo con đường quanh co, uốn lượn quanh
những chân núi là hành trình đến với danh thắng Bản Giốc. Chứng kiến
khung cảnh hùng vĩ nên thơ của những dòng sông, con suối nhỏ và màu xanh
ngút ngát của những cánh rừng hai bên đường, xe đưa du khách qua đèo Mã
Phục, vượt đèo Liêu đến thị trấn vùng biên Trùng Khánh.
Đường tới thác nước nổi tiếng thế giới này cũng là hành trình hết sức
thú vị với những trải nghiệm với thiên nhiên tươi đẹp.
Tiếng thác nước và không khí trong lành, mát lạnh là những gì mà du
khách có thể tận hưởng ngay khi gần tới địa phận của con thác nổi tiếng này.
Từ thị trấn vượt qua xã Đàm Thủy, từ xa du khách đã nhận ra thác bởi một
vùng hơi nước trắng mờ bốc cao với những đám mây bụi li ti. Phóng hết tầm
mắt ngắm nhìn từ trên cao, Thác Bản Giốc nằm trên dòng sông Quây Sơn
hiền hoà bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt Nam thuộc các xã: Ngọc
Khê, Phong Nặm, Ngọc Côn, Đình Phong, Chí Viễn, đến xã Đàm Thủy đột
ngột hạ xuống tạo nên một ngọn thác đẹp tuyệt diệu và có thể nói là hùng vĩ
nhất Việt Nam.
Thác Bản Giốc có độ cao 53 m, rộng 300 m, từ trên cao những khối
nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc núi đá vôi. Giữa thác có một mô đá rộng
phủ đầy cây xanh chia dòng sông thành 3 dòng nước trắng xóa nguyên sơ
hùng vĩ ào ào giội xuống thành những ngọn thác lớn nhỏ khác nhau.

19


Những khối nước lớn cuồn cuộn tuôn chảy không ngừng đổ xuống qua
nhiều bậc đá vôi, tạo thành một bụi nước trắng xóa bay ngang lưng chừng núi.
Hơi nước bốc lên tạo thành một màn sương mù như một dải lụa trắng vắt
ngang qua sườn núi, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Những ngày trời nắng, ánh
nắng chiếu vào dòng thác qua làn nước bụi mù mịt tạo nên những chiếc cầu
vồng lung linh huyền ảo. Sắc màu hòa cũng nhịp chảy của dòng thác mênh

mông như cuốn trôi tất cả những phiền muộn, lo âu thường ngày để du khách
đắm mình với thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ mà không kém phần thơ mộng này.
Dòng chảy của những con thác đổ dồn vào con sông xùng hòa bang tiếng ca
bất tận.
Sức quyến rũ của Thác Bản Giốc là sự kết thành của rất nhiều nhánh
thác nhỏ, đổ dồn vể con sông, tạo thành trường ca bất tận của tiếng thác. Âm
thanh mạnh mẽ, hùng vĩ và vẻ đẹp bí ẩn, hoang sơ của Thác Bản Giốc là kết
tinh vẻ đẹp của tự nhiên.
Nhìn kĩ, thác chính có địa hình thấp nhưng sức nước tuôn mãnh liệt.
Dải nước rộng phía bên trái tràn ra thành thác phụ với rất nhiều “dây” nước
mảnh đan xen, uốn cong như bức rèm vĩ đại đầy ngẫu hứng của thiên nhiên.
Vì thế, Thác Bản Giốc được ví như vẻ đẹp nguyên sơ của người phụ nữ Tày
nơi đỉnh núi mù sương hoặc tựa như mái tóc nàng tiên bị bỏ quên vắt ngang
đỉnh núi.
Dưới chân Thác Bản Giốc là dòng sông Quây Sơn phẳng như gương,
trong vắt lồng lộng soi bóng mây trời, du khách có thể thuê mảng tre dạo một
vòng quanh chân thác, chèo ra đến giữa dòng cảm nhận vẻ đẹp quyến rũ của
thác nước. Hai bên bờ là phong cảnh nên thơ với những ruộng lúa, bãi cỏ
xanh mướt.
Vào những ngày mùa xuân, dòng thác đổ như những dải lụa dịu dàng,
tạo khung cảnh nên thơ trữ tình cho vẻ đẹp non nước Cao Bằng. Khi hè tới,
dòng sông Quây Sơn dồi dào, dòng thác mới thực sự phô diễn hết vẻ đẹp
20


hùng vĩ và mạnh mẽ. Làn hơi nước bắn ra từ thác gặp nắng, tạo thành những
chiếc cầu vồng 7 sắc cực kì lạ mắt và kì thú.
Đến với Thác Bản Giốc, du khách được ngắm những chiếc nhà sàn của
người dân tộc Tày tại Bản Giốc nhỏ nhắn, gặp những chiếc cọn nước bằng gỗ
kẽo kẹt quay miệt mài ngày đêm, bẳn sắc đặc trưng của người miền núi.

Những hoạt động thường nhật của người dân tộc nơi đây trên con sông, dưới
thác hùng vĩ này chính là một phần làm nên phong vị riêng của Thác Bản
Giốc. Những con thuyền nho nhỏ và cuộc sống của người dân tộc nơi đây đã
làm giàu có hơn cho cảnh sắc của Thác Bản Giốc. Vẻ đẹp của dòng thác tự
nhiên kết hợp với phong cảnh trữ tình của những nhà sàn dân tộc miền núi
chắc chắn sẽ mang đến cho mọi du khách cảm nhận về một không gian
thoáng đãng, mát mẻ, bình yên và thanh tịnh. Cảnh sắc Thác Bản Giốc sẽ khó
mà diễn tả trong vài dòng bút. Điều chắc chắn rằng, phải đến tận nơi, tận mắt
chứng kiến tất cả mới thấy được sức quyến rũ của dòng nước tự nhiên tuyệt
đẹp này.
2.3. Giá trị văn hóa xung quanh khu vực
Tìm đến huyện Trùng Khánh, nơi có những hạt dẻ thơm bùi nhất … mà
thỉnh thoảng trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội du khách có thể nhìn thấy
những chiếc xe chất đầy hạt dẻ cộng thêm cái biển “Hạt dẻ Trùng Khánh”
cùng lời rao lanh lảnh. Và Trùng Khánh cũng là nơi tìm đến của những kẻ
thích phiêu du hòa mình vào thiên nhiên, là nơi tìm đến của những nhà nhiếp
ảnh nổi danh, trong đó có Hoàng Thế Nhiệm. Bởi một lẽ đơn giản: Thác Bản
Giốc đẹp và hùng vĩ đã được tạo hóa sắp đặt ở chốn này. Hãy nhìn lại lần nữa
góc ảnh nổi tiếng trong tác phẩm nổi tiếng mà nhà nhiếp ảnh Hoàng Thế
Nhiệm đã ghi lại được trong bộ sưu tập “Việt Nam Toàn Cảnh”. Một buổi
chiều rất đỗi bình yên với những đứa trẻ ngồi ngả mình trên lưng trâu, những
con trâu đang chậm rãi gặm cỏ bên dòng nước từ thác Bản Giốc đổ trên cao
xuống trắng xóa và hòa mình vào mặt nước phẳng lặng. Bản Giốc.
21


“Anh muốn đưa em về thăm Bản Giốc Thác nước đầy vang vọng những
lời thơ Có những cây xanh trải dài con bóng Câu ca dao ai đặt thuở khai thời”
Nước nguồn chảy từ dòng sông Quây Sơn, Trung Quốc đổ vào Việt Nam tại
Pò Peo thuộc xã Đình Phong, Chí Viễn, khi đến xã Đàm Thủy, dòng sông

lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi qua các cánh đồng của Đàm Thủy,
qua bãi ngô trên làng Bản Giốc rồi tách ra thành nhiều nhánh, đột ngột hạ
thấp xuống tạo thành thác Bản Giốc. Thác Bản Giốc có độ cao 53m và chiều
rộng 300m, chia thành ba tầng, gồm nhiều ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Từ
trên cao những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi, tạo thành một
màn bụi nước trắng xóa. Dù đứng từ rất xa, chưa nhìn thấy những dòng thác,
nhưng du khách có thể nghe nghe thấy tiếng nước thác chảy ầm ào vang động
cả một vùng đất rộng lớn. Giữa thác có một mô đá rộng phủ đầy cây xẻ dòng
sông thành ba luồng nước như ba dải lụa trắng. Nước va vào đá tung lên thàn
mưa bụi bốc lưng chừng núi cao ven bờ, tạo thành những vàng sáng của cầu
vồng ngay trên thác. Vào những ngày hè oi ả, không khí ở đây vẫn mát lạnh
và vào mỗi ban mai, ánh mặt trời chiếu qua làn hơi nước đã tạo thành dải cầu
vòng lung linh huyền ảo. Dưới chân thác là mặt sông rộng, với bên bờ là
những thảm cỏ và vạt rừng … Thác Bản Giốc nổi tiếng với một loài cá tên
trầm hương. Cá trầm hương, một loại cá thịt rất thơm, thơm như mùi trầm. Đó
là do xung quanh thác có rất nhiều cây trầm hương mà rễ và lá đã rơi xuống
nước. Vào những năm hai mươi của thế kỷ trước, những mái nhà tranh được
dựng dọc bờ sông cho dân chúng giải trí và câu cá trầm hương. ” Thác Bản
Giốc được xem là một trong những tặng vật vô giá mà thiên nhiên ban tặng
cho Cao Bằng. Đó là một thác nước cao, hùng vĩ và đẹp vào bậc nhất của Việt
Nam. Bên cạnh nó là động Ngườm Ngao, dài khoảng 3km được đánh giá là
một rong những hang động đẹp của Việt Nam. Nhìn sang phía bên kia dòng
thác là cột biên mốc 53 phân chia biên giới Việt Trung.

22


Làng Bản Giốc nhỏ và xinh xắn với những mái nhà lợp rạ, lẩn khuất
sau con đường ngoằn ngoèo xuyên qua núi. Những chiếc cọn nước kẽo kẹt
quay mãi miết như chưa bao giờ được nghỉ ngơi. Dưới chân đèo Mã Phục,

những thửa ruộng bậc thang trông như một mảnh áo vá nhiều màu, xếp từng
bậc nối tiếp nhau lên trời. Ruộng bậc thang là đặc trưng của vùng núi phía
Bắc. Chọc lỗ tra hạt là phương thức canh tác của người dân địa phương. Dưới
mái nhà sàn, cuộc sống của người dân thật bình lặng, êm ả. Thấp thoáng đâu
đó là mấy bóng người đội mưa đi cấy. Trời hửng nắng, không gian chợt bừng
lên. Một chú bé con như người chỉ huy dàn nhạc, vung chiếc gậy nhỏ xíu, lùa
đàn trâu xuống gặm cỏ.
Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc tọa lạc trên diện tích 2ha ngay tại
thác Bản Giốc được khởi công từ ngày 15/6/2013 và khánh thành vào ngày
15/12/2014. Đây là ngôi chùa đầu tiên được xây dựng tại nơi biên cương phía
Bắc của Tổ quốc theo lối kiến trúc thuần Việt. Chùa được xây dựng nguy nga
và khang trang trên ngọn núi Phia Nhằm, thuộc xóm Bản Giốc, xã Đàm Thủy,
cách thác Bản Giốc khoảng 500m với đầy đủ các hạng mục như: Tam quan,
đền thờ vị anh hùng Nùng Trí Cao, lầu tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tam bảo,
nhà tổ, nhà tăng xá, bãi đỗ xe và các công trình phụ khác. Phía Bắc chùa giáp
tỉnh lộ 206 và thác Bản Giốc; phía Nam tựa vào núi Phia Nhằm; phía Đông
giáp với khu Resort Bản Giốc; phía Tây tiếp giáp khu dân cư xóm Bản Giốc.
Từ trên Chùa có thể nhìn bao quát được toàn bộ Thác Bản Giốc và một vùng
không gian rộng lớn phía dưới.
Kinh phí để xây dựng ngôi chùa tính tới thời điểm công trình hoàn
thành là khoảng gần 38 tỷ đồng. Nguồn kinh phí chủ yếu từ nguồn xã hội hóa
do Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam huy động, các Tập đoàn và các
Nhà hảo tâm đóng góp và tài trợ.
Chùa Phật tích Trúc lâm Bản Giốc là công trình thiết thực, phục vụ nhu
cầu tôn giáo tâm linh và có tầm quan trọng trong việc phát triển Khu du lịch
23


thác Bản Giốc thành Khu du lịch trọng điểm Quốc gia. Sự hiện diện của ngôi
chùa tại Thác Bản Giốc góp phần nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào

các dân tộc và sự bình yên, hữu nghị tại khu vực biên giới, đồng thời cũng
thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Trùng
Khánh nói riêng.
Trải qua thời gian, thiên nhiên và lịch sử đã ban tặng cho Cao Bằng
nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, cùng với những di tích lịch sử, văn hoá
và các giá trị nhân văn khác... Đó là nguồn tài nguyên vô giá, là tiềm năng để
phát triển du lịch thành một ngành kinh tế quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của tỉnh.
Trong những năm gần đây, nguồn tài nguyên du lịch đã từng bước được
quan tâm đầu tư khai thác, giải quyết được công ăn việc làm, tạo thêm nguồn
thu nhập cho nhân dân các địa phương có tiềm năng du lịch như các khu di
tích lịch sử Pác Bó, thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, hồ Thăng Hen.... góp
phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội địa phương.
Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý, khai thác nguồn tài nguyên du lịch,
xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, việc thực hiện các
quy định của pháp luật chưa nghiêm; mặt khác quá trình công nghiệp hoá,
khai thác khoáng sản, khai thác gỗ làm gia tăng các nguồn thải gây ô nhiễm,
suy thoái, phá vỡ cảnh quan môi trường; quá trình đô thị hoá cũng gây nên
nhiều vấn đề môi trường bức xúc; điều kiện vệ sinh, cung cấp nước sạch
nhiều nơi chưa đảm bảo, làm hạn chế sức hấp dẫn du lịch và hiệu quả thu
được còn rất thấp chưa tương xứng với tiềm năng.
Tiểu kết
Thác Bản Giốc được xem xét đến vai trò là khu du lịch trọng điểm quốc
gia, là điểm đến quan trọng trong tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng (tuyến Cao
Bằng- Bắc Kạn- Thái Nguyên- Đồng bằng Bắc Bộ và tuyến Lạng Sơn- Cao
24


Bằng- Hà Giang). Đồng thời, phân tích, đánh giá hiện trạng về điều kiện tự

nhiên, kinh tế xã hội, sử dụng đất, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, môi trường và
tài nguyên thiên nhiên...Trong đó chú trọng tới phân tích những ảnh hưởng
tiêu cực và tích cực tới khu vực khai thác xây dựng khu du lịch và những tác
động trong quá trình khai thác các sản phẩm du lịch. Giá trị cảnh quan thác
Bản Giốc, sông Quây Sơn và hệ thống núi đồi, hang động (động Ngườm
Ngao). Coi đó là những yếu tố đặc trưng của khu du lịch cần đầu tư, khai thác
và sử dụng có hiệu quả nhất. Định hướng phát triển không gian, quy hoạch sử
dụng đất, hệ thống hạ tầng xã hội và du lịch, thiết kế đô thị nhằm tạo dựng
hình ảnh đặc trưng cho Khu du lịch thác Bản Giốc trở thành khu du lịch dịch
vụ sinh thái, tiện nghi, hấp dẫn, bền vững và hiệu quả.

25


×